Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH MẠC THỊ BƯỞI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.53 KB, 37 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH MẠC THỊ BƯỞI-PHÒNG GIAO DỊCH
NGUYỄN TRÃI
2.1. Giới thiệu về NHNo&PTNT
2.1.1. Tồng quan về NHNo&PTNT Việt Nam
Tên giao dịch: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Tên tiếng Anh: Viet Nam Bank for Agriculture and Rural Development.
Tên viết tắt: AGRIBANK hay VBARD.
Trụ sở chính: số 2 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội.
Logo:
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam được thành lập vào ngày
26/3/1988 theo Nghị định số 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc
thành lập các ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt
Nam hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ký
Quyết định số 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thay thế Ngân hàng
Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Tính đến tháng 12/2009, Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam hoạt động với tổng nguồn vốn vốn là 434.331 tỷ đồng. Vốn
tự có đạt 22.176 tỷ đồng. Agribank là ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội
ngũ cán bộ nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. vị thế dẫn đầu của
Agribank vẫn được khẳng định với trên nhiều phương diện.
Ngày 01/03/1991, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 18/NH-QĐ
thành lập Văn phòng đại diện Ngân hàng Nông nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và ngày
24/6/1994, Thống đốc có văn bản số 439/CV-TCCB chấp thuận cho Ngân hàng nông
nghiệp được thành lập văn phòng miền Trung tại Thành phố Quy Nhơn - tỉnh Bình Định.
Ngày 22/12/1992, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 603/NH-QĐ về việc
thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp các tỉnh thành phố trực thuộc Ngân hàng
Nông nghiệp gồm có 3 Sở giao dịch (Sở giao dịch I tại Hà Nội và Sở giao dịch II tại Văn
phòng đại diện khu vực miền Nam và Sở giao dịch 3 tại Văn phòng miền Trung) và 43 chi
nhánh ngân hàng nông nghiệp tỉnh, thành phố. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp quận,
huyện, thị xã có 475 chi nhánh.


- Những thành tựu đạt được trong những năm gần đây:
Năm 2001 là năm đầu tiên NHNo triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu với các nội
dung chính sách là cơ cấu lại nợ, lành mạnh hoá tài chính, nâng cao chất lượng
tài sản có, chuyển đổi hệ thống kế toán hiện hành theo chuẩn mực quốc tế đổi mới sắp xếp
lại bộ máy tổ chức theo mô hình NHTM hiện đại tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ
tập trung đổi mới công nghệ ngân hàng, xây dựng hệ thống thông tin quản lý hiện đại.
Năm 2002, NHNo tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế. Đến cuối năm 2002
NHNo là thành viên của APRACA, CICA và ABA, trong đó Tổng Giám đốc NHNo là
thành viên chính thức Ban điều hành của APRACA và CICA.
Năm 2003 NHNo và PTNTVN đã đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án tái cơ cấu nhằm
đưa hoạt động của NHNo&PTNT VN phát triển với quy mô lớn chất lượng hiệu quả cao
với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, đóng góp tích cực và rất có
hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, sự nghiệp Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn, và được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động
thời kỳ đổi mới cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Năm 2004, sau 4 năm triển khai thực hiện đề án tái cơ câu giai đoạn 2001-2010, Ngân
hàng Nông nghiệp đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tình hình tài chính đã được
lành mạnh hơn qua việc cơ cấu lại nợ và tăng vốn điều lệ, xử lý trên 90% nợ tồn đọng. Mô
hình tổ chức từng bước được hoàn thiện nhằm tăng cường năng lực quản trị điều hành. Bộ
máy lãnh đạo từ trung ương đến chi nhánh được củng cố, hoàn thiện, quyền tự chủ trong
kinh doanh được mở rộng hơn.
Năm 2005, vốn tự có của NHNo&PTNT VN đạt 7.702tỷ VND, tổng tài sản có trên
190 ngàn tỷ , hơn 2000 chi nhánh trên toàn quốc và 29.492 cán bộ nhân viên (chiếm 40%
tổng số CBCNV toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam), ứng dụng công nghệ hiện đại, cung
cấp những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hoàn hảo… Đến nay, tổng số Dự án nước ngoài
mà NHNo&PTNT VN tiếp nhận và triển khai là 68 dự án với tổng số vốn 2.486 triệu USD,
trong đó giải ngân qua NHNo là 1,5 tỷ USD. Hiện
nay NHNo&PTNT VN đã có quan hệ đại lý với 932 ngân hàng đại lý tại 112 quốc gia và
vùng lãnh thổ, là thành viên của nhiều tổ chức, hiệp hội tín dụng có uy tín lớn.
Năm 2006 bằng những giải pháp mang tính đột phá và cách làm mói NHNo&PTNT

VN (Agribank) thực sự khởi sắc.
Năm 2007, tổng tài sản đạt 325.802 tỷ đồng tương đương với 20 tỷ USD gấp gần 220
lần so với ngày đầu thành lập. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 242.102 tỷ đồng. Tổng
nguồn vốn 295.048 tỷ đồng và gần như hoàn toàn là vốn huy động.
Năm 2008 là năm ghi dấu chặng đường 20 năm xây dựng và trưởng thành của
Agribank và cũng là năm có tính quyết định trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo
chủ trương của Đảng, Chính phủ. Trong chiến lược phát triển của mình, Agribank sẽ trở
thành một Tập đoàn tài chính đa nghành, đa sở hữu, hoạt động đa lĩnh vực.
Năm 2009, Agribank chú trọng giới thiệu và phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân
hàng tiện ích tiên tiến, điển hình là các dịch vụ Mobile Banking như: SMS Banking,
VnTopup, ATransfer, Apaybill, VnMart; kết nối thanh toán với Kho bạc, Hải quan trong
việc phối hợp thu ngân sách; phát hành được trên 4 triệu thẻ các loại. Và được trao tặng
các bằng khen cùng nhiều phần thưởng cao quý: TOP 10 giải SAO VÀNG ĐẤT VIỆT,
TOP 10 Thương hiệu Việt Nam uy tín nhất, danh hiệu “DOANH NGHIỆP PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG” do Bộ Công thương công nhận, TOP 10 Doanh nghiệp Việt Nam theo xếp
hạng của VNR500. Đến cuối năm 2009, tổng tài sản của Agribank đạt xấp xỉ 470.000 tỷ
đồng, tăng 22% so với năm 2008; tổng nguồn vốn đạt 434.331 tỷ đồng, tổng dư nợ nền
kinh tế đạt 354.112 tỷ đồng, trong đó cho vay nông nghiệp nông thôn đạt 242.062 tỷ đồng.
2.1.2. Sự hình thành và phát triển NHNo&PTNT chi nhánh Mạc Thị Bưởi-Phòng
giao dịch Nguyễn Trãi
NHNo&PTNT chi nhánh Mạc Thị Bưởi được thành lập ngày 11/11/1997 theo quyết
định số 136/QĐ Ngân hàng nông nghiệp của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam ngày 15/4/1997.
Chi nhánh NHNo & PTNT Mạc Thị Bưởi là một đại diện pháp nhân có con dấu riêng, có
bảng cân đối kế toán, hạch toán kinh tế nội bộ, hoạt động theo điều lệ và quy định của
NHNo&PTNT Việt Nam. Đây là chi nhánh loại một trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam.
Trụ sở đặt tại: 28-30-32 Mạc Thị Bưởi, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Thành lập được 14 năm Chi nhánh Mạc Thị Bưởi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
của mình với số lượng khách hàng ngày càng đông và dư nợ ổn định. Chi nhánh được

NHNo&PTNT Việt Nam đánh giá là hoạt động có hiệu quả và được biểu dương là một
trong những lá cờ đầu của hệ thống NHNo Việt Nam .
Thành lập theo quyết định số 439/QĐ/HĐQT-TCCB của Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị
NHNo&PTNT Việt Nam “ V/v Ban hành quy chế tổ chức hoạt động của phòng giao dịch
trực thuộc sở giao dịch, chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam “.
Tên gọi : Phòng giao dịch Nguyễn Trãi.
Ngày thành lập : 17/03/2006.
Trụ sở tại : 139G Nguyễn Trãi, Phường Bến Thành, Quận 1, TP Hồ Chí Minh. Đến
năm 2008 trụ sở đổi thành 28 Trần Hưng Đạo, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, TP Hồ Chí
Minh.
Phòng giao dịch Nguyễn Trãi có con dấu riêng, hạch toán báo sổ, được tổ chức thực
hiện theo quy chế về tổ chức và hoạt động theo Quyết định số 836/QĐ/NHNo-MTB-
HCTC ngày 14/07/2006 trực thuộc Chi nhánh Mạc Thị Bưởi.
2.1.3. Tổ chức nhân sự tại NHNo&PTNT chi nhánh Mạc Thị Bưởi-Phòng giao
dịch Nguyễn Trãi
Giám đốc
Phó Giám Đốc

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Trong đó:
 Tổ Kế toán – Ngân quỹ có nhiệm vụ:
- Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định của NHNo&PTNT Việt
Nam.
- Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ, tài liệu về hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo
theo quy định.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước.
- Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ, định mức tồn quỹ theo quy định.
- Quản lý, sử dụng thiết bị thông tin, điện toán phục vụ nghiệp vụ kinh doanh theo
quy dịnh của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Chấp hành các chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề.

- Thực hiện các nghiệp vụ khác do Giám đốc phòng giao dịch giao.
 Tổ Tín dụng có nhiệm vụ:
- Tiếp nhận hồ sơ tín dụng của khách hàng đã được phê duyệt cấp tín dụng, thực hiện
các thủ tục theo phê duyệt và theo quy trình nghiệp vụ.
- Trình giải ngân cho khách hàng trong hạn mức được duyệt.
- Tạo lập và theo dõi khoản vay của khách hàng.
- Quản lý thông tin, hồ sơ tín dụng của khách hàng.
- Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất
hướng khắc phục.
- Thực hiện thủ tục công chứng và đăng kí tài sản đảm bảo trong thời gian tài sản
được đảm bảo tại Agribank.
Tổ tín dụng Tổ kế toán-Ngân quỹ
2.1.4. Các hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT chi nhánh Mạc Thị Bưởi –
Phòng giao dịch Nguyễn Trãi
2.1.4.1. Nghiệp vụ huy động vốn
Huy động vốn luôn được coi là vấn đề chiến lược hàng đầu trong việc kinh doanh của
ngân hàng. Nguồn vốn quản lý và huy động được hình thành do huy động từ:
- Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân.
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn) của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế và cá nhân.
- Tiền gửi tiết kiệm của các tầng lớp dân cư.
- Vốn huy động trong khâu thanh toán không cần tiền mặt.
2.1.4.2. Nghiệp vụ cho vay
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các tổ
chức kinh tế, cá nhân và hộ gia đình.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam đối với hộ sản xuất kinh
doanh, cho vay tiêu dùng cán bộ công nhân viên.
2.1.4.3. Nghiệp vụ trung gian
Thực hiện nghiệp vụ này nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và tạo ra cho ngân
hàng những nguồn thu dưới hình thức hoa hồng, lệ phí…Dịch vụ này chủ yếu là dịch vụ

thanh toán gồm chi trả lương, chuyển tiền, thu hộ séc du lịch, dịch vụ cung cấp thẻ tín
dụng, thẻ thanh toán, thẻ ATM, thu bảo hiểm Prudential, thu cước Mobile Phone, thu tiền
điện, dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union.
2.1.5. Những thuận lợi và khó khăn của Phòng giao dịch Nguyễn Trãi
2.1.5.1. Thuận lợi
Phòng giao dịch Nguyễn Trãi là đơn vị trực thuộc chi nhánh Mạc Thị Bưởi, một chi
nhánh hoạt động có hiệu quả và uy tín trong 14 năm qua (thành lập ngày 15/04/1997) .
Phòng giao dịch Nguyễn Trãi đã không ngừng thu hút khách hàng và được khách hàng tin
tưởng, vì thế ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân đến thiết lập mối quan hệ với ngân hàng.
Phòng giao dịch đặt gần khu chợ Bến Thành quận 1 Tp.HCM là khu vực năng động,
trung tâm tài chính thành phố, nơi thu hút đông đảo mọi thành phần kinh tế và dân cư, tạo
điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc tiếp cận và mở rộng quan hệ giao dịch với
khách hàng.
Đội ngũ cán bộ công nhân viên trẻ, nhiệt tình trong công việc, có trình độ chuyên
môn và năng lực ngày càng được nâng cao.
Với hệ thống sản phẩm phong phú, đa dạng và luôn được điều chỉnh kịp thời nhằm
phù hợp với xu thế phát triển đã mang lại giá trị và sự thỏa mãn cho khách hàng.
Công nghệ thông tin ngân hàng, hệ thống nối mạng nội bộ được sử dụng rộng rãi
trong hệ thống ngân hàng làm cho công tác quản lý, điều chỉnh trở nên nhanh chóng, hiện
đại góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng và tạo sự an tâm, tin cậy nơi khách hàng.
2.1.5.2. Khó khăn
Phường Phạm Ngũ Lão quận 1 là nơi tập trung đông đảo các ngân hàng vốn đã có quá
trình phát triển lâu dài, cơ sở vật chất hoàn thiện, đã tạo được uy tín trên thị trường tiền tệ.
Điều này đã tạo ra môi trường cạnh tranh mạnh mẽ giữa các ngân hàng để thu hút khách
hàng. Do đó, NHNo&PTNT chi nhánh Mạc Thị Bưởi-phòng giao dịch Nguyễn Trãi phải
đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt để tồn tại và khẳng định mình.
Khách hàng chủ yếu của Phòng giao dịch Nguyễn Trãi là cá nhân và hộ gia đình.
Ngân hàng gặp nhiều khó khăn để tìm kiếm và thiết lập quan hệ với các doanh nghiệp vốn
đã quan hệ lâu dài với các ngân hàng khác.
Lãi suất ngân hàng biến động, tỷ giá ngoại tệ, giá vàng biến động mạnh gây nhiều

khó khăn cho việc kinh doanh của ngân hàng.
Tổ chức nhân sự của phòng còn chưa đầy đủ, các phòng ban còn thiếu, số lượng cán
bộ công nhân viên ít nhưng phải đảm đương nhiều việc.
2.2. Kết quả hoạt động của NHNo&PTNT chi nhánh Mạc Thị Bưởi - phòng giao
dịch Nguyễn Trãi
2.2.1. Hoạt động huy động vốn
NHNo&PTNT CN Mạc Thị Bưởi-PGD Nguyễn Trãi luôn xác định chức năng của
NHTM là đi vay để cho vay, vì thế PGD Nguyễn Trãi luôn coi trọng công tác huy động vốn
và coi đây là công tác chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
của mình. Từ quan điểm muốn mở rộng cho vay thì phải đảm bảo đủ nguồn vốn mà chủ
yếu là nguồn vốn huy động trên địa bàn, bằng các hình thức huy động phong phú phù hợp
với mọi tầng lớp dân cư, mở rộng mạng lưới huy động, đổi mới phong cách làm việc, tạo
uy tín và sự tin cậy của khách hàng.
PGD Nguyễn Trãi được đặt gẩn khu chợ Bến Thành-trung tâm của thành phố, nơi
người dân có thu nhập ổn định, mức sống cao, có tiền nhàn rỗi. Mặt khác ở nước ta trong
những năm gần đây đồng tiền khá ổn định, lạm phát ở mức thấp là nguyên nhân cơ bản
góp phần vào sự thành công của kết quả huy động vốn của NHNo&PTNT CN Mạc Thị
Bưởi-PGD Nguyễn Trãi, năm sau cao hơn năm trước, tạo lập được nguồn vốn ổn định
phục vụ cho quá trình tái đầu tư nền kinh tế trên địa bàn. Nhờ làm tốt công tác huy động
vốn nên những năm vừa qua PGD Nguyễn Trãi luôn đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho hoạt
động kinh doanh của mình. Kết quả huy động vốn những năm gần đây như sau:
Bảng 2.1 – Tình hình nguồn vốn huy động của PGD Nguyễn Trãi
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm Nguồn vốn huy động
Tăng trưởng so với năm trước
Tuyệt đối Tương đối
2008 184
2009 202,08 18,08 9,83%
2010 256,4 54,32 26,88%
( Nguồn: Tổ kế toán - phòng giao dịch Nguyễn Trãi)

Biểu đồ 2.1 – Nguồn vốn huy động của PGD Nguyễn Trãi qua các năm
Nhận xét:
Dựa vào bảng 2.1, ta thấy rằng trong các năm qua nguồn vốn mà PGD Nguyễn Trãi
huy động được ngày càng tăng.
Tính đến cuối năm 2008 ngân hàng huy động được 184 tỷ đồng.
Sang đến năm 2009 nguồn vốn huy động là 202,08 tỷ đồng, tăng 9,83% so với năm
2008, tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 18,08 tỷ đồng. Tuy năm 2008 xảy ra cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng theo đánh giá của Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước thì hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa có mối liên hệ trực tiếp với thị trường tài
chính thế giới nên mức độ ảnh hưởng không lớn. Bên cạnh đó, hệ thống NHNo&PTNT
Việt Nam với thực lực về thanh khoản và sức mạnh tài chính đã đưa ra các sản phẩm dịch
vụ tiện ích và hiện đại góp phần làm cho CN Mạc Thị Bưởi-PGD Nguyễn Trãi có nguồn
vốn huy động tốt.
Tính đến thời điểm 31/12/2010, tổng nguồn vốn huy động của phòng giao dịch là
256,4 tỷ đồng, tăng 54,32 tỷ đồng so với năm 2009, mức tăng là 26,88%.
Có được kết quả về huy động vốn trong những năm vừa qua là do ngân hàng đã xác
định được tầm quan trọng của vốn huy động, ngân hàng đã tổ chức, triển khai thêm nhiều
biện pháp huy động vốn như: huy động tiết kiệm bảo đảm giá trị theo vàng, xây dựng
thành công chương trình kết nối Agribank với công ty chứng khoán, đặc biệt trở thành
ngân hàng hàng đầu trong việc phát triển các sản phẩm Mobile Banking. Bên cạnh đó ngân
hàng còn tuyên truyền, quảng cáo để người dân biết, trưng bày các biển quảng cáo ở trụ sở
ngân hàng trung tâm và các ngân hàng khu vực, ở một số tuyến đường tập trung đông dân
cư, vận động mọi người tham gia gửi tiền tiết kiệm, tạo điều kiện cho mọi công dân có nhu
cầu mở tài khoản tiền gửi cá nhân và thanh toán giao dịch qua ngân hàng, cán bộ công
nhân viên được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Có thể nói trong 3 năm gần đây, nguồn vốn huy động của PGD Nguyễn Trãi có sự
tăng trưởng khá. Dù sự tăng trưởng nguồn vốn chưa phản ánh được bản chất hoạt động
kinh doanh của phòng giao dịch là tốt hay xấu nhưng điều đó cho thấy rằng hoạt động huy
động vốn của ngân hàng diễn ra khá tốt trong điều kiện phải cạnh tranh với những ngân
hàng khác trên địa bàn. Phòng giao dịch Nguyễn Trãi đã và đang xâm nhập tốt và ngày

càng có uy tín hơn với khách hàng, tạo đà cho từng bước phát triển trong hoạt động khai
thác nguồn vốn, mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng.
2.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn, PGD Nguyễn Trãi cũng coi trọng
công tác sử dụng vốn vì đây là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Mặt
khác nếu làm tốt công tác sử dụng vốn có thể tác động trở lại thúc đẩy hoạt động huy động
vốn.
Mức dư nợ cao hay thấp đều phụ thuộc vào mức huy động vốn của ngân hàng. Nếu
nguồn vốn huy động tăng sẽ tạo điều kiện cho mức dư nợ gia tăng và ngược lại. Bất cứ
một ngân hàng nào cũng vậy, muốn hoạt động tốt không chỉ cần nâng cao nguồn vốn huy
động mà còn phải nâng cao mức dư nợ. PGD Nguyễn Trãi cũng như các ngân hàng khác,
luôn mở rộng hoạt động tín dụng đến với mọi thành phần kinh tế, tuy nhiên PGD vẫn lấy
“an toàn, hiệu quả, hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng” làm mục tiêu hoạt động. Tình hình
hoạt động tín dụng tại PGD Nguyễn Trãi qua các năm gần đây như sau:
Bảng 2.2 – Tình hình dư nợ tại PGD Nguyễn Trãi
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm Tổng dư nợ
Tăng trưởng so với năm trước
Tuyệt đối Tương đối
2008 97,6
2009 109,5 11,9 12,2%
2010 163,3 53,8 49%
(Nguồn: Tổ kế toán – PGD Nguyễn Trãi)
Biểu đồ 2.2 – Dư nợ của PGD Nguyễn Trãi qua các năm
Nhận xét:
Nhìn vào bảng và biểu đồ ta thấy số dư tín dụng của PGD Nguyễn Trãi có sự tăng nhẹ
qua các năm, sự tăng trưởng này chủ yếu là do nguồn vốn huy động qua các năm tăng. Nếu
năm 2008 tổng dư nợ là 97,6 tỷ đồng thì đến năm 2009 con số này đạt 109,5 tỷ đồng, tăng
11,9 tỷ đồng so với năm 2008, tương ứng với tốc độ tăng 12,2%. Đây là mức tăng trưởng
tín dụng không cao. Nguyên nhân của sự việc này là do năm 2008 tình hình tài chính biến

động mạnh, lãi suất huy động bị đẩy lên khá cao vì thế ngân hàng cũng phải tăng lãi suất
cho vay, mà lãi suất cho vay cao làm cho doanh nghiệp khó khăn trong việc vay vốn. Về
phía ngân hàng, họ cũng cẩn trọng hơn việc giải ngân trong thời gian này vì khả năng hoàn
trả của doanh nghiệp bị giảm sút, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi các khoản
nợ, làm tăng rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Do đó PGD Nguyễn Trãi trong thời gian này
chủ yếu chỉ quan hệ tín dụng đối với những khách hàng cũ thân thiết, được tín nhiệm, có
phương án sản xuất kinh doanh tốt và có uy tín trong việc thanh toán các khoản nợ với
ngân hàng. Và hình thức cho vay chủ yếu là cho vay theo hạn mức tín dụng vì loại hình
cho vay này có kỳ hạn ngắn làm hạn chế phần nào rủi ro tín dụng, mặt khác giúp PGD tăng
nhanh vòng quay vốn, góp phần nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng.
Tính đến 31/12/2010 thì tổng dư nợ của PGD là 163,3 tỷ đồng, tăng 53,8 tỷ đồng so
với năm 2009, ứng với tốc độ tăng 49%. Ta thấy mức tăng trưởng dư nợ của năm 2010 so
với năm 2009 cao hơn mức tăng trưởng dư nợ của năm 2009 so với năm 2008 là do cùng
với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước với nguồn vốn khả dụng của
hệ thống, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào, cả lãi suất huy động và cho vay
dồn dập giảm. Mặt khác PGD Nguyễn Trãi mở rộng các chính sách về tín dụng, tăng
cường các khoản tín dụng trung và dài hạn, tạo điều kiện hỗ trợ khách hàng sau khủng
hoảng, vừa để tăng trưởng về hoạt động tín dụng, vừa khuyến khích các khách hàng tiếp
cận nguồn vốn từ ngân hàng để từ đó nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
2.2.3. Kết quả kinh doanh
Cuối niên độ kế toán mỗi năm, tổ kế toán của PGD Nguyễn Trãi lập Báo cáo Thu
nhập và Chi phí cho ngân hàng.
Tình hình thu nhập và chi phí của PGD Nguyễn Trãi trong ba năm 2008, 2009 và
2010 vừa qua được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2.3 – Báo cáo thu nhập và chi phí PGD Nguyễn Trãi
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
I. Thu từ lãi: 22.728 19.391 33.330
1. Thu lãi cho vay 18.202 15.464 29.238
2. Thu lãi khác

4.526 3.927 4.092
II. Chi trả lãi 20.739 17.223 30.438
1. Chi trả lãi tiền gửi 16.875 13.435 22.337
2. Chi trả khác 4.864 3.788 8.101
III. Thu nhập từ lãi (I – II) 1.989 2.168 2.892
IV. Thu nhập ròng từ hoạt
động dịch vụ
145 160 264
V. Tổng thu nhập từ hoạt
động KD
2.134 2.328 3.156
VI. Chi phí HĐ, quản lý 1.959 2.128 2.078
VII. Thu nhập trước thuế 175 200 1.078
(Nguồn: Tổ kế toán – Phòng giao dịch Nguyễn Trãi)
Nhận xét:
Nhìn vào bảng 2.3 ta thấy:
 Khoản thu từ lãi năm 2008 đạt 22.728 triệu đồng, sang đến năm 2009 con số này chỉ
đạt 19.391 triệu đồng, tương đương tỉ lệ giảm 17,2%. Khoản thu từ lãi năm 2009 giảm
xuống là do sự giảm sút của hai khoản mục thành phần, cụ thể là:
Năm 2008 khoản thu từ lãi cho vay là 18.202 triệu đồng, trong khi năm 2009 khoản
thu này chỉ là 15.464 triệu đồng, giảm 2.738 triệu đồng so với năm 2008. Nguyên nhân của
sự sụt giảm này là do sự chênh lệch lãi suất cho vay của hai năm quá lớn. Năm 2008 lạm
phát tăng cao, các ngân hàng đồng loạt nâng lãi suất huy động để thu hút khách hàng, điều
này đồng nghĩa với việc ngân hàng cũng phải tăng lãi suất cho vay nhằm có được mức
chênh lệch lãi ròng hợp lý.
Khoản thu lãi khác của PGD Nguyễn Trãi năm 2009 cũng giảm đi so với năm 2008,
từ 4.526 triệu đồng năm 2008 giảm xuống còn 3.927 triệu đồng năm 2009, ứng với tỷ lệ
giảm 15,3%.
Đến năm 2010 thì khoản thu từ lãi tăng lên là 33.330 triệu đồng, mức tăng 13.939
triệu đồng tương đương tỷ lệ tăng 71,88% so với năm 2009. Sự tăng trưởng này là do tất cả

các khoản mục trong khoản thu từ lãi của năm 2010 tăng so với năm 2009. Nguyên nhân
của sự gia tăng này là do nền kinh tế đã ổn định trở lại và PGD đã có sự huy động vốn tốt,
tạo nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng.
 Về khoản chi trả lãi: năm 2009 PGD chỉ phải chi trả lãi 17.223 triệu đồng, giảm
3.516 triệu đồng so với năm 2008, ứng với tỷ lệ giảm 20,4%. Nguyên nhân của việc này là
do trong năm 2009 lạm phát hạ nhiệt, gánh nặng về lãi suất huy động của PGD giảm đi rất
nhiều so với năm 2008. Nếu như trong năm 2008 lãi suất bình quân PGD phải trả là
19%/năm cho nguồn vốn huy động thì sang năm 2009 lãi suất bình quân phải trả chỉ là
11,5%/năm.
Tuy khoản thu từ lãi và khoản chi trả lãi của PGD Nguyễn Trãi đều giảm đi từ năm
2008 sang năm 2009 nhưng tốc độ giảm của khoản thu từ lãi (14,68%) nhỏ hơn tốc độ
giảm của khoản chi từ lãi (16,95%), vì vậy PGD vẫn có thu nhập từ lãi năm 2009 (2.168
triệu đồng) cao hơn thu nhập từ lãi năm 2008 (1.989 triệu đồng).
Sang năm 2010 thì mức chi trả lãi mà PGD Nguyễn Trãi phải chi là 30.438 triệu
đồng, tăng 13.215 triệu đồng so với năm 2009, ứng với tỷ lệ tăng 76,73%. Điều này cho
thấy năm 2010 ngân hàng đã huy động một lượng lớn tiền gửi so với năm 2009 vì thế chi
trả lãi tiền gửi năm 2010 tăng lên 66,26% với mức tăng 8,902 triệu đồng. Thu nhập từ lãi
năm 2010 là 2,892 triệu đồng, tăng 724 triệu đồng so với năm 2009.
 Thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ tăng cao qua ba năm. Năm 2008 khoản thu này
là 145 triệu đồng trong khi năm 2009 con số này là 160 triệu đồng, tăng 10,34% so với
năm 2008. Đến năm 2010 thì khoản thu nhập này đạt 264 triệu đồng, tăng 104 triệu đồng
so với năm 2009, ứng với tốc độ tăng 65%. Sự gia tăng từ khoản thu hoạt động dịch vụ này
cũng góp phần làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
 Chi cho hoạt động quản lý: do một số nguyên nhân phát sinh mà năm 2009 PGD
Nguyễn Trãi chi cho khoản mục này (2.128 triệu đồng) cao hơn khoản chi cho hơn hoạt
động quản lý năm 2008 (1959 triệu đồng). Đến năm 2010 thì khoản chi này giảm còn
2.078 triệu đồng, tiết kiệm được 50 triệu đồng so với năm 2009.
 Cuối cùng, tổng thu nhập trước thuế mà PGD Nguyễn Trãi đạt được tại thời điểm
cuối năm 2010 là 1.078 triệu đồng, tăng rất nhiều so với năm 2009 (200 triệu đồng) với
mức tăng 878 triệu đồng.

2.3. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh Mạc Thị Bưởi
- phòng giao dịch Nguyễn Trãi
Tất cả các NHTM để đi vào hoạt động phải cần có vốn. Nguồn vốn tự có tuy rất quan
trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ và chủ yếu để đầu tư vào cơ sở vật chất, tạo uy tín
với khách hàng. Do đó hoạt động huy động vốn (nghiệp vụ tài sản nợ) trong mỗi ngân

×