Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động vẽ cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi ở trường mầm non hoa sen vĩnh yên vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.96 KB, 21 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN.
1. Lời giới thiệu.
Hoạt động tạo hình trong trường mầm non là một hoạt động nghệ thuật
được dạy xuyên suốt từ nhà trẻ đến mẫu giáo, hoạt động này cùng với các hoạt
động khác giúp cho trẻ phát triển toàn diện các mặt: Đức – Trí – Thể - Mĩ – Lao
Động, góp phần hình thành nhân cách cho trẻ một cách tốt nhất. Trong hoạt
động tạo hình thì hoạt động vẽ chính là sự thể hiện những biểu tượng, ấn tượng
và suy nghĩ, tình cảm của trẻ, là sự giao tiếp, “Nói chuyện” bằng các hình thức,
phương tiện mang tính vật thể. Thông qua hoạt động vẽ nhằm khơi gợi và phát
huy năng khiếu thẩm mĩ vốn có ở trẻ, giúp cho trẻ hứng thú trước cái đẹp, mong
muốn được tạo ra cái đẹp và hình thành thị hiếu thẩm mĩ cho trẻ.
Hoạt động vẽ giúp trẻ bước đầu làm quen với các phương tiện và ngôn
ngữ tạo hình như: Màu sắc, kích thước, hình khối, đường nét, bố cục… để phản
ánh, miêu tả, nhận thức về thế giới xung quanh và phản ánh thế giới thông qua
các hình tượng nghệ thuật, góp phần phát triển ở trẻ năng lực quan sát, trí nhớ,
trí tưởng tượng, sáng tạo; chuẩn bị cho trẻ những kỹ năng cầm bút, đưa các
đường nét cơ bản giúp cho việc tập viết chữ sau này của trẻ.
Trong thực tế, việc tổ chức các hoạt động vẽ ở lớp tôi đã mang lại hiệu
quả tới việc phát triển cho trẻ, nhưng chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu và đem
lại kết quả mà tôi mong đợi.
- Các phương pháp tổ chức hoạt động dạy trẻ vẽ đang được sử dụng chủ
yếu là phương pháp dạy học đặc trưng, còn cứng nhắc, gò ép, áp đặt; giáo viên
và phụ huynh thường chú ý đến sản phẩm trẻ làm ra, ít chú ý đến kỹ năng vẽ và
quá trình làm ra sản phẩm.
- Bản thân và đồng nghiệp chưa linh hoạt, sáng tạo trong tổ chức các hoạt
động dạy trẻ vẽ, chưa chú trọng đến tích lũy vốn kinh nghiệm về tạo hình cho
trẻ, chưa chú ý cho trẻ sử dụng đa dạng các loại dụng cụ để vẽ như: bút lông,bút
dạ, bông tăm, que, phấn màu, chì màu… mà khi cho trẻ vẽ đa số chỉ sử dụng sáp
màu; năng khiếu tạo hình hạn chế nên vẽ tranh để gợi ý và tranh vẽ mẫu để
hướng dẫn trẻ còn chưa đảm bảo thẩm mỹ; việc ứng dụng công nghệ thông tin


trong tổ chức hoạt động dạy trẻ vẽ còn hạn chế.
1


- Trẻ còn thụ động trong các hoạt động vẽ, thường nói và làm theo yêu
cầu của cô; sắp xếp bố cục tranh chưa được hài hòa, cân đối; khả năng phối hợp
màu sắc và tô màu chưa tốt; tranh vẽ ít có tính sáng tạo; khả năng sử dụng ngôn
ngữ bằng lời để đánh giá, nhận xét sản phẩm tạo hình của mình và của bạn còn
lúng túng.
Từ những hạn chế trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp
nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động vẽ cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở
Trường Mầm non Hoa Sen- Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc” để nghiên cứu và áp
dụng thử nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động dạy trẻ vẽ và rèn
kỹ năng vẽ cho trẻ, đồng thời nâng cao nhận thức của phụ huynh về tầm quan
trọng của hoạt động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ của trẻ mầm non nói
riêng.
2. Tên sáng kiến.
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động vẽ cho trẻ mẫu
giáo 5- 6 tuổi ở Trường Mầm non Hoa Sen- Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc".
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Trần Thị Loan
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Mầm non Hoa Sen- Vĩnh Yên- Vĩnh phúc
- Số điện thoại: 0982938383
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Trần Thị Loan
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến và vấn đề mà sáng kiến giải quyết.
5.1. Lĩnh vực áp dụng của sáng kiến: Lĩnh vực phát triển thẩm mỹ qua
hoạt động tạo hình tại lớp 5tuổiA2 - Trường Mầm non Hoa Sen – Vĩnh yên Vĩnh Phúc.
5.2. Vấn đề mà sáng kiến giải quyết:

Giải quyết những thực trạng, hạn chế về tổ chức hoạt động dạy trẻ vẽ của
giáo viên, kỹ năng vẽ của trẻ lớp mẫu giáo 5tuổiA2 và nhận thức của phụ huynh
về vai trò của hoạt động vẽ đối với trẻ trong trường mầm non.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử.
Từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 04 năm 2019.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
2


7.1. Cơ sở lý luận.
7.1.1. Một số khái niệm vẽ cơ bản:
* Vẽ theo mẫu:
Vẽ theo mẫu là người vẽ nghiên cứu mẫu đã trình bày sẵn, tìm cách để vẽ
cho đúng, cho giống mẫu về dáng vẻ, hình khối, đậm nhạt, màu sắc và có không
gian như nó vốn có ở trước mắt theo cách suy nghĩ và cảm xúc của riêng mình.
* Vẽ trang trí:
Vẽ trang trí là một nghệ thuật sắp xếp đường nét, hình mảng, hình khối,
đậm nhạt, màu sắc trên mặt phẳng hay trong không gian để tạo nên sản phẩm
hay hình thể đẹp, hợp với nội dung, yêu cầu của từng loại.
Trang trí: là dùng để gọi cho trang trí các hình cơ bản (đường diềm, hình
vuông, hình chữ nhật, hình tròn…)
* Vẽ theo đề tài:
Đó chính là thể hiện một chủ đề cho trước bằng đường nét, bố cục, mầu
sắc… Trong đó, sẽ có rất nhiều đề tài để vẽ tranh. Ta chọn một đề tài nào đó, lấy
nó làm chủ đề sáng tác (còn gọi là chủ đề của bức tranh). Tóm lại một đề tài có
thể có nhiều nội dung khác nhau và thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau qua
hình vẽ và mầu sắc.
* Vẽ theo ý thích:
Là người vẽ được bộc lộ những cảm xúc, sự sáng tạo của mình về thế giới
xung quanh thông qua các hình vẽ.

7.1.2. Vai trò của hoạt động vẽ với sự phát triển của trẻ:
Vẽ là một hoạt động tạo hình đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp trẻ:
- Phát triển trí tuệ: Mở rộng vốn hiểu biết của trẻ; quá trình tâm lý nhận
thức của trẻ; mở rộng vốn từ, cách dùng từ cho trẻ.
- Giáo dục đạo đức: Hình thành cho trẻ những hành vi, thói quen trong
giao tiếp, những hành vi chuẩn mực xã hội.
- Giáo dục thẩm mỹ: Giúp trẻ nhận biết cái đẹp, thèm khát cái đẹp, qua đó
chúng ta giáo dục trẻ biết ứng xử thẩm mỹ với cái đẹp, để rồi ta dạy cho trẻ cách
tạo ra cái đẹp.
- Lao động: Thông qua vẽ trẻ biết các tạo ra các sản phẩm, sử dụng, giữ
gìn các sản phẩm.
3


- Thể lực: Qua vẽ các cơ nhỏ đôi bàn tay của trẻ được hoạt động và phát
triển.
7.1.3. Ý nghĩa, tác dụng của hoạt động vẽ với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
Vẽ là một hoạt động mang tính nghệ thuật, tạo điều kiện cho trẻ phát triển
năng khiếu thẩm mỹ, hình thành thái độ thẩm mỹ trước vẻ đẹp của thế giới xung
quanh; giúp trẻ có những điều kiện, những cơ hội biểu lộ thái độ, xúc cảm, tình
cảm của mình đối với những gì được thể hiện trong quá trình vẽ; hình thành và
phát triển ở trẻ tính tích cực sáng tạo, tập cho trẻ biết miêu tả ý tưởng sáng tạo
của bản thân qua vẽ.
Hoạt động vẽ là một trong những hoạt động hấp dẫn trong hoạt động tạo
hình của trẻ. Hoạt động vẽ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và thể hiện một cách sinh
động thế giới xung quanh qua sản phẩm vẽ và gây cho trẻ những xúc cảm, tình cảm
tích cực (Tình yêu con người; yêu con vật, cỏ cây, hoa lá…). Thông qua hoạt động
vẽ giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh, phát triển khả năng tri giác;
hình thành ở trẻ khả năng tư duy, tưởng tượng; phát triển xúc cảm, tình cảm, nhân
cách,trí tuệ, sự khéo léo, sự sáng tạo, tính kiên trì. Vẽ cũng chính là một môi

trường, một phương tiện để hình thành ở trẻ những cơ sở ban đầu của hoạt động
học tập trong trường phổ thông.
7.1.4. Đặc điểm nhận thức về hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi:
Trẻ đã có khả năng tạo nên các đường nét với tính chất khác nhau khá
phức tạp, trẻ tiếp tục sử dụng đồng thời cả hai cách vẽ màu: “Màu không bắt
chước và màu bắt chước” (có nghĩa là trẻ có thể vẽ các màu quy định theo mẫu
hoặc là vẽ tô màu theo ý thích), trẻ đã biết tạo nên bố cục tranh cân bằng hợp lý.
7.1.5. Nội dung và yêu cầu dạy vẽ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
a. Nội dung:
- Vẽ theo mẫu: Vẽ gà mái, vẽ gà trống, vẽ lọ hoa và quả bóng, vẽ cô giáo,
vẽ ấm pha trà, vẽ áo sơ mi, vẽ gấu bông, vẽ cái ô, vẽ vịt đang bơi, vẽ bông hoa,
vẽ máy bay, vẽ chiếc đèn ông sao, vẽ con thỏ...
- Vẽ trang trí: Trang trí hình tròn; trang trí khăn hình vuông...
- Vẽ theo đề tài: Vẽ hoa tặng cô ngày 20/11, vẽ vườn cây ăn quả, vẽ đàn
gà nhà bé, vẽ đồ chơi trong lớp để tặng bạn, vẽ qùa tặng chú bộ đội, vẽ hoa mùa
xuân, vẽ ngôi nhà của bé, vẽ chân dung bạn trai (hoặc bạn gái), vẽ người thân
4


trong gia đình, vẽ gia đình của bé, vẽ biển, vẽ về miền núi, vẽ phương tiện giao
thông, vẽ theo truyện cổ tích, vẽ truờng mẫu giáo, vẽ các loại rau...
- Vẽ theo ý thích: nhằm phát huy tính tích cực độc lập sáng tạo ở trẻ, trẻ
được bộc lộ những xúc cảm của mình về thế giới xung quanh thông qua các hình
vẽ.
b. Yêu cầu.
- Vẽ theo mẫu: Dạy trẻ những kỹ năng vẽ đường nét cơ bản, tạo nên hình
dáng các đồ vật quen thuộc, gần gũi. Dạy trẻ biết cách quan sát đồ vật từ tổng
thể đến chi tiết.
- Vẽ trang trí: Dạy trẻ làm quen với cách sắp xếp các hình vẽ và màu sắc đơn
giản trên một hình hay một đồ vật, làm cho đồ vật đó trở nên đẹp hơn.

- Vẽ theo đề tài: Củng cố những kỹ năng vẽ đường nét cơ bản. Hướng dẫn
trẻ biết phối hợp các đường nét cơ bản tạo nên hình dáng các đồ vật và sắp xếp
chúng thành bức tranh đơn giản có nội dung theo một đề tài cho trước. Thông
qua đó phát triển ở trẻ trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo.
- Vẽ theo ý thích: Cô gợi mở cho trẻ phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo
để trẻ được bộc lộ những xúc cảm của mình về thế giới xung quanh thông qua các
hình vẽ.
7.2. Cơ sở thực tiễn:
7.2.1. Đặc điểm tình hình Trường mầm non Hoa Sen:
Trường Mầm non Hoa Sen được thành lập từ năm 2001. Những năm mới
thành lập chỉ có 4 - 5 lớp mẫu giáo, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, thiếu thốn; đội
ngũ giáo viên một số chưa có trình độ chuyên môn đạt chuẩn, chế độ của giáo
viên chưa được các cấp nghành quan tâm nên đời sống của giáo viên rất khó
khăn, vì vậy chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ chưa đạt hiệu quả cao.
Với sự quan tâm của Đảng, chính quyền thành phố, sự quyết tâm phấn
đấu của tập thể CB- GV trong nhà trường, năm 2010 trường đã được Bộ giáo
dục công nhận là trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia. Từ đó đến nay, nhà
trường liên tục đạt danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc được ủy ban nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc, Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, Nhà nước tặng Huân
Chương Lao Động hạng Ba, được UBND Tỉnh, Bộ GD&ĐT tặng cờ thi đua.
Trường luôn đứng trong tốp đầu của giáo dục mầm non thành phố Vĩnh Yên.
5


Các phòng học được xây dựng kiên cố, khang trang, sạch đẹp, đảm bảo diện tích
theo quy định. Trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi được trang bị tương đối đầy đủ.
Năm học 2015-2016, nhà trường có 18 nhóm lớp, số trẻ là 515, trong đó
trẻ mẫu giáo là 426, trẻ nhà trẻ là 89. Tỷ lệ trẻ ăn bán trú đạt 100%. Tổng số CB,
GV, NV trong nhà trường có 35, trong đó: CBQL: 03; Giáo viên: 30; Nhân
viên: 08. Đội ngũ giáo viên cơ bản đủ theo quy định, 100% có trình độ chuyên

môn đạt chuẩn và trên chuẩn (trong đó trên chuẩn đạt 97,1%). Nhiều giáo viên
có năng lực chuyên môn vững vàng, yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề, có
trách nhiệm với công việc được giao, đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành tốt
nhiệm vụ.
Nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo có nền nếp các hoạt động chăm sóc,
giáo dục trẻ, trong đó hoạt động tạo hình luôn được nhà trường chỉ đạo sâu sát.
Các nội dung tổ chức cho trẻ hoạt động tạo hình được giáo viên lựa chọn phù
hợp và thực hiện nghiêm túc. Trong tổ chức các hoạt động tạo hình, hoạt động
vẽ là hoạt động trẻ rất hứng thú. Song việc tổ chức thực hiện vẫn còn những hạn
chế nên chưa phát huy hết khả năng vẽ của trẻ.
7.2.2. Thực trạng về việc rèn kỹ năng vẽ cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở
Trường Mầm non Hoa Sen- Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
* Về cơ sở vật chất:
Nhà trường đã trang bị cơ bản các đồ dùng, dụng cụ, học liệu phục vụ cho
hoạt động dạy trẻ vẽ của lớp 5tuổiA2, và tất cả các lớp như: Bàn, ghế, bảng, sáp
màu, màu nước,vở tạo hình, giấy A4, phấn…
Các điều kiện cơ sở vật chất mà nhà trường trang bị chỉ đáp ứng yêu cầu
cơ bản cho trẻ vẽ. Song để tổ chức các hoạt động cho trẻ vẽ một cách đa dạng,
phong phú bằng các đồ dùng, dụng cụ, học liệu thì vẫn chưa được đầy đủ.
* Về chất lượng giáo viên:
Bản thân tôi và đồng nghiệp có trình độ Đại học sư phạm mầm non, tâm
huyết với nghề, nắm chắc nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động
dạy trẻ vẽ nhưng năng khiếu vẽ hạn chế nên tranh vẽ mẫu còn chưa đảm bảo
thẩm mỹ; phương pháp tổ chức hoạt động dạy trẻ vẽ còn mang tính áp đặt, ít
chú ý đến kỹ năng vẽ; thiếu sự linh hoạt, sáng tạo trong tổ chức các hoạt động
vẽ, chưa chú trọng đến tích lũy vốn kinh nghiệm về tạo hình cho trẻ, chưa chú
6


ý cho trẻ sử dụng đa dạng các loại dụng cụ để vẽ; ứng dụng công nghệ thông

tin trong tổ chức hoạt động dạy trẻ vẽ còn hạn chế.
Bản thân tự đánh giá:
1. Khả năng vẽ và sử dụng tranh mẫu: Đạt yêu cầu.
2. Phương pháp tổ chức hoạt động dạy trẻ vẽ: Khá.
3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy trẻ vẽ: Đạt yêu cầu
* Chất lượng trẻ:
Đa số trẻ hứng thú và tích cực tham gia vào các hoạt động vẽ, biết phối
hợp các nét vẽ, màu sắc để tạo thành bức tranh.
Song khả năng nhận thức của trẻ không đồng đều, khả năng sáng tạo của
trẻ còn hạn chế, trẻ vẽ tranh chưa có chiều sâu do chưa vận dụng được luật xa
gần, phối màu chưa hợp lý, kỹ năng tô màu chưa tốt; một số trẻ còn rụt rè, nhút
nhát, chưa mạnh dạn đưa ra các ý kiến đánh giá, nhận xét sản phẩm; sử dụng
ngôn ngữ còn ấp úng, không lưu loát, nói không đủ câu.
Kết quả khảo sát thực trạng của trẻ được thể hiện qua bảng dưới đây:
Số trẻ
Nội dung khảo sát

được
khảo sát

1. Kỹ năng sử dụng đường nét và
phối hợp các nét cơ bản để vẽ.
2. Sắp xếp bố cục tranh
3. Kỹ năng phối hợp màu sắc
và tô màu.
4. Khả năng sáng tạo
5. Khả năng diễn đạt ngôn ngữ
bằng lời khi nhận xét sản phẩm.

Mức độ

Đạt

Chưa đạt

32

20/32 = 62,5% 12/32 = 37,5%

32

18/32 = 56,3% 14/32 = 43,7%

32

20/32 = 62,5% 12/32 = 37,5%

32

13/32 = 40,6% 19/32 = 59,4%

32

21/32 = 65,6% 11/32 = 34,4%

* Về phụ huynh:
Qua trò chuyện với phụ huynh và thu thập phiếu phỏng vấn phụ huynh về
tầm quan trọng của việc dạy trẻ vẽ cho thấy:

7



Đa số phụ huynh đều nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động dạy
trẻ vẽ cho trẻ mầm non, vì thế luôn quan tâm phối hợp với giáo viên trong việc
dạy trẻ.
Song vẫn còn một số phụ huynh nhận thức chưa đúng đắn về việc dạy trẻ vẽ,
chỉ coi hoạt động vẽ là hoạt động trẻ chơi, nghịch chứ không nhằm mục đích phát
triển nên còn chưa tích cực phối hợp với giáo viên để thực hiện; một số phụ huynh
chỉ chú trọng đến sản phẩm, chưa chú ý đến quá trình trẻ làm ra sản phẩm.
Kết quả khảo sát thực trạng của phụ huynh được thể hiện ở bảng dưới đây:
Số TT

Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

Phụ huynh nhận thức đúng đắn về tầm quan
1

trọng của việc dạy trẻ vẽ và có sự phối hợp

22/32

68,8%

thường xuyên với giáo viên
Phụ huynh chưa nhận thức đầy đủ về tầm
2


quan trọng của việc dạy trẻ vẽ, chưa tích cực

10/32

31,2%

phối hợp với giáo viên trong việc dạy trẻ vẽ.
7.3. Các giải pháp thực hiện:
Căn cứ vào thực trạng trên, tôi nghiên cứu, đưa ra các giải pháp rèn kỹ năng
vẽ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại trường như sau:
* Giải pháp thứ nhất: Xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động dạy trẻ vẽ.
Kế hoạch là một phần rất quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng tổ chức các hoạt động dạy trẻ vẽ; kế hoạch đặt ra phù hợp với tình hình
thực tế và đặc điểm nhận thức của trẻ thì chất lượng hoạt động của trẻ sẽ đạt
hiệu quả cao. Chính vì vậy tôi căn cứ vào đặc điểm nhận thức và khả năng vẽ
của trẻ lớp mình để đặt ra mục tiêu dạy trẻ vẽ, lựa chọn các thể loại vẽ, các đề tài
vẽ cho cả năm học; sau đó đưa các đề tài đã lựa chọn phù hợp vào từng chủ giáo
dục theo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Sau khi hoàn thành
kế hoạch, tôi tham khảo ý kiến của các thành viên trong tổ và xin ý kiến của Tổ
trưởng, của Ban giám hiệu, sau đó điều chỉnh và thực hiện.
Để đạt được mục tiêu kế hoạch chủ đề đặt ra, tôi đặc biệt quan tâm đến
thiết kế kế hoạch hoạt động ngày. Khi thiết kế hoạt động ngày, tôi căn cứ vào đề
tài để xác định mục tiêu bài học, đồ dùng học liệu cần chuẩn bị, các hoạt động
cần thực hiện, phương pháp tổ chức tiết học. Trong thiết kế hoạt động, tôi chú ý
8


ngay từ việc sử dụng hình thức nào hấp dẫn để thu hút trẻ hứng thú tham gia
hoạt động vẽ; dự kiến các câu hỏi để gợi ý cho trẻ suy nghĩ nhận xét tranh mẫu,
phân tích sản phẩm và câu hỏi gợi mở kích thích trẻ tư duy, sáng tạo.

* Giải pháp thứ 2: Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất; cung cấp dụng cụ,
học liệu trực quan đẹp, sinh động phục vụ trẻ vẽ:
Cơ sở vật chất, dụng cụ, học liệu, là phương tiện để trẻ tạo ra các tác
phẩm vẽ phong phú, đa dạng. Vì vậy, tôi đã tham mưu với ban giám hiệu nhà
trường đầu tư, trang bị bổ sung đầy đủ bàn ghế đúng quy cách, bảng hướng dẫn,
giá vẽ và những đồ dùng, dụng cụ còn thiếu như bút lông, bút dạ, chổi lông, bìa
cứng, giá vẽ…; đồng thời tôi tích cực tìm kiếm, đưa những học liệu như que,
bông tăm…để cho trẻ sử dụng làm dụng cụ vẽ, giúp hoạt động vẽ của trẻ thêm
phong phú.
* Giải pháp thứ 3: Tích cực tự bồi dưỡng khả năng vẽ của bản thân
và đổi mới phương pháp tổ chức các hoạt động dạy trẻ học vẽ theo quan
điểm “lấy trẻ làm trung tâm”.
Vẽ là một hoạt động nghệ thuật, muốn tác phẩm vẽ của trẻ được đẹp,
hài hòa thì trước tiên tranh mẫu gợi ý của cô phải đảm bảo tính thẩm mĩ. Song
không phải giáo viên nào cũng có năng khiếu vẽ. Vì vậy, tôi luôn tích cực học
tập, rèn luyện để nâng cao kỹ năng vẽ và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ. Tôi tự bồi dưỡng thông qua tài liệu, sách báo, học hỏi đồng nghiệp, học tập
qua các phương tiện thông tin và thường xuyên khai thác thông tin trên mạng
internet để trau dồi kiến thức cho bản thân; tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng
kỹ năng tạo hình do các cấp ngành giáo dục và nhà trường tổ chức.
Trong giờ học tạo hình nói chung và giờ học vẽ nói riêng, tôi phối hợp
linh hoạt các phương pháp dạy học. Khi hướng dẫn trẻ vẽ tôi luôn lấy trẻ làm
trung tâm, không áp đặt trẻ làm theo ý mình mà tăng cường các câu hỏi gợi ý
giúp trẻ củng cố, áp dụng những kinh nghiệm đã lĩnh hội trong các hoạt động
khác nhau để tự trẻ miêu tả những gì trẻ biết và tự thể hiện ý tưởng của mình.
Tôi chú trọng thăm dò ý tưởng của trẻ và hướng dẫn, động viên, khuyến khích
để trẻ sáng tạo.
Ví dụ câu hỏi gợi ý cho trẻ thể hiện ý tưởng: Khi tổ chức dạy trẻ vẽ người
thân trong gia đình, cô thăm dò ý tưởng của trẻ vẽ về ông nhưng chưa thể rõ đặc
điểm của ông, lúc đó cô đặt câu hỏi gợi mở cho trẻ như sau: Con thấy trên chán

9


ông có những gì? (nếp nhăn). Vậy con vẽ những nét gì để tạo thành nếp nhăn?
(nét ngang). Ông thường đeo cái gì trên mắt? (kính). Con vẽ tóc ông như thế
nào?...
Ví dụ câu hỏi kích thích trẻ sáng tạo: Khi dạy trẻ vẽ chùm bóng bay cô
thấy trẻ chỉ vẽ bóng bay có dạng hình tròn, cô có thể đặt câu hỏi kích thích trẻ
sáng tạo như: Đố con biết ở ngoài chợ các cô bán hàng còn bán những loại bóng
bay hình con gì? (con thỏ, con gà, con cá..). Chúng mình thi xem ai vẽ được
nhiều quả bóng có hình khác nhau?
Hoặc: Bạn Lan đã vẽ được con gà đang mổ thóc? Vậy có bạn nào vẽ được
con gà đang gáy không?
Ví dụ cô động viên, khuyến khích để trẻ hứng thú hoạt động: Bạn Nam vẽ
vườn cây ăn quả rất đẹp. Cây ở gần, bạn ý biết vẽ to, ở phía dưới tờ giấy. Cây ở
xa bạn ý vẽ nhỏ ở phía trên tờ giấy. bạn ý còn vẽ được cả ông mặt trời chiếu
xuống vườn cây đấy.
Trong quá trình hướng dẫn trẻ vẽ, cô luôn quan tâm đến khả năng của
từng trẻ để có biện pháp rèn kỹ năng cho trẻ phù hợp, với những trẻ kỹ năng vẽ
chưa tốt, tôi quan tâm, gợi ý, hướng dẫn, động viên trẻ để trẻ dần dần thực hiện
các kỹ năng và hoàn thành bài vẽ của mình. Ngoài ra cần tạo cơ hội cho trẻ được
hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để trẻ được chia sẻ kinh nghiệm, học tập
nhau như vậy hoạt động vẽ của trẻ mới đạt được hiệu quả cao.
* Giải pháp thứ 4: Chú trọng tích lũy vốn kinh nghiệm, cung cấp
biểu tượng về đối tượng sắp vẽ cho trẻ.
Tạo điều kiện để trẻ thường xuyên tiếp xúc với môi trường xung quanh để
từng bước cung cấp các biểu tượng phong phú về các sự vật, hiện tượng xung
quanh trẻ. Cho trẻ tự khám phá bằng cách huy động sự tham gia của các giác
quan, các quá trình tâm lí khác nhau như (quan sát, nghe, hỏi, tiếp xúc và miêu
tả) để trẻ lĩnh hội các khía cạnh khác nhau của sự vật và tự diễn đạt nhận thức

cảm xúc của mình về đối tượng.
Tôi tận dụng các thời điểm hợp lí trong ngày cho trẻ tiếp xúc như được
ngắm nghía, chăm sóc, vuốt ve, âu yếm với các con vật gần gũi, chơi với các đồ
vật, tri giác tranh ảnh nghệ thuật dán ở các mảng tường và mô hình trưng bày ở
các góc trong lớp để tích luỹ vốn kinh nghiệm cho trẻ.
10


Sử dụng các bài thơ, bài hát, câu chuyện liên quan đến đề tài sắp vẽ để trẻ
nghe, đọc và cảm nhận được cái đẹp của sự vật. Ví dụ: Chuẩn bị cho tiết vẽ “cái
bát” cô cho trẻ đọc và tìm hiểu bài thơ “cái bát xinh xinh”; hay chuẩn bị cho tiết
vẽ “đàn cá bơi” tôi cho trẻ đọc bài thơ “con cá vàng” hoặc hát bài hát “cá vàng
bơi”…
Trong quá trình cung cấp biểu tượng về đối tượng tạo hình, tôi chỉ ra cho
trẻ thấy được những nét đặc trưng nổi bật, những cái đẹp lý thú gần gũi trẻ; đồng
thời giúp trẻ phân tích, so sánh, tổng hợp, tìm ra những đặc điểm riêng, chung
của những đối tượng cùng nhóm, cùng loại, từ đó giúp trẻ tìm ra cách thể hiện
các tác phẩm vẽ trong những tình huống khác nhau.
Ví dụ: Khi cho trẻ vẽ đồ chơi trong lớp, nếu hàng ngày trẻ được tiếp xúc,
được tìm hiểu về những đặc điểm của các loại đồ chơi trong lớp thì khi vẽ trẻ sẽ
biết phối hợp các kỹ năng vẽ nét cong, nét cong tròn khép kín, nét xiên, nét
thẳng để vẽ được những đồ chơi có dạng hình tròn, hình vuông, hình tam giác,
đồ chơi to- nhỏ, cao- thấp và biết phối hợp màu sắc khác nhau để tô màu phù
hợp, đẹp.
Ví dụ: Hàng ngày khi cho trẻ dạo chơi ngoài trời, trẻ được quan sát, tìm
hiểu về những đặc điểm của các loại cây, hoa thì khi tổ chức cho trẻ vẽ cây, hoa
trẻ sẽ có vốn kinh nghiệm để vẽ được các loại cây, hoa có màu sắc, kích thước
khac nhau.
* Giải pháp thứ 5: Chú ý rèn trẻ kỹ năng phối hợp các nét vẽ cơ bản,
cách sắp xếp bố cục tranh, cách sử dụng và phối hợp màu sắc, kỹ năng tô

màu hình vẽ.
Để trẻ vẽ được bức tranh hoàn chỉnh, đạt mục tiêu đề ra thì trẻ phải biết vẽ
thành thạo các nét vẽ cơ bản (nét xiên, nét thẳng, nét cong, nét cong tròn khép
kín…) và biết phối hợp các nét vẽ để tạo thành hình vẽ. Vì vậy trong giờ hoạt
động vẽ, tôi luôn chú ý quan sát kỹ năng vẽ của từng cá nhân trẻ để hướng dẫn,
rèn cho trẻ biết vẽ các nét cơ bản và phối hợp các nét vẽ để tạo thành tạo thành
các hình vẽ cỏ cây, hoa lá, con người, con vật, đồ vật...
Ví dụ: Khi dạy trẻ vẽ chiếc ô tô tải (theo mẫu) chủ đề “giao thông” , tôi
cho trẻ quan sát bức tranh vẽ chiếc ô tô tải (tranh mẫu) và đặt câu hỏi cho trẻ
nhận xét về đặc điểm của chiếc ô tô tải như sau: Chiếc ô tô tải này có đặc điểm
gì? (Đầu xe, thùng xe, bánh xe, đèn xe, cửa xe….); đầu xe ô tô giống hình gì?
11


(hình vuông); Thùng xe giống hình gì? (hình chữ nhật); Bánh xe có dạng hình
gì? (hình tròn). Để vẽ được đầu xe ô tô tải thì phải vẽ phối hợp những nét gì với
nhau? (vẽ các nét thẳng ngang, thẳng dọc để tạo thành đầu xe, vẽ nét cong tròn
khép kín để tạo thành đèn xe); thùng xe chúng mình vẽ như thế nào? Bánh xe vẽ
bằng nét gì? Sau đó cô vẽ mẫu và cho trẻ vẽ theo mẫu của cô, cô chú ý rèn trẻ
các kỹ năng vẽ, hướng dẫn trẻ vẽ phối hợp các nét vẽ, các hình khối để tạo thành
chiếc ô tô tải.
Cùng với việc rèn trẻ kỹ năng phối hợp các nét vẽ cơ bản thì tôi chú ý
hướng dẫn trẻ cách sắp xếp các hình vẽ trên không gian tờ giấy để bức tranh hài
hòa, cân đối, có chiều sâu. Trước hết tôi cần giúp trẻ hiểu được bố cục hợp lý là
sự sắp xếp hình vẽ trong không gian bức tranh phải hài hòa, cân đối ở từng vị trí
và phải theo luật xa gần. Để hiểu, cảm nhận và thực hiện được những hình trang
trí , tôi giúp trẻ biết nhìn bao quát cả không gian tờ giấy, xác định các vị trí đặt
hình khối của bức tranh cho phù hợp. Tùy theo đề tài vẽ tôi gợi ý cho trẻ sắp xếp
linh hoạt, có hệ thống các hình vẽ trên tờ giấy.
Ví dụ:

- Khi dạy trẻ vẽ chân dung (theo mẫu) tôi gợi ý cho trẻ đặt giấy dọc, vẽ
hình ra giữa tờ giấy.
- Hoặc khi hướng dẫn trẻ vẽ “thuyền trên biển” (theo đề tài), tôi hướng
dẫn cho trẻ đặt giấy ngang và chọn vị trí vẽ hình hợp lý và biết vẽ theo luật xa
gần như: phía dưới của tờ giấy thì vẽ biển, phía trên tờ giấy vẽ trời (mây, ông
mặt trời…) vẽ thuyền ở gần thì vẽ ở không gian dưới trang giấy và vẽ to hơn,
chiếc thuyền xa thì vẽ trên trang giấy và vẽ nhỏ hơn…ngoài ra tôi còn gợi ý để
trẻ xác định vị trí ông mặt trời ở góc phía trên của tờ giấy …
- Hay khi cho trẻ vẽ trang trí hình vuông, tôi hướng dẫn trẻ chọn hình
dáng họa tiết và sắp xếp các họa tiết để trang trí theo quy tắc xen kẽ như bông
hoa - chiếc lá – bông hoa – chiếc lá, hình tròn – hình vuông – hình tam giác hình tròn – hình vuông – hình tam giác.
- Khi đã vẽ được hình bức tranh cân đối, tôi gợi ý để trẻ nói lên mối liên
hệ màu sắc: nóng - lạnh, sáng - tối…khi trẻ vẽ, tôi hướng dẫn trẻ sử dụng những
màu tối để vẽ hình, khi tô màu thì sử dụng màu sáng để bức tranh nổi bật được
mảng chính. Hay khi hướng dẫn trẻ cách phối màu, tôi cho trẻ được khám phá sự
biến đổi của màu sắc: màu đỏ + màu vàng ra màu cam, xanh lam + vàng ra màu
12


xanh lá, các màu cơ bản + màu trắng ra màu nhạt để từ đó trẻ có kiến thức về phối
màu và sử dụng màu trong khi vẽ. Đồng thời trong giờ vẽ tôi chú ý gợi mở để trẻ
nhận ra và sử dụng nhiều màu sắc khác nhau khi vẽ. Ví dụ: Vẽ vườn cây ăn quả,
những chiếc lá già thì tô màu xanh đậm, lá non thì phối hợp màu xanh lá và màu
vàng để tô, quả chín thẫm thì phối hợp màu đỏ và màu nâu, quả chín đỏ thì tô
màu đỏ.
Khi tô màu, tôi rèn cho trẻ kỹ cách tô màu đều tay, có thể tô ngang, tô dọc
tô xiên trái, tô xiên phải, tô xoay tròn nhưng tô phải đều, mịn, kín hình vẽ, không
tô trườm ra ngoài.
Bố cục trang trí cũng như cách phối màu thường tuân theo những quy luật
thẩm mỹ nhất định. Các giờ học vẽ có vai trò rất lớn trong việc phát triển trí tuệ

và khiếu thẩm mỹ của trẻ.
* Giải pháp thứ 6: Cho trẻ sử dụng đa dạng các dụng cụ, học liệu khác
nhau để vẽ.
Khi tổ chức các hoạt động cho trẻ vẽ, tôi hướng dẫn trẻ sử dụng đa dạng các
loại dụng cụ, học liệu vẽ khác nhau như bút chì, bút sáp, bút lông, bút dạ, màu
nước, bông tăm, que, ngón tay… để tranh vẽ của trẻ được phong phú.
Ví dụ: Khi cho trẻ vẽ nền của tranh thì có thể dùng bút sáp, màu nước để
tô, dùng bút lông vẩy màu hoặc phết màu; với chi tiết to dùng bút nét to, các chi
tiết nhỏ dùng bút nét nhỏ để vẽ; bông tăm, que để tô vẽ những góc nhỏ...
Khi trẻ sử dụng màu, tôi rèn trẻ kỹ năng sử dụng dụng cụ như: cầm bút
chấm vào màu và gạt nhẹ vào mép hộp để màu không bị vương vãi làm bẩn
tranh; tay chấm vừa phải vào màu, dùng màu xong phải lau ngay vào khăn;
ngoài ra, tôi dạy trẻ có thói quen dùng mỗi bút một màu để không làm biến đổi
màu sắc, tạo cho bức tranh có màu sắc đẹp như ý tưởng của mình.
* Giải pháp thứ 7: Rèn kỹ năng vẽ cho trẻ thông qua các hoạt động khác.
Để trẻ có kỹ năng vẽ tốt, thì giáo viên không chỉ quan tâm rèn kỹ năng
vẽ của trẻ ở giờ học vẽ mà cần được củng cố và rèn luyện ở mọi lúc mọi nơi,
trong trong các giờ hoạt động khác. Song giáo viên cần phải vận dụng sáng
tạo, linh hoạt, phù hợp các nội dung hoạt động vẽ với nội dung hoạt động
của giờ học đó, tránh lạm dụng kiến thức, thời gian làm ảnh hưởng đến nội
dung của hoạt động chính.
Ví dụ:
13


- Khi dạy trẻ làm quen với toán: tôi tận dụng vở bé làm quen với biểu
tưởng toán để rèn trẻ kĩ năng vẽ, tô màu như: Vẽ thêm quả cho đủ số lượng 8, tô
màu nhóm có số lượng ít hơn 8.
- Trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học: Dạy trẻ kể chuyện “ai
đáng khen nhiều hơn”, sau khi học xong bài học, tôi cho trẻ vẽ hoa, nấm tặng cho

gia đình thỏ.
- Môn làm quen với chữ cái, tô cho trẻ tô màu vào chữ in rỗng.
- Môn làm quen với môi trường xung quanh: Sau khi cho trẻ khám phá
một số loại quả, tôi cho trẻ vẽ quả theo ý thích của trẻ.
- Bên cạnh việc tích hợp rèn kỹ năng vẽ cho trẻ qua các môn học khác, tôi
còn chú ý rèn cho trẻ kỹ năng vẽ trong giờ hoạt động góc. Khi tổ chức cho trẻ
hoạt động góc, tôi luôn gợi ý cho trẻ chọn nội dung vẽ phù hợp với chủ đề và
chú ý khuyến khích, động viên những trẻ mà kỹ năng vẽ chưa tốt tham gia chơi
ở góc tạo hình để tạo cơ hội cho trẻ được rèn kỹ năng vẽ.
Ví dụ: Ở chủ đề: “Thế giới thực vật” tại góc chơi tạo hình tôi cho trẻ vẽ, tô
màu, in hình các loại cây, hoa, quả bằng các loại đồ dùng, dụng cụ, học liệu khác
nhau.
Trong khi trẻ thực hiện, tôi luôn chú ý quan sát, gợi ý, hướng dẫn trẻ một
cách tỉ mỉ hơn về cách vẽ, cách phối hợp các nét vẽ, cách tô màu để tạo thành
bức tranh hoặc cô có thể làm chung với trẻ về bức tranh đó kết hợp với lời giải
thích, động viên để kích thích trẻ hoạt động.
- Trong giờ hoạt động chơi ngoài trời: Tôi chuẩn bị các đồ dùng, dụng cụ,
học liệu như phấn, giá vẽ, màu vẽ, các loại bút, giấy, bìa…để tạo cơ hội cho trẻ
được tham gia vào hoạt động vẽ theo đề tài, theo ý thích.
Ví dụ: Cho trẻ sử dụng phấn để vẽ trên sân những đồ chơi, đồ vật,cỏ cây,
hoa lá, con vật…Cho trẻ sử dụng bút lông, màu nước, bút sáp, giấy, bìa để trẻ
hoạt động vẽ theo nhóm.
* Giải pháp thứ 8: Rèn trẻ kỹ năng nhận xét, đánh giá sản phẩm.
Nhận xét, đánh giá sản phẩm là một biện pháp nhằm động viên, khích lệ
trẻ và chỉ ra cho trẻ biết những bài vẽ mà trẻ đã thực hiện tốt, có sáng tạo để kích
thích trẻ phát huy và khích lệ những trẻ khác học tập; đồng thời giúp cho trẻ
nhận ra các yêu cầu thực hiện chưa tốt để động viên trẻ thực hiện tốt hơn. Vì
vậy, tôi luôn chú trọng đến việc rèn trẻ kỹ năng nhận xét, đánh giá sản phẩm của
14



trẻ. Trong khi cho trẻ nhận xét, đánh giá sản phẩm tôi luôn cởi mở, động viên và
có câu hỏi gợi mở để cho trẻ tự tin, mạnh dạn đưa ra các ý kiến đánh giá, nhận
xét sản phẩm rành mạch, rõ ràng, đủ câu.
Trước khi cho trẻ nhận xét, đánh giá sản phẩm, tôi khuyến khích, động
viên để trẻ mạnh dạn tự tin tham gia vào đánh giá, nhận xét sản phẩm bằng
cách: Hôm nay, cô thấy tất cả các con đều tích cực thực hiện bài vẽ của mình.
Có những bài vẽ rất đẹp. Để chọn được bức tranh đẹp đi dự thi, cô mời tất cả
các con cùng làm ban giám khảo để đánh giá, nhận xét các bài vẽ của các bạn
lớp mình nhé.
Sau đó, tôi đặt câu hỏi gợi ý cho trẻ nhận xét, đánh giá như sau:
- Con thích bài vẽ của bạn nào lớp mình?
- Tại sao con thích bài của bạn?
- Con thấy bạn vẽ như thế nào?
- Có điều gì chúng mình cần học tập từ bài vẽ của bạn?
- Con muốn nói gì với bạn để lần sau bạn vẽ đẹp hơn nữa?
- Nếu là con, con sẽ vẽ và tô màu như thế nào?...
Trong khi trẻ nhận xét, tôi động viên và sửa ngôn ngữ cho trẻ để trẻ nói rõ
ràng, mạch lạc, đủ câu. Với trẻ lúng túng, chưa biết dùng từ ngữ để diễn đạt suy
nghĩ của mình thì tôi gợi mở, nói đỡ trẻ để trẻ nói tiếp.
Qua cách rèn như vậy, dần dần trẻ sẽ có kinh nghiệm và kỹ năng trong
việc đánh giá, nhận xét sản phẩm.
* Giải pháp thứ 8: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
việc thiết kế giáo án điện tử cho trẻ làm quen với hoạt động vẽ:
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế giáo án điện tử cho trẻ
làm quen với hoạt động vẽ là hoạt động nhằm đem đến cho trẻ những giờ học
sinh động và hấp dẫn. Ngày nay với sự bùng nổ công nghệ thông tin, các tài liệu
hình ảnh trên mạng rất phong phú; chúng ta có thể sử dụng các hình ảnh đó vào
việc thiết kế giáo án điện tử để tổ chức hoạt động vẽ cho trẻ.
Ví dụ: Với tiết vẽ con gà trống (tiết mẫu). Tôi thiết kế bài giảng điện tử đó

như sau:
Sile đầu tôi gây hứng thú cho trẻ bằng cách chèn một video bài hát “Con
gà trống” cho trẻ hát và vận động theo bài hát đó.
15


Vào nội dung trọng tâm tôi thiết kế slide có hình ảnh con gà trống đã
được tô màu và vẽ thêm các họa tiết cỏ cây, ông mặt trời…
Tôi cho trẻ nêu nhận xét của trẻ về con gà.
Tiếp theo tôi tạo một slide với các bộ phận của con gà riêng biệt (như:
mình, đầu, mắt, mỏ, cánh, chân…).
Và tôi tạo các slide với các cách vẽ lần lượt để tạo thành con gà trống, các
nét vẽ lần lượt hiện ra và cùng với đó là lời phân tích của tôi: Cô vẽ mình con gà là
một hình tròn khép kín, tiếp theo cô vẽ cổ con gà là hai nét xiên, cô vẽ từ trên
xuống, và đến đầu … Tương tự tôi giới thiệu với các phần khác của con gà.
Sau khi vẽ xong thì làm gì? Cô sẽ tô màu cho con gà và lần lượt tôi có
hiệu ứng tô màu vào từng bộ phận của con gà.
Để cho bức tranh thêm đẹp và sinh động tôi vẽ thêm cỏ cây, ông mặt trời.
Khi trẻ thực hiện, tôi tạo sile chèn bản nhạc nhẹ nhàng, tạo thêm hứng thú
cho trẻ vẽ.
Qua các tiết dạy áp dụng giáo án điện tử, trẻ rất hứng thú tham gia hoạt
động. Song giáo viên không nên quá lạm dụng việc áp dụng giáo án đện tử vào
hoạt động dạy trẻ vẽ mà cần phải lựa chọn phù hợp với từng đề tài.
* Giải pháp thứ 9: Làm tốt công tác tuyên truyền và phối kết hợp chặt
chẽ với phụ huynh để rèn kỹ năng vẽ cho trẻ .
Để rèn kỹ năng vẽ cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non thì giáo viên cần
phải tuyên truyền giúp phụ huynh nhận thức rõ về vai trò của hoạt động tạo hình
nói chung và hoạt động vẽ nói riêng đối với sự phát triển của trẻ; đồng thời phải
tích cực phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong quá trình dạy trẻ.
- Đối với công tác tuyên truyền: Tôi đã tuyên truyền cho phụ huynh bằng

các hình thức như: Viết bài tuyên truyền dán trên góc tuyên truyền của lớp và
gửi trực tiếp phụ huynh; tuyên truyền trực tiếp thông qua Hội nghị họp phụ
huynh của lớp, thông qua giờ đón, trả trẻ; tuyên truyền thông qua bài viết, tranh
ảnh minh hoạ được dán ở góc tuyên truyền lớn của nhà trường; tổ chức tiết dạy
trẻ vẽ mời phụ huynh đến dự cùng thảo luận với giáo viên về tiết dạy.
- Về công tác phối hợp: Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về nội
dung, phương pháp dạy trẻ vẽ để phụ huynh trang bị, hỗ trợ đồ dùng, học liệu
phục vụ trẻ vẽ; đồng thời cùng tham gia vào việc tích lũy vốn kinh nghiệm và
rèn kỹ năng vẽ cho trẻ thông qua các hoạt động ở tại gia đình.
16


Ví dụ: Trước khi tiến hành các đề tài tạo hình, tôi thường xuyên trao đổi,
thông báo với phụ huynh về các đề tài để phụ huynh có thể trò chuyện với trẻ ở
tại gia đình về các đề tài đó, từ đó giúp trẻ hiểu trước, hiểu sâu hơn, có cảm xúc
về đề tài, như vậy trẻ sẽ hứng thú hoạt động khi cô đưa đề tài đó ra.
Với đề tài: “Vẽ người thân trong gia đình” theo chủ đề “gia đình bé” tôi
hướng dẫn phụ huynh về nhà cho trẻ biết nhà mình có những ai? Bố thường
mặc trang phục gì? Tóc bố như thế nào? Bố đi giày màu gì?...như vậy trẻ sẽ
được tích lũy vốn kinh nghiệm để hôm sau đến lớp trẻ sẽ thể hiện được tác
phẩm của mình.
Hoặc sau khi học bài vẽ “đàn gà”, tôi trao đổi với phụ huynh về nhà cho trẻ
vẽ lại đàn gà để trẻ được rèn và củng cố kỹ năng vẽ.
Ngoài ra tôi tuyên truyền, vận động phụ huynh có điều kiện cài phần mềm
vẽ trên máy tính phù hợp với trẻ mẫu giáo lớn và hướng dẫn trẻ vẽ trên máy vi
tính. Sau khi trẻ vẽ xong, bài vẽ của trẻ được in ra, phụ huynh cho trẻ dùng bút
màu để tô màu cho bức tranh của trẻ. Cách dạy này của phụ huynh cũng giúp
trẻ phát triển tư duy, trí trưởng tượng sáng tạo... để trẻ có thêm kiến thức cho
những hoạt động học sau này.
*Khả năng áp dụng của sáng kiến.

Áp dụng dễ dàng, phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị và nâng cao
được chất lượng tổ chức hoạt động dạy vẽ cho trẻ 5- 6 tuổi ở trường mầm non
Hoa Sen- Vĩnh yên- Vĩnh Phúc, có khả năng áp dụng nhân rộng.
8. Những thông tin cần được bảo mật (không)
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.
9.1 Điều kiện về cơ sở vật chất.
- Các tài liệu có liên quan đến đề tài
- Các trang thiết bị đồ dùng cần thiết để áp dụng sáng kiến như: Máy tính,
máy chiếu, bàn, ghế, các loại bút, các loại màu, giấy, bìa, sách vở, giá tạo hình,
các đồ dùng đồ chơi ở các góc chơi trong lớp và đồ chơi ngoài trời.
- Các nguyên vật liệu để trang trí môi trường tạo hình trong và ngoài lớp.
9.2. Điều kiện về con người.
- Giáo viên, học sinh, phụ huynh lớp 5 tuổiA2 để nghiên cứu thực trạng
và áp dụng thử nghiệm các giải pháp.
17


10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
đã tham gia áp dụng sáng kiến
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Khi tôi nghiên cứu và đưa sáng kiến kinh nghiệm áp dụng vào thực tiễn, tôi
thấy chất lượng tổ chức hoạt động vẽ của tôi và đồng nghiệp, kỹ năng vẽ của trẻ 56 tuổi ở lớp tôi đã được nâng lên rõ rệt, kết quả cụ thể như sau:
* Về cơ sở vật chất:
Đã tham mưu với nhà trường trang bị đầy đủ các đồ dùng, dụng cụ, học
liệu phục vụ cho hoạt động dạy trẻ vẽ.
Tranh vẽ mẫu đầy đủ, các loại học liệu đã được trang bị phong phú đẻ
phục vụ trẻ vẽ như bông tăm, que, màu nước, bút lông …
* Về chất lượng đội ngũ giáo viên:

Sau khi áp dụng thực hiện các giải pháp của sáng kiến, chất lượng đội ngũ đã
có nhiều tiến bộ:
Khả năng vẽ của bản thân đã được nâng lên nên tranh vẽ mẫu đẹp, đảm
bảo tính thẩm mỹ. Phương pháp tổ chức hoạt động dạy trẻ vẽ linh hoạt, có
sáng tạo, không áp đặt trẻ, lấy trẻ làm trung tâm. Luôn chú trọng tích lũy vốn
kinh nghiệm về tạo hình cho trẻ và tổ chức cho trẻ vẽ bằng các loại dụng cụ,
học liệu khác nhau. Chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức
hoạt động dạy trẻ vẽ được nâng lên.
Bản thân tự đánh giá:
1. Khả năng vẽ và sử dụng tranh mẫu: Tốt.
2. Phương pháp tổ chức hoạt động dạy trẻ vẽ: Tốt.
3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy trẻ vẽ: Khá
* Chất lượng trẻ:
Qua tổng hợp, phân tích số liệu, so sánh kết quả đạt trước và sau khi áp
dụng các biện phápcủa sáng kiến tôi thấy chất lượng của trẻ được nâng lên:
Kết quả được thể hiện qua bảng dưới đây:
Số trẻ
Nội dung khảo sát

được
khảo sát

Mức độ
Đạt

Chưa đạt
18


1. Kỹ năng sử dụng đường nét và

phối hợp các nét cơ bản để vẽ.
2. Sắp xếp bố cục tranh

32
32

3. Kỹ năng phối hợp màu sắc
và tô màu.
4. Khả năng sáng tạo

32
32

5. Khả năng diễn đạt ngôn ngữ
bằng lời khi nhận xét sản phẩm.

32

29/32 = 90,6%

3/32 = 9,4%

Tăng 28,1%

Giảm 28,1%

28/32 = 87,5%

4/32 = 12,5%


Tăng 31,2%

Giảm 31,2%

30/32 = 93,7%

2/32 = 6,3%

Tăng 31,2%

Giảm 31,2%

20/32 = 62,5% 12/32 = 37,5%
Tăng 21,9%

Giảm 28,1%

30/32 = 93,7%

2/32 = 6,3%

Tăng 28,1%

Giảm 28,1%

Nhìn vào bảng trên ta thấy kết quả sau khi thực hiện các giải pháp so với
trước khi thực hiện được nâng lên rõ rệt. Các nội dung rèn kỹ năng vẽ cho trẻ
đều được tăng lên từ 21,9% đến 31,2%.
* Về phụ huynh:
Kết quả sau khi thực hiện các giải pháp đạt được như sau:

Số TT

Nội dung

Số lượng

Phụ huynh nhận thức đúng đắn về tầm quan
1

trọng của việc dạy trẻ vẽ và có sự phối hợp

30/32

thường xuyên với giáo viên
Phụ huynh chưa nhận thức đầy đủ về tầm
2

quan trọng của việc dạy trẻ vẽ, chưa tích cực
phối hợp với giáo viên trong việc dạy trẻ vẽ.

2/32

Tỷ lệ %
93,8%
Tăng 25%
6,2% Giảm
25%

Nhìn vào số liệu ở bảng trên đã chứng minh rằng phụ huynh đã có nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc tổ chức các hoạt động dạy vẽ cho trẻ

5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến của các tổ chức, cá nhân:
Sáng kiện kinh nghiệm được tổ chuyên môn, Hội đồng chấm sáng kiến
kinh nghiệm, cán bộ giáo viên trong nhà trường đánh giá cao. Các giải pháp đưa
vào thử nghiệm không tốn kém kinh phí, dễ áp dụng đối với tất cả các lớp mẫu
giáo 5- 6 tuổi, có ảnh hưởng tốt đến ý thức, tinh thần trách nhiệm của các giáo
viên trong tổ, làm cho phụ huynh có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của
19


việc dạy trẻ vẽ; nâng cao được chất lượng tổ chức hoạt động vẽ của trẻ 5- 6 tuổi ở
trường mầm non. Có khả năng áp dụng và thực hiện hiệu quả ở tất cả các lớp mẫu
giáo lớn (5- 6 tuổi) trong các trường mầm non.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử sáng kiến.
Số TT
I

Tên tổ chức/cá
nhân

Phạm vi/ lĩnh vực áp

Địa chỉ

dụng sáng kiến

Tổ chức
Giải pháp nâng cao chất
Trường


1

Lớp 5 tuổi A2

Mầm

non

Hoa Sen- Vĩnh Yên
tỉnh Vĩnh Phúc.

lượng tổ chức hoạt động
vẽ cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi ở Trường Mầm non
Hoa

Sen-

Vĩnh

yên-

Vĩnh Phúc.
Giải pháp nâng cao chất
2

Trường
Lớp 5 tuổi A3


Mầm

non

Hoa Sen- Vĩnh Yên
tỉnh Vĩnh Phúc.

lượng tổ chức hoạt động
vẽ cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi ở Trường Mầm non
Hoa

Sen-

Vĩnh

yên-

Vĩnh Phúc.
Giải pháp nâng cao chất
Trường
3

Lớp 5 tuổi A4

Mầm

non

Hoa Sen- Vĩnh Yên

tỉnh Vĩnh Phúc.

lượng tổ chức hoạt động
vẽ cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi ở Trường Mầm non
Hoa

Sen-

Vĩnh

yên-

Vĩnh Phúc.
II

Cá nhân
Lớp 5 tuổi A2 Giải pháp rèn kỹ năng vẽ

1

Trần Thị Loan

- Trường

trong hoạt động tạo hình

Mầm non Hoa cho trẻ mẫu giáo 5- 6
Sen


tuổi

20


Lớp 5 tuổi A3 Giải pháp rèn kỹ năng vẽ
2

Nguyễn Thị Liên

- Trường

trong hoạt động tạo hình

Mầm non Hoa cho trẻ mẫu giáo 5- 6
Sen

tuổi

Lớp 5 tuổi A4 Giải pháp rèn kỹ năng vẽ
3

Trần Thị Thu Trang

- Trường

trong hoạt động tạo hình

Mầm non Hoa cho trẻ mẫu giáo 5- 6
Sen


tuổi

Trên đây là “Một số giải pháp rèn kỹ năng vẽ trong hoạt động tạo hình
cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi”. Kính mong được sự tham gia góp ý của đồng
nghiệp và các cấp lãnh đạo để đề tài sáng kiến của tôi được hoàn thiện, góp phần
nâng cao chất lượng dạy vẽ cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vĩnh Yên, ngày

tháng 04 năm 2019

Thủ trưởng đơn vị

Vĩnh Yênb, ngày

tháng 04 năm 2019

Tác giả sáng kiến

Trần Thị Loan

21



×