Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao kỹ năng dạy nói tiếng anh cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.83 KB, 33 trang )

PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG

TRƯỜNG TIỂU HỌC HỢP THỊNH

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: Một số giải pháp nâng cao kỹ năng dạy nói tiếng Anh cho
học sinh Tiểu học.
Tác giả sáng kiến: Cao Thị Ánh Tuyết

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊNTam
CỨU,
ỨNGnăm
DỤNG
Dương,
2019SÁNG KIẾN
1


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

1. Lời giới thiệu
Tiếng Anh, là ngôn ngữ toàn cầu.Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức
của hơn 53 quốc gia và vùng lãnh thổ, là ngôn ngữ chính thức của EU và là
ngôn ngữ thứ 3 được nhiều người sử dụng nhất chỉ sau tiếng Trung Quốc và Tây
Ban Nha. Các sự kiện quốc tế, các tổ chức toàn cầu .… cũng mặc định coi tiếng
Anh là ngôn ngữ giao tiếp.
Ngoài ra, tiếng Anh được hơn 400 triệu người trên toàn thế giới dùng làm


tiếng mẹ đẻ, hơn 1 tỷ người dùng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai (theo
Wikipedia), những quốc gia phát triển có thu nhập đầu người cao nhất trên thế
giới đều sử dụng thành thạo tiếng Anh, hoặc được sử dụng phổ biến, được dạy là
môn học trong trường…
Tiếng Anh là một ngôn ngữ Quốc tế, có tính thông dụng và là một công cụ
giao tiếp thiết yếu trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Thời đại toàn cầu
hoá, nhu cầu giao tiếp giữa mọi người thuộc mọi quốc gia là bắt buộc.
Do vậy, việc học tiếng Anh để giao tiếp đang trở thành một nhu cầu cần
thiết và cấp bách. Giúp chúng ta giao lưu, tiếp cận và mở rộng hiểu biết với
nguồn tri thức tiên tiến trên thế giới, ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Khoa học, kĩ
thuật, kinh tế, xã hội, y học… tiếng Anh mặc nhiên trở thành Universal
Language (Ngôn ngữ vũ trụ).Trên cơ sở đó, trong lĩnh vực giáo dục, Bộ GD –
ĐT đã có định hướng chiến lược cho việc tổ chức dạy học môn tiếng Anh trong
trường tiểu học nhằm tạo điều kiện, môi trường cho học sinh được tiếp xúc với
môn học này, tạo tiền đề cho việc học lên các cấp học trên được vững chắc.Vì
vậy, hiện nay toàn bộ trẻ em trên cả nước từ thành thị đến nông thôn, đều được
làm quen với bộ môn tiếng Anh từ rất sớm thông qua việc giảng dạy trong nhà
trường phổ thông.
Từ vị trí và vai trò vô cùng quan trọng của tiếng Anh trong giao tiếp, vấn
đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy - học tiếng Anh có hiệu quả
cao, học sinh được phát triển kĩ năng giao tiếp một cách tích cực, tự tin, mạnh
dạn, chủ động và tự nhiên trong việc sử dụng ngôn ngữ. Trên đặc điểm tâm sinh
lý học sinh Tiểu học là dễ nhớ nhưng mau quên, sự tập trung chú ý trong giờ học
chưa cao và không lâu, trí nhớ chưa bền vững, thích học nhưng chóng chán. Vì
vậy giáo viên phải làm thế nào để khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn từ tạo thói
quen giao tiếp bằng tiếng Anh trên nền tâm sinh lý đó.

2



Muốn vậy, giáo viên phải thực sự đổi mới phương pháp dạy học để thay
đổi nhưng thực trạng học tiếng Anh ở Việt Nam như hiện nay là: “Tại sao
học sinh, sinh viên được học những hơn chục năm tiếng Anh, làm bài thi
đạt điểm giỏi trong trường mà khi phải trình bày, hay giao tiếp thì đa số
lại không nói được bằngtiếng Anh?” theo ( Wikipedia), đây là vấn đề đau
đầu của các nhà làm giáo dục cũng như cha mẹ học sinh, muốn con em
mình giỏi tiếng Anh. Làm thế nào để tìm được một phương pháp học tiếng
Anh chuẩn, giúp con em mình tiến bộ nhanh, đạt kiến thức và kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ này.
Xuất phát từ những lí do đó, tôi mạnh dạn nghiên cứu và xin được
trình bày sáng kiến“Một số giải pháp nâng cao kỹ năng dạy nói tiếng Anh cho
học sinh Tiểu học” trước Hội đồng sáng kiến các cấp. Rất mong các đồng chí
đóng góp ý kiến cho tôi, để sáng kiến kinh nghiệm này ngày một hoàn thiện
hơn. Giúp tôi và các đồng nghiệp giảng dạy có chất lượng hơn và hơn thế nữa là
để học sinh của chúng ta giao tiếp bằng tiếng Anh tốt hơn.
2. Tên sáng kiến
Một số giải pháp nâng cao kỹ năng dạy nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu
học.
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Cao Thị Ánh Tuyết
- Chức danh: Giáo viên
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Hợp Thịnh – Tam Dương –
Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0986 325 570. E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
Nhà giáo Cao Thị Ánh Tuyết. Giáo viên trường Tiểu học Hợp Thịnh –
Tam Dương – Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Môn tiếng Anh ở trường Tiểu học
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử

Ngày 06 tháng 03 năm 2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
7.1.1. Cơ sở lý luận
3


Như chúng ta đã biết việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường phổ thông
đã có những thay đổi lớn về nội dung cũng như phương pháp giảng dạy để phù
hợp với mục tiêu và yêu cầu đặt ra trong chương trình cải cách. Quan điểm cơ
bản nhất về phương pháp mới là làm sao phát huy được tính tích cực, chủ động
của học sinh. Tạo điều kiện tối ưu cho học sinh rèn luyện, phát triển và nâng cao
kỹ năng sử dụng ngôn ngữ vào mục đích giao tiếp chứ không phải việc cung cấp
kiến thức ngôn ngữ thuần tuý. Với quan điểm này, các thủ thuật và hoạt động
dạy học trên lớp cũng đã được thay đổi và phát triển đa dạng. Chính vì thế người
giáo viên cần nắm bắt những nguyên tắc cơ bản của phương pháp mới, tìm hiểu
các thủ thuật và hoạt động dạy học theo quan điểm giao tiếp sao cho có thể áp
dụng được một cách uyển chuyển, phù hợp và có hiệu quả.
Trên thế giới đa số học sinh - sinh viên thường gặp nhiều trở ngại, khó
khăn khi học nói nhất là khi giao tiếp với người nước ngoài. Bởi vì giao tiếp là
điều kiện thuận lợi để kích thích người học sử dụng ngoại ngữ đạt hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, kĩ năng nói này đôi khi bị lãng quên bởi chúng ta chỉ đánh giá ngôn
ngữ qua trình độ, kiến thức chứ không đo lường bằng khả năng sử dụng ngôn
ngữ. Do đó chúng ta phải chú ý rất nhiều đến kĩ năng này để trang bị cho học
sinh khả năng giao tiếp một cách tự tin, lưu loát. Để làm được điều này người
dạy cần phải tổ chức môi trường học tập hấp dẫn để thu hút nhiều học sinh tham
gia. Có được như vậy học sinh mới đủ tự tin, mạnh dạn hơn cho việc giao tiếp
một ngoại ngữ nào đó sau này.
Biết rằng kỹ năng nói là tương đối khó để dạy học sinh ở vùng nông thôn vì
vậy giáo viên cần tìm ra những phương pháp tốt nhất, phù hợp nhất để học sinh

có thể cảm thấy hứng thú hơn trong việc học. Cũng vì lý do đó trong qúa trình
dạy kỹ năng nói bản thân tôi cũng đã ít nhiều suy nghĩ, ứng dụng và đúc rút
những kinh nghiệm để phát triển và nâng cao kỹ năng này cho học sinh, cố gắng
tìm ra phương pháp dạy kỹ năng nói tối ưu nhất cho bản thân và giúp học sinh
hiểu được tầm quan trọng của môn học, cảm thấy thích thú với môn học hơn.
Tôi đã mạnh dạn chọn viết sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp nâng cao
kỹ năng dạy nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu học.”
4


7.1.2. Kỹ năng nói là gì?
Kỹ năng nói là một trong những kỹ năng vô cùng quan trọng trong việc
học Ngoại ngữ. Nó giúp HS vận dụng những kiến thức đã học về ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp.... vào thực tế giao tiếp. Việc rèn kỹ năng này cần được phối hợp
chặt chẽ với các kỹ năng khác, tiến hành từng bước, thường xuyên để HS có thể
vận dụng vào các tình huống giao tiếp cụ thể. Muốn vậy người thầy đóng vai trò
rất quan trọng trong việc hướng dẫn, tổ chức để HS có cơ hội rèn luyện và thực
hành nói tiếng Anh với thầy, với bạn trong các tình huống giao tiếp cụ thể một
cách uyển chuyển, tự tin và có hiệu quả. Việc rèn luyện kỹ năng nói phải được
tiến hành thường xuyên trong các tiết học, nhưng tập trung nhiều nhất là trong
các phần “ Point and say” và “ Let’s talk” của sách tiếng Anh 3, 4 và 5. Chương
trình tiếng Anh của Bộ GD & ĐT.

7.1.3. Mục tiêu dạy Kỹ năng nói làm gì?
Mục tiêu của việc dạy nói là đạt đến sự hiệu quả trong giao tiếp, bằng
tiếng Anh với cả người bản ngữ, người sử dụng tiếng Anh như là một ngoại ngữ.
GV cần làm cho người học hiểu và đạt đến khả năng sử dụng ngôn ngữ cao nhất
có thể. Bên cạnh đó người thầy còn phải làm cho người học làm sao không hiểu
nhầm, sai. Trong quá trình giao tiếp do những lỗi rất cơ bản như phát âm sai, sử


5


dụng cấu trúc ngữ pháp và từ vựng không đúng… Vậy để giảm thiểu những vấn
đề đó thì người thầy phải làm gì? Có vũ khí gì? Đế đạt được hiệu quả cao nhất.
7.1.4.Các bước dạy kỹ năng nói là gì?
Tương tự như các bài dạy kỹ năng khác tiết luyện nói “Speaking” cũng
thường được tiến hành theo 3 giai đoạn:
+) Giai đoạn 1. Pre- Speaking (Presentation): Trước khi dạy nói.
+) Giai đoạn 2. While- Speaking (Practice): Trong khi dạy nói.
+) Giai đoạn 3. Post – Speaking (Production): Sau khi dạy nói.
Mỗi giai đoạn của tiết “Speaking” có một nhiệm vụ và mục đích khác
nhau nên ở mỗi giai đoạn lại có các thủ thuật và phương pháp tiến hành riêng.
7.1.5. Tình trạng của giải pháp đã biết
7.1.5.1. Tình trạng xã hội
Qua thực tế cho ta thấy rằng, việc học ngoại ngữ và sử dụng ngoại ngữ để
giao tiếp là một vấn đề còn lan giải ở nước ta. Theo Ông Nguyễn Tuấn Hải - nhà
sáng lập Eton Grammar School - nhận định phổ điểm ngoại ngữ trong kỳ thi
THPT quốc gia 2015 cho thấy sự thất bại toàn diện của chương trình đào tạo
tiếng Anh bậc phổ thông những năm qua. Ông cho rằng Đề án ngoại ngữ quốc
gia bao năm nay vẫn chỉ tập trung đào tạo tiếng Anh "chết": Không có kỹ năng
thực hành, chỉ thi viết về từ vựng, ngữ pháp và đọc hiểu; những thứ đơn thuần là
giải bài tập…
7.1.5.2. Tình trạng học sinh
Qua chia sẻ của du học sinh Thanh Huyền học chuyên ngữ 8 năm: "Đỗ đại
học, thi IELTS đạt 7.5, tôi nghĩ mình giỏi tiếng Anh. Sau 2 năm ở Nhật Bản, tôi
nhận ra mình lãng phí 8 năm học ngoại ngữ ở Việt Nam" (du học sinh Thanh
Huyền viết). Đang du học tại Nhật Bản, Thanh Huyền - sinh viên ĐH Osaka chia sẻ về thời gian học tiếng Anh khi còn học phổ thông và đại học trong nước.
“Hai năm trước, tôi tự tin sang Nhật Bản với bảng thành tích học tập không đến
nỗi nào cùng chứng chỉ IELTS 7.5. Tuy nhiên, niềm tin vào năng lực bản thân

nhanh chóng sụp đổ khi tôi phát hiện mình gần như không theo kịp tốc độ nói
chuyện của các du học sinh khác, dù họ cũng đến từ những nước không nói tiếng
Anh như Trung Quốc, Hàn Quốc...
Tôi thấy áp lực vô cùng khi vừa phải ôn thi N1 (năm nhất), ôn thi học kỳ vừa
học tiếng Anh để thi TOEFL - yêu cầu bắt buộc của trường.

6


Nhiều người sẽ không tin câu chuyện về nữ sinh chuyên ngữ học tiếng
Anh 8 năm, khi du học lại sợ một kỳ thi và không thể giao tiếp với người nước
ngoài. Song, đó là những gì tôi đang phải đối mặt sau hai năm học nơi đất
khách. Ngẫm lại những năm học phổ thong tôi thấy mình lãng phí quá
nhiều”.Theo ZING.VN
Thực trạng về kết quả giờ thực hành nói của học sinh, đầu năm học 2018 2019 tại trường Tiểu học Hợp Thịnh.
- Về điểm số.
Số
Lớp
HS
thử
dự
nghiệm
KS

Điểm dưới 5

Điểm 5-6

Điểm 7-8


Điểm 9-10

Số
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ
%
3,3

4A

31

16

51,7

10


32,0

4

13,0

1

4B

30

17

57,0

9

30,0

3

10,0

1

4C

30


20

66,0

6

20,0

4

14,0

0

4D

29

20

68,9

8

28,0

1

3,1


0

3,0

7


*) Qua kết quả thống kê cho thấy rằng. Tỷ lệ HS trong phổ điểm
+) Dưới trung bình chiếm: 60, 9 %
+) Trung bình chiếm: 27, 5%
+) Khá: 10 %
+) Giỏi: 1, 6%
- Thực trạng về kết quả giờ thực hành nói của học sinh lớp 4A, đầu năm
học 2017- 2018 tại trường Tiểu học Bình Xuyên.
Lớp
thử
nghiệ
m

Số
HS
dự
KS

4A

32

Điểm dưới 5


Điểm 5-6

Điểm 7-8

Điểm 9-10

Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
lượng %
lượng %
lượng %
lượng %
15

47,0

10

31,2

4

12,5

3


9,3

- Thực trạng về kết quả giờ thực hành nói của học sinh lớp 4A, đầu năm học
2017- 2018 tại trường Tiểu Vĩnh Tường – huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh Phúc.
Số
Lớp
HS
thử
dự
nghiệm
KS
4A

33

Điểm dưới 5

Điểm 5-6

Điểm 7-8

Điểm 9-10

Số
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng


Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ
%

14

42,4

36,4

12,2

9,0

12

4

3

*) Nhìn chung, các em với tâm lý rất căng thẳng, sấu hổ và sợ nói tiếng
Anh thậm chí còn không nói được.
7.1.5.3. Tình trạng giáo viên

Giáo viên tuy có nhiều cố gắng trong việc vận dụng phương pháp giảng
dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh, nhưng giáo viên chỉ có
thể áp dụng được đối với một số bài, một số tiết và một số bộ phận học sinh.
Nguyên nhân một phần là do nội dung chương trình sách giáo khoa còn quá dài,
sĩ số học sinh đông trong một lớp, sức học của học sinh còn hạn chế, chưa đồng
đều. Một phần do một số giáo viên còn chưa thực sự đầu tư cho chuyên môn. Từ
những thực trạng trên, là mộtgiáo viên dạy tiếng Anh lâu năm, tôi luôn xác định
8


mình phải làm thế nào để thay đổi, cải thiện thực trạng này. Để học sinh phát
huy được tính mạnh dạn và thói quen nói tiếng Anh một cách tự nhiên. Từ đó
nâng cao hiệu quả việc học và phát triển kỹ năng nói tốt hơn. Hiểu rõ mục tiêu
của môn học ngoại ngữ là giúp học sinh có khả năng giao tiếp tốt. Bằng các
phương pháp mới đã được học, bằng sự sáng tạo của bản thân, tôi đã thử nghiệm
tìm mọi cách để hướng dẫn học sinh học có hiệu quả hơn trong các tiết luyện
nói, tạo mọi cơ hội thuận lợi để học sinh được thực hành nói tiếng Anh càng
nhiều càng tốt. Từ năm 2017, tôi đã đi sâu đầu tư nghiên cứu, thử nghiệm một số
phương pháp cải tiến kỹ năng dạy nói tiếng Anh, để dần nâng cao hiệu quả của
giờ dạy, nâng cao khả năng nói tiếng Anh cho học sinh.
7.1.6. Những nội dung cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược
điểm của giải pháp đã biết
Chúng ta biết rằng Nghe - Nói - Đọc - Viết là bốn kĩ năng ngôn ngữ cần phải
được rèn luyện và diễn ra một cách đồng thời trong quá trình dạy và học ngoại
ngữ. Chúng vừa là phương tiện và cũng là mục đích của việc học bộ môn này.
Trong những năm qua, bước đầu chúng ta đã áp dụng việc đổi mới phương pháp
giảng dạy tiếng Anh nhằm giúp học sinh nắm được cách học một cách chủ động,
tích cực và đáp ứng được yêu cầu là học sinh phải sử dụng được ngữ liệu đã học
vào các hoạt động giao tiếp một cách có hiệu quả hơn.
Chính vì vậy, trong chương trình giảng dạy tiếng Anh ở trường Tiểu học

hiện nay, cùng với giáo trình tiếng Anh 3, 4, 5 của Bộ GD&ĐT đã nhấn mạnh
vào khả năng giao tiếp theo một hệ thống ngữ pháp có kiểm soát cẩn thận. Học
sinh được lấy làm trung tâm và luôn được khích lệ giao tiếp với nhau.
Qua nhiều năm giảng dạy tiếng Anh, cùng với sự trải nghiệm bản thân.
Tôi thấy rằng để phát triển được kỹ năng nói thì không thể thiếu một số phương
pháp tối ưu sau.
- Tăng cường thời lượng cho kỹ năng thực hành giao tiếp của học sinh
bằng tiếng Anh
- Thường xuyên rèn kỹ năng phát âm trong các tiết học ngoại gữ.
- Rèn luyện tín hiệu phi ngôn ngữ khi giao tiếp.
- Luyện tín hiệu ngôn ngữ khi giao tiếp.
- Tập cho học sinh phản xạ nhanh bằng tiếng Anh.
9


- Tổ chức thực hành nói theo cặp- nhóm.
- Tổ chức “Đôi bạn nói tiếng Anh” hoặc “Nhóm bạn nói tiếng Anh”.
- Nghiêm túc thực hiện các bước luyện nói cho HS.
- Cách sửa lỗi sai cho học sinh khi chúng mắc lỗi.
7.1.6.1.Tăng thời lượng cho thực hành giao tiếp
Chúng ta đừng nhầm tưởng rằng, tăng thời lượng cho thực hành giao tiếp
tiếng Anh là chỉ dành cho một tiết học, mà thời lượng ở đây là muốn đề cập đến
thói quen luyện nói tiếng Anh ở mọi lúc, mọi nơi, và mọi hoàn cảnh có thể. Dần
tiến tới tạo được một môi trường nói tiếng Anh. Vì chỉ khi chúng ta nói ra, sử
dụng nó thì nó mới là ngôn ngữ “sống”, ngôn ngữ thật và đạt mục tiêu của giao
tiếp.
7.1.6.2.Rèn luyện phát âm cho học sinh
Trong quá trình giao tiếp bằng ngoại ngữ, muốn người khác hiểu được nội
dung mình muốn nói gì, yêu cầu gì …, thì người nói cần phải phát âm từ và câu
một cách rõ ràng, chính xác.Với đặc điểm học sinh của tôi, ở vùng nông thôn do

không có điều kiện tiếp xúc với người nước ngoài, ít nghe băng đĩa tiếng Anh
nên có xu hướng phát âm tiếng Anh theo cách Việt hoá. Vì vậy ngay từ đầu bản
thân tôi luôn xác định rằng, phải cố gắng phát âm thật chuẩn, để các em bắt
chước và tận dụng mọi cơ hội để các em được nghe và tiếp xúc với tiếng Anh
đây là một trong những yếu tố cơ bản trong việc dạy nói. Ở kỹ năng này, giáo
viên phải kiên trì luyện tập phát âm cho học sinh để tạo cho các em có thói quen
phát âm đúng.
*) Một số trường hợp khó khi phát âm và một số cách để phát âm đúng
- Tập cho các em thói quen đọc nối âm:
Ví dụ: It’s apen.
It is a book.
There is a cloud.
Look at him.
10


- Luyện cho học sinh phát âm đủ cả các âm trong từ (Pronounce all the

sounds in words)
Để thực hiện được thủ thuật này thì trước hết là. Luyện nói tiếng Anh với
tốc độ chậm sẽ giúp người học có thời gian tập trung đến các âm có trong từ. Có
thể trong khi giao tiếp, người nói có thể bỏ sót âm cuối hay âm giữa của từ, hoặc
những âm tiết không phải là trọng âm trong từ. Điều này không ảnh hưởng đến
người nói nhưng lại gây khó khăn cho người nghe để hiểu được đúng. Chính
vậy, Phải hướng học sinh nên tập trung tới từng âm trong từ và không bỏ sót âm
nào đặc biệt là những âm cuối của từ như “s”, “ed”, “t”, “p”, v.v…Cần chú ý
luyện tập cho các em cách phát âm có đủ các âm cuối, vì khi phát âm thiếu âm
cuối của từ thì không khác nào nói tiếng Việt không có dấu.
Ví dụ: bat, notebook, good/ goods.
- Đối với hình thức số nhiều (plural) cần luyện tập cho các em phát âm:

+) S là /s/ khi đứng sau phụ âm vô thanh như:
Ví dụ: casettes, kites, notebooks
+) S phát âm là /z/ khi đứng sau nguyên âm hoặc phụ âm hữu thanh như:
Ví dụ: robots, bats, tables
+) S phát âm là /iz/ khi đứng sau những âm như: -s-, -z-, -sh-,-t∫
Ví dụ: pencil cases
- Ngoài ra, một số âm rất khó phát âm, ngay cả với học sinh bản ngữ cũng
mắc phải.
+) Âm /r/ là âm khó, học sinh chú ý môi thầy cô, chu môi ra sau đó mở
tròn miệng: r r r
+) Âm /th/ chỉ cho học sinh đạt lưỡi giữa hai hàm răng. Chú ý cắn nhẹ
đầu lưỡi khi đọc âm này.
Ví dụ: this, they, these
+) Âm /l/ bắt đầu đặt đầu lưỡi đằng sau răng trên

11


Trong quá trình dạy, nếu một học sinh gặp khó khăn khi phát âm một yếu
tố nào đó. Giáo viên không nên bắt học sinh đó đứng dậy đọc đi đọc lại nhiều
lần mà nên yêu cầu cả lớp đọc đồng thanh mẫu đó vài lần. Sau đó học sinh tiếp
tục luyện tập và khi đó giáo viên có thể tiếp tục giúp đỡ những học sinh khác.
7.1.6.3.Rèn luyện ngữ điệu cho học sinh
Ngữ điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là việc nên hay xuống của
giọng nói. Người nghe có thể hiểu nhầm hoặc hiểu sai hoàn toàn ý của người
nói. Khi người nói sử dụng sai ngữ điệu. Bởi ngữ điệu được ví như hồn của câu.
Thực sự, ngữ điệu có ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiếp nhận những thông tin
trong giao tiếp. Đặc biệt là trong tiếng Anh, ngữ điệu không chỉ giúp người nghe
đoán, hiểu được điều ta đang nói, muốn nói mà còn thể hiện cả thái độ, ý tứ,
ngầm trong lời nói.Vây khi hoc sinh rèn luyện tốt cách nói trọng âm và ngữ điệu

chuẩn thì không chỉ nói tốt mà còn phát âm chuẩn.
- Cần chú ý: Dấu nhấn (Stress), nhịp điệu (Rhythm), ngữ âm, ngữ điệu
(Intonation) là những yếu tố quan trọng trong khi nói tiếng Anh. Nó giúp người
nghe hiểu chính xác được nội dung cuộc nói chuyện mà người nói muốn truyền
tải.
+) Có ba mức độ nhấn: Nhấn chính (The Primary Stress).
Nhấn phụ (The Secondary Stress).
Không nhấn (The None- Stress).
Thông thường trong tiếng Anh, dấu nhấn chính thường đặt vào những từ
mang ý nghĩa nội dung quan trọng, trọng tâm của câu.
+) Âm điệu, ngữ điệu: Lên giọng ở cuối câu hỏi Yes-No.
Are you sure?
Xuống giọng ở cuối câu hỏi Wh-questions.
What would you like to eat?
Xuống giọng ở cuối câu khẳng định…
I like an ice- cream
12


7.1.6.4. Rèn luyện tín hiệu phi ngôn ngữ
- Tín hiệu phi ngôn ngữ là một trong những phương thức giao tiếp rất hữu
hiệu. Ngay trong khi ta không nghe được lời nói, hay hiểu lời nói thì nó là ngôn
ngữ duy nhất để biểu cảm và truyền tải thông tin.
- Kiểm soát cách nhìn (nhìn xa, gần, nhìn vào người đang đối thoại, cần
thể hiện ánh mắt linh hoạt, tập trung…) tránh kiểu nhìn lơ đểnh, mông lung khi
đang nói, giao tiếp với người đối diện.
- Chú trọng đến yếu tố cử chỉ điệu bộ (khuôn mặt, ánh mắt, nụ cười, body
language, gật đầu, lắc đầu…).
- Giữ tác phong lịch sự khi giao tiếp (đầu tóc, quần áo, sắc thái…) luôn
phải đảm bảo đúng chủ đề, phong tục, lễ nghi, hoàn cảnh.

- Giáo viên cần phải rèn luyện cho người học nghiêm túc thực hiện các
yêu cầu trên mỗi ngày. Cần chú ý rằng, cung cấp cho học sinh ngữ liệu không
khó bằng việc sử dụng ngữ liệu đó vào giao tiếp thật. Vậy giáo viên cần tạo điều
kiện cho học sinh có thời gian thực hành nói thường xuyên hơn để giúp các em
tự tin, mạnh dạn giao tiếp bằng ngoại ngữ. Qua đó cũng giúp chúng phát hiện
những hạn chế và tự sửa sai nhưng tuyệt đối không gây cảm giác sấu hổ, tự ti.
7.1.6.5. Luyện tín hiệu ngôn ngữ
- Nói đủ chậm (Always speak slowly enough)
Bởi vì hầu hết học sinh đều cho rằng nói tiếng Anh càng nhanh sẽ càng giống
với người bản xứ bởi đa số người học tiếng Anh đều thấy khó nắm bắt thông tin
khi nghe người bản xứ nói vì họ nói khá nhanh. Tuy nhiên, quan điểm “ nói càng
nhanh càng tốt ” là không hoàn toàn chính xác. Nên khuyên học sinh trước hết
hãy cố gắng nói chậm để nói đủ âm và chính xác. Nếu như học sinh nói chậm lại
thì âm điệu và trọng âm của họ sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn, trái lại giọng điệu phát
âm của họ sẽ nặng và khó hiểu hơn, điều này cũng dễ hiểu bởi vì người học sẽ
không có đủ khả năng để hình thành âm vị và ngữ điệu chính xác, hãy “điều
khiển” tốc độ nói phù hợp như nguyên tắc nói căn bản để có thể đạt được những
gì người dạy mong muốn.
- Nói đủ lớn (Speak loudly enough)

13


Đây là yếu tố quan trọng trong giao tiếp. Bởi dù bạn nói với 1 người, 10
người hay cả trăm người thì bạn cũng cần phải nói đủ lớn để tất cả những người
có mặt đều có thể lắng nghe bạn nói, một cách dễ dàng. Nếu như bạn nói quá
nhỏ, điều gì sẽ xảy ra? Và ngược lại thì sao? Khi nói đủ âm lượng (cường độ,
cao độ…) giọng điệu gây sự chú ý, gây cảm tình với người đối diện.
Thực hành nói với một âm lượng phù hợp, sẽ giúp bạn tự tin hơn, thu hút
được người nghe và gây được thiện cảm hơn. Có thể điều chỉnh được âm lượng

của mình phù hợp với từng không gian và hoàn cảnh khác nhau không? Nên tốt
nhất mỗi ngày dành ra khoảng 15 đến 20 phút để thực hành phát âm tiếng Anh
bằng cách đọc to thành tiếng các từ, các câu, các đoạn văn bằng tiếng Anh. Nếu
học sinh thực hành thường xuyên hàng ngày trong vòng 3 tháng, thì cơ miệng
của họ sẽ phát triển phù hợp cho việc nói một ngôn ngữ mới. Có thể ghi âm lại
giọng nói của mình và nghe lại những từ mình phát âm sai. Mọi người thường
ghét phải nghe giọng của chính mình và thường có xu hướng tránh nghe giọng
mình nói. Tuy nhiên, đây là một cách thực hành khá quan trọng vì bằng cách này
bạn có thể nhận ra những lỗi mà mình thường mắc phải.
- Phù hợp với cuộc nói chuyện, thể hiện sắc thái biểu cảm (vui, buồn,
ngạc nhiên, tò mò…).
- Bỏ thói quen xấu thông thường trong khi nói (ờ….à…).
- Nên sử dụng cấu trúc ngữ pháp đơn giản (Using simple structures)
Bởi khi nói, sẽ không ai để ý đến việc bạn dùng cấu trúc đơn giản hay
phức tạp để đánh giá khả năng của bạn và thậm chí là cũng không ai nhận ra
mức độ của các cấu trúc mà bạn đang sử dụng. Nên hãy sử dụng cấu trúc và mẫu
câu đơn giản triệt để để thuận tiện cho việc giao tiếp
7.1.6.6. Tập cho học sinh phản xạ nhanh bằng tiếng Anh
- Thay thế từ không biết bằng một cụm từ khác đã biết, không sấu hổ khi
nói sai.
- Suy nghĩ bằng tiếng Anh, không nên dịch từ sang tiếng Việt
Một trong những sai lầm nghiêm trọng là chúng ta có khuynh hướng
“dịch” (từ tiếng mẹ đẻ sang tiếng Anh) trước khi nói. Việc này ngay lập tức sẽ
tạo ra một rào cản ngôn ngữ. Ví dụ, khi chúng ta muốn bỏ một cuộc hẹn, chúng
ta sẽ nghĩ trong đầu: “tôi muốn huỷ bỏ cuộc hẹn đó”. Sau đó chúng ta dịch câu
đó sang tiếng Anh. Chúng ta sẽ xa đà vào dịch “word by word” và còn gặp vấn
14


đề khi chúng ta có thể không nhớ hoặc không biết các từ “cancel” và

“appointment” để hình thành câu hoặc có từ thì không đúng văn phong… Trong
khi đó nếu suy nghĩ bằng tiếng Anh ta chỉ cần nhớ mẫu câu từ chối “I would like
to…… (cancel the appointment)” . “I'm sorry. I'm not free tomorrow” hay “I am
afraid I can’t come tomorrow”, v.v.
Ví dụ: Khi được hỏi: Where do you go? Thì học sinh phải hiểu và trả lời
ngay: I go to…chứ không nên ngầm dịch sang tiếng Việt rồi mới trả lời.
7.1.6.7. Tổ chức thực hành nói theo cặp- nhóm
- Đây là hoạt động đắc lực và lý tưởng nhất trong quá trình luyện nói.
- Tất cả học sinh sẽ được làm việc cùng một thời gian.
- Giúp

chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề.

- Học sinh học tập lẫn nhau trong quá trình luyện tập, đó là cơ hội để chia
sẻ thông tin và hỏi những điều mình chưa rõ, đồng thời người thầy cũng dễ
dàngkiểm soát học sinh bằng cách đi đi lại lại trong lớp, lắng nghe và can thiệp
khi cần thiết.
*) Chú ý: Vấn đề được đặt ra của giáo viên phải giao nội dung kiến thức
tương đồng nhau giữa các nhóm và việc quán xuyến của giáo viên trong quá
trình hoạt động nhóm.
*) Một số hoạt động theo cặp – theo nhóm được áp dụng:
a. Find Someone Who
Với hoạt động này, sẽ giúp các em tự nhiên trong giao tiếp. Các em sẽ hỏi
bất cứ bạn nào để lấy thông tin.
b. Picture Story
- Giáo viên sưu tập các bộ tranh, ảnh có nội dung phù hợp với chương
trình đã học.
- Giáo viên làm mẫu, sắm các vai trong chuyện tranh, dùng gợi ý ở tranh
làm lời cho nhân vật. Học sinh quan sát và sau đó tập đóng vai theo các nhân vật
trong tranh.

15


- Giáo viên có thể gợi ý bằng những câu hỏi như:
“What is happening in picture A?”
“What do you see in picture B?’’
- Giáo viên có thể yêu cầu học sinh sắp xếp lại tranh theo đúng trật tự tình
tiết của câu chuyện. -> Sau đó học sinh nhìn tranh kể lại nội dung chính.
- Giáo viên có thể yêu cầu học sinh lắp ghép tranh với lời kể: Ghi lời kể
vào các tấm bìa cứng, xếp tranh và lời kể lộn xộn -> Yêu cầu học sinh quan sát
tranh và ghép với lời kể sao cho trật tự của tình tiết dạy trong tranh cũng là trật
tự của lời kể ghi trên tấm bìa đó.
- Với hoạt động này, học sinh nhìn tranh để kể lại câu chuyện hoặc một đoạn
hội thoại. Nếu thực hành thường xuyên, HS sẽ luyện được tính độc lập trong
giao tiếp và sẽ sắp xếp được ý tưởng khi trao đổi, kể chuyện hoặc giới thiệu về
một hoạt động nào đó.
c. Mapped Diologue
Hoạt động này, HS sẽ nhìn tranh hoặc từ gợi ý rồi các em sẽ nói chuyện,
đối thoại với nhau một cách tự do theo cảm nhận của mình về nội dung. Do vậy
các em rất tự nhiên và thoải mái, không phải gò bó theo một hạn định.
You

: It’s sunny today

Your friend: Let’s play with a yo-yo.
You

: No. Let’s jump rope.

Your friend: Ok. What time?

You

: 4 p.m

Your friend: Ok.
d. Chain drills
- Giáo viên nêu chủ đề cần luyện tập.
- Giáo viên bắt đầu bằng việc đặt một câu hỏi cho học sinh thứ nhất. Học
sinh đó trả lời câu hỏi của giáo viên xong có nhiệm vụ đặt một câu hỏi khác cho
một học sinh tiếp theo. Học sinh này có nhiệm vụ trả lời và đặt tiếp một câu hỏi
cho bạn thứ ba, cứ thế hình thức luyện tập dây chuyền này được tiếp tục.
16


- Các câu hỏi theo chủ đề nhưng có thể không cần phát triển thành lời thoại
liền ý.
e. Groupings
- Giáo viên phân chia lớp thành nhiều nhóm. Phát cho mỗi nhóm trưởng
một bản danh sách có ghi tên các từ, ngữ theo chủ điểm. Nhiệm vụ của các bạn
khác là phải bổ sung thêm các từ, ngữ khác cho mỗi chủ điểm đó.
- Nhóm trưởng điều khiển để các thành viên trong nhóm tìm được càng
nhiều từ, ngữ theo chủ điểm bao nhiêu càng được nhiều điểm bấy nhiêu (mỗi từ
phải kèm theo một định nghĩa đúng).
Ví dụ: Rooms in the house.
1. Living room: The place where we often welcome our guests
2. Bedroom: ………………………………………………………………..
3. Dining room: ……………………………………………………………
4. Kitchen: …………………………………………………………………
5. Bathroom: ………………………………………………………………
g. Charactors

+) Trò chơi đóng vai nhằm củng cố những hiểu biết của học sinh về chức
năng của một cấu trúc nào đó trong những hoàn cảnh tự nhiên hơn.
+) Phân chia mỗi nhóm đóng một cảnh theo chủ đề giáo viên yêu cầu:
Ví dụ: Thu lượm thông tin cho một kỳ nghỉ trọn gói.
Phàn nàn muốn đổi một món quần áo mới mua hôm trước.
7.1.6.8.Tổ chức “Đôi bạn nói tiếng Anh” hoặc “Nhóm bạn nói tiếng
Anh”
- Ở trường, qua quá trình tìm hiểu địa bàn cư trú của học sinh, các em ở gần
nhà nhau rất nhiều, một xóm luôn có một số em học cùng lớp. Vì vậy, giáo viên
nên tổ chức cho các em thành lập đôi bạn nói tiếng Anh hoặc nhóm bạn nói tiếng
Anh ở nhà hoặc thời gian rảnh.
- Sau mỗi tiết học trên lớp, giáo viên gợi ý đề tài, mẫu câu, mẫu hội thoại.
Học sinh về nhà tự tìm ý tưởng và vốn từ vựng để nói với nhau. Mục đích giáo
viên củng cố từ vựng, mẫu câu, giúp các em nói theo hướng “Nói tiếng Anh tự
nhiên”.
- Trước mỗi tiết học giáo viên cho các đôi bạn hoặc nhóm bạn trình bày
trước lớp. Giáo viên có nhiều hình thức khen thưởng để động viên tinh thần cho
các em.
17


7.1.6.9. Các bước luyện nói cho HS trong giờ dạy nói
Trong quá trình luyện nói cho học sinh, giáo viên phải luôn tuân theo
đúng quy trình sau:
Giai đoạn 1: Pre- Speaking (Presentation)-Trước khi dạy nói
Đây là giai đoạn mà hoạt động chủ yếu là của thầy, thời gian dành cho
phần này chỉ khoảng 10% số thời gian cho tiết học nói nhưng nó vô cùng quan
trọng , vì ở giai đoạn này giúp học sinh định hướng được nội dung, chủ điểm và
cũng như mục tiêu của tiết học. Hơn thế nữa nó còn gây, tạo tâm lí hào hứng,
hứng khởi cho người học. Ở giai đoạn này, giáo viên phải thực hiên một cách

đơn giản nhất nhưng lại phải rõ ràng nhất để đạt hiệu quả cao nhất. Thông
thường ngữ liệu mới đã xuất hiện trong phần look, listen and reapeat. Phần này
giáo viên chỉ cần gợi ý cho học sinh nhắc lại cấu trúc và hướng dẫn thêm một số
kiến thức mới nếu có. Như giới thiệu từ vựng và mẫu câu thông qua
“meaningful contexts” (nội dung ý nghĩa và chủ đề bài khóa). Bằng các thủ
thuật để gợi mở, giới thiệu từ vựng như (mime (điệu bộ), realia (vật thật),
synonym/antonym (đồng nghĩa/ trái nghĩa), situation(nêu tình huống)…, còn
một số các thủ thuật thường sử dụng để giới thiệu mẫu câu trong giai đoạn này
như:
- Dialogue/text (Đối thoại/đoạn văn).
- Rub out and remember dialogue/text (Ghi nhớ đoạn thoại).
- Dialogue build (xây dựng lại đoạn thoại)
- Realia (dùng chính mẫu câu trong đoạn thoại )
- Pictures/Picture story telling (hình ảnh biểu tả lại nội dung đoạn thoại)
- ……..
Sau khi gợi mở mẫu câu, giáo viên cho học sinh đọc lại mẫu, giáo viên
tiến hành concept – checking (khái quát lại), check meaning, form, use và
pronunciation (kiểm tra lại về nghĩa, dạng, cách dùng, phát âm và ngữ điệu của
câu) để rút ra mẫu câu, và chuyển sang giai đoạn tiếp theo.

Giai đoạn 2: While- Speaking (Practice)-Trong khi dạy nói
Đây là giai đoạn chính của giờ “Speaking” thực hành nói. Ở giai đoạn này
chiếm 80% thời lượng một giờ thực hành tiếng và vai trò của thầy là 10%. Ở
giai đoạn này giáo viên phải hướng dẫn cụ thể những hoạt động mà học sinh
phải làm. Như dùng tranh ảnh hoặc những gợi ý… . Học sinh được luyện tập
dần dần từ Controlled (Thực hành theo nguyên mẫu)  Less controlled (Thực
hành theo mẫu có sáng tạo chút ít)  Free practice (giai đoạn sau) (Thực hành
18



theo sáng tạo tự do có thể). Được luyện tập theo cặp, nhóm, cá nhân theo sự điều
khiển của giáo viên, dựa trên những gợi ý mà giáo viên cung cấp.Với học sinh
lớp 3 có thể luyện tập dần theo qui trình sau.
- Teacher models or with a student. (giáo viên làm mẫu hoặc làm mẫu với
học sinh)
- Teacher
WC. (giáo viên với cả lớp)
- Half
Half. (giáo viên với nhóm học sinh)
- Student in close pairs. (học sinh trong cùng nhóm)
- Open pairs. (HS thực hành với học sinh khác nhóm)
Với HS lớp 4,5 có thể thực hành luyện tập:
- Teacher models. (giáoviên làm mẫu)
- Close pairs. (học sinh tự thực hành trong nhóm)
- Open pairs. (HS thực hành với bạn khác nhóm)
Nếu làm việc theo nhóm cũng theo qui trình tương tự.
Điều này giúp HS dần tự tin, hào hứng, mạnh dạn hơn khi đứng lên nói. Tùy
thuộc vào nội dung, yêu cầu của từng bài học mà giáo viên có thể vận dụng
phương pháp một cách linh hoạt, phù hợp làm sao để học sinh cảm thấy, nhận
thấy rằng chúng đang sử dụng ngôn ngữ mới một cách dễ dàng, thuận lợi và
luôn đúng.
Giai đoạn 3: Post - Speaking (Production) Nói tự do, sáng tạo.
Đây là giai đoạn sản sinh lời nói sau khi lĩnh hội kiến thức, Ở giai đoạn
này vai trò của GV gần như là không. Vì không nên hạn chế về ý tưởng cũng
như ngôn ngữ. Nên để HS tự do phát huy khả năng sáng tạo, cần mở rộng hoạt
động để hoàn chỉnh kỹ năng nói cho mình, giúp các em sử dụng ngôn ngữ một
cách độc lập, kiến thức vốn có của mình với cấu trúc mới vừa luyện vào tình
huống cụ thể. Những hoạt động ở phần này có thể là Game (trò chơi),
Discussion (một cuộc thảo luận) Role play (đóng vai)… Trong giai đoạn này
thời gian nói dành cho HS chiếm khoảng 90%, GV chỉ là người giao nhiệm vụ,

hỗ trợ cho HS khi cần thiết.
Một số thủ thuật thường sử dụng trong giai đoạn này đối với HS lớp 3:
- Chain games. (chơi nối tiếp dây chuyền)
+) Giáo viên nêu chủ đề cần luyện tập.
+) Giáo viên bắt đầu bằng việc đặt một câu hỏi cho học sinh nào đó. Học
sinh đó trả lời câu hỏi của giáo viên xong có nhiệm vụ đặt một câu hỏi khác cho
một học sinh tiếp theo. Học sinh này có nhiệm vụ trả lời và đặt tiếp một câu hỏi
cho bạn thứ ba, cứ thế hình thức luyện tập dây chuyền này được tiếp tục.
+) Các câu hỏi theo chủ đề nhưng có thể không cần phát triển thành lời
thoại liền ý.
- Guesing games. (chơi đoán)
19


- Survey. (thu thập)
- Find someone who. (Tìm người có thể trả lời …)
- Noughts and crosses words. (Xóa từ hoặc khoanh từ)
- Mapped dialogues. (Sắp xếp theo bản đồ tư duy)
+) Giáo viên giới thiệu ngữ cảnh và yêu cầu của hoạt động.
+) Giáo viên viết một vài từ gợi ý hoặc vẽ hình lên bảng.
+) Giáo viên trình bày bài hội thoại dựa vào các từ gợi ý hoặc hình vẽ đó.
+) Rèn luyện bài hội thoại với cả lớp.
+) Học sinh luyện tập theo cặp.
*)Với HS lớp 4,5 có thể sử dụng một số phương pháp khác:
- Interview. (phỏng vấn)
- Survey then report the result. (Thu thập số liệu rồi báo cáo)
- Questionnaires. (phiếu kiểm tra, thăm dò)
7.1.6.10. Làm thế nào để sửa lỗi sai cho học sinh?
Việc sửa lỗi phát âm, lỗi ngữ pháp cho học sinh trong khi nói là một việc
làm quan trọng. Tuy nhiên, làm thế nào để sửa lỗi cho các em, sửa lỗi vào thời

điểm nào cho thích hợp là một việc làm đòi hỏi sự tế nhị và mang tính sư phạm
cao.
- Khi học sinh đang thực hành phát âm một câu nói nào đó cho đúng, thì
đây là thời điểm thích hợp để giáo viên sửa lỗi khi các em đọc sai.
- Đối với trường hợp khi HS đang tập trung suy nghĩ và tìm ý tưởng từ
vựng để thể hiện một nội dung nào đó, giáo viên không nên ngắt lời để sửa lỗi.
Vì điều này sẽ làm mất đi sự tự tin, mất hứng thú suy nghĩ , tìm tòi, tính hiếu
động thích tham dự vào các hoạt động rèn luyện giao tiếp của các em.
- Giáo viên cần có thái độ tích cực đối với lỗi ngôn ngữ của học sinh.
Chấp nhận lỗi như một phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp học sinh
học tập được từ chính lỗi của bản thân và bạn bè.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
Ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch thực hiện áp dụng “Một số
giải pháp nâng cao kỹ năng dạy nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu học”. Cứ hai
tuần đưa ra một chủ đề (chủ đề nhỏ), chủ đề này theo nội dung đơn vị bài học và
mỗi hai tháng có một chủ đề lớn theo nội dung của 05 đơn vị bài học. Sau mỗi
chủ đề lớn tôi đều tổ chức thi để kiểm tra đánh giá kết quả tiến bộ của học sinh.
20


Từ đó kịp thời động viên, khích lệ tinh thần học. Đồng thời bổ sung rút kinh
nghiệm và hoàn thiện một chủ điểm.
Ngày mùng 5 tháng 11 năm 2018, tôi đã tiến hành thử nghiệm bằng chủ đề
lớn thứ nhất (sau khi trải qua 5 lần thực nghiệm nhỏ của 8 tuần học).
- Phương án thực nghiệm:
+) lớp 4A, 4C trường Tiểu học Hợp Thịnh -huyện Tam Dương – tỉnhVĩnh
Phúc. Thực nghiệm (được học theo phương pháp của sáng kiến này)
+) lớp 4B trường Tiểu học Hợp Thịnh -huyện Tam Dương – tỉnhVĩnh
Phúc. Làm lớp đối chứng (được học theo phương pháp cũ).
+) lớp 4A trường Tiểu học Bình Xuyên – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh

Phúc Thực nghiệm (được học theo phương pháp của sáng kiến này)
+) lớp 4A trường Tiểu học Vĩnh Tường - huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh
Phúc Thực nghiệm (được học theo phương pháp của sáng kiến này)
Lần 1:
Topic 1: ME AND MY FRIEND
Trong chủ đề giao tiếp này yêu cầu học sinh có thể kịch hóa, thuyết trình
... về nội dung tổng hợp trong 5 đơn vị bài học (từ unit 1- unit 5).
1. Greeting and responding to greetings formally and Saying and
respondingto goobye
2. Asking and answering questions about where someone is from
3. Asking and answering questions about the days of the week
4. Asking and answering questions about weekly activities
5. Asking and answering questions about dates. Someone’s birthday.
6. Asking and answering questions about what some one can or can’t do
and where some one can do something
Kết quả như sau:
1. Trường Tiểu học Hợp Thịnh – huyện Tam Dương – tỉnh Vĩnh Phúc.
Số
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
Điểm 7-8
Điểm 9-10
Lớp
HS
Thực
Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ

dự
nghiệm
lượng %
lượng %
lượng %
lượng %
KS
4A

31

6

19,5

9

29,0

6

19,5

10

20,0

8

26,7


10

33,3

6

4C

30

6

Lớp

Số

Điểm dưới 5

Điểm 5-6

Điểm 7-8

32,0
20,0

Điểm 9-10
21



đối
chứng

HS
dự
KS

Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
lượng %
lượng %
lượng %
lượng %

4B

30

15

50,0

10

33,0

4


14,0

1

3,0

*) Qua số liệu thống kê cho thấy, kết quả sau áp dụng thực nghiệm lần 1 với
kết quả khảo sát đầu năm.
+) Lớp học thực nghiệm 4A: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 32,2%.
Số HS đạt điểm 5- 6 giảm 2,0%.
Số HS đạt điểm 7 - 8 tăng 6,5 %.
Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 28,7%.
+) Lớp học đối chứng 4B: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 7,0%.
Số HS đạt điểm 5- 6 tăng 3,0%.
Số HS đạt điểm 7 - 8 tăng 4,0 %.
Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 0,3%.
2. Trường Tiểu học Bình Xuyên – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc.
Số
Lớp
HS
Thực
dự
nghiệm
KS
4A

32

Điểm dưới 5


Điểm 5-6

Điểm 7-8

Điểm 9-10

Số
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
%
lượng %
lượng %

11

34,2

34,2

11

6


18,5

4

13,1

+) Lớp học thực nghiệm 4A: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 12,8%.
Số HS đạt điểm 5- 6 tăng 3,0%.
Số HS đạt điểm 7 - 8 tăng 6,0 %.
Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 3,8%.
3. Trường Tiểu học Vĩnh Tường – huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh Phúc.
Số
Lớp
HS
thử
dự
nghiệm
KS
4A

33

Điểm dưới 5

Điểm 5-6

Điểm 7-8

Điểm 9-10


Số
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ
%

10

30,3

33,3

18,2

18,2

11


6

6

+) Lớp học thực nghiệm 4A: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 12,1%.
Số HS đạt điểm 5- 6 giảm 3,1%.
22


Số HS đạt điểm 7 - 8 tăng 6,0%.
Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 9,2%.
Lần 2:
Topic 2: ME AND MY SCHOOL
Trong chủ đề giao tiếp này yêu cầu học sinh có thể kịch hóa, thuyết trình ... về
nội dung tổng hợp trong 5 đơn vị bài học tiếp theo (từ unit 6- unit 10).
1. Asking and answering questions about where a school is.
2. Asking and answering questions about what class someone’s in.
3. Asking and answering questions about someone likes doing.
4. Asking and answering questions about someone’s hobbies.
5. Asking and answering questions aboutschool subject.
6. Asking and answering questions about when someone has a subject.
7. Asking and answering questions about what someone is doing.
8. Asking and answering questions about what are people doing.
9. Asking and answering questions about where someone was in the past.
10. Asking and answering questions about someone did in the past.
Kết quả như sau:
Số
Điểm 5-6
Điểm dưới 5

Điểm 7-8
Điểm 9-10
Lớp
HS
thử
Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
dự
nghiệm
lượng %
lượng %
lượng %
lượng %
KS
4A
4C

31
30

5

16,1

7

22,5


6

19,5

13

41,9

5

16,6

6

20,0

8

26,7

11

36,7

Số
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
Điểm 7-8
Điểm 9-10

HS
Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
dự
lượng %
lượng %
lượng %
lượng %
KS
4B
30
13
43,3 12
40,0 3
10,0 2
6,7
*) Qua số liệu thống kê cho thấy. Kết quả sau áp dụng thực nghiệm lần 2 với
kết quả khảo sát đầu năm.
+) Lớp học thực nghiệm 4A: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 35,6%.
Số HS đạt điểm 5- 6 giảm 11,5%.
Số HS đạt điểm 7 - 8 tăng 6,5 %.
Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 38,6%.
+) Lớp học đối chứng 4B: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 13,7%.
Số HS đạt điểm 5- 6 tăng 10,0%.
Số HS đạt điểm 7 - 8 duy trì, không thay đổi
Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 3,4%.
Lớp

đối
chứng

23


2. Trường Tiểu học Bình Xuyên – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc.

Số
Lớp
HS
Thực
dự
nghiệm
KS
4A

32

Điểm dưới 5

Điểm 5-6

Điểm 7-8

Điểm 9-10

Số
lượng


Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
%
lượng %
lượng %

9

28,2

34,2

11

7

21,9

5

15,7

+) Lớp học thực nghiệm 4A: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 18,8%.
Số HS đạt điểm 5- 6 duy trì, không thay đổi
Số HS đạt điểm 7 - 8 tăng 9,4 %.

Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 6,4%.
3. Trường Tiểu học Vĩnh Tường – huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh Phúc.
Số
Lớp
HS
thử
dự
nghiệm
KS
4A

33

Điểm dưới 5

Điểm 5-6

Điểm 7-8

Điểm 9-10

Số
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ Số
%

lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ
%

8

24,2

30,3

21,3

24,2

10

7

8

+) Lớp học thực nghiệm 4A: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 18,2%.
Số HS đạt điểm 5- 6 giảm 3,1%.
Số HS đạt điểm 7 - 8 tăng 9,1 %.
Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 15,2%
Lần 3:

Topic 3: ME AND MY FAMILY
Nội dung:
1. Asking and answering questions about time.
2. Asking and answering questions about daily routines.
3. Asking and answering questions about someone’s job.
4. Asking and answering questions about places to work.
5. Asking and answering questions about farvourite food and drink.
6. Offering someone food or drink and accepting/ declining someone’s offer.
7. Asking and answering questions about someone’s physical appearance.
8. Making comparisons
9. Asking and answering questions about festival is.
10. Asking and answering questions about what people do at a festival.
Kết quả như sau.
24


Lớp
thử
nghiệ
m
4A

Số
HS
dự
KS
31

Lớp
đối

chứng

Số
HS
dự
KS

4B

30

Điểm dưới 5

Điểm 5-6

Điểm 7-8

Điểm 9-10

Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
lượng %
lượng %
lượng %
lượng %
3


9,3

Điểm dưới 5

6

19,5

Điểm 5-6

5

16,2

Điểm 7-8

17

55,0

Điểm 9-10

Số
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ Số

%
lượng

Tỉ lệ Số
%
lượng

Tỉ lệ
%

8

25,8

48,0

16,2

10,0

15

5

3

*) Qua số liệu thống kê cho thấy. Kết quả sau áp dụng thực nghiệm lần 3 với kết
quả khảo sát đầu năm.
+) Lớp học thực nghiệm 4A: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 42,4%.
Số HS đạt điểm 5- 6 giảm 12,5%.

Số HS đạt điểm 7 - 8 tăng 3,2 %.
Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 51,7%.
+) Lớp học đối chứng 4B: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 31,2%.
Số HS đạt điểm 5- 6 tăng 18,0 %.
Số HS đạt điểm 7 - 8 tăng 6,2%
Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 7,0%.
2. Trường Tiểu học Bình Xuyên – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc.
Số
Lớp
HS
Thực
dự
nghiệm
KS

Điểm dưới 5
Số
lượng

Điểm 5-6

Tỉ lệ Số
%
lượng

Điểm 7-8

Điểm 9-10

Tỉ lệ Số

Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
%
lượng %
lượng %

4A

7
22,0 10
31,0 7
22,0 8
25.0
32
+) Lớp học thực nghiệm 4A: Số HS đạt điểm dưới 5 giảm 25,0%.
Số HS đạt điểm 5- 6 giảm 0,2%
Số HS đạt điểm 7 - 8 tăng 9,8 %.
Số HS đạt điểm 9- 10 tăng 15,7%.
3. Trường Tiểu học Vĩnh Tường – huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh Phúc.

Lớp

Số

Điểm dưới 5

Điểm 5-6

Điểm 7-8


Điểm 9-10
25


×