Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Hạn chế và xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần á châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.64 KB, 103 trang )

1

CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.1.1. Đặt vấn đề
Toàn cầu hóa, một xu thế tất yếu mà Việt Nam không nằm ngoài quy luật
chung đó. Điều đó được thấy rõ nhất trong thời gian qua khi Việt Nam lần lượt là
thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại, văn hóa, xã hội của quốc tế và khu
vực. Toàn cầu hóa đã đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích trên tất cả các mặt trong
đó có kinh tế như là cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài,
hợp tác song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực với nhiều quốc gia khác
nhau, kinh tế tăng trưởng khá; năm 2013 tăng trưởng GDP đạt 5,4% …..Bên cạnh
những lợi ích mà toàn cầu hóa đã mang lại thì những mặt trái của toàn cầu hóa cũng
tác động mạnh mẽ đến Việt Nam trong những năm qua. Đặc biệt là trên lĩnh vực
kinh tế. Cụ thể là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra năm 2008 đến nay nó
đã trải qua hơn 5 năm đã làm các chỉ số kinh tế biến động liên tục và đầu tư xã hội
thì ngày càng teo tóp. Còn lĩnh vực tài chính ngân hàng, một lĩnh vực chịu tác động
nặng nề trong hơn 5 năm qua. Với số lượng nợ xấu tăng lên qua các năm, theo
moondy’s con số nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã lên tới hơn 15% năm 2013.
Đặc biệt ngay từ trước khi được thành lập 7/9/2013, Công ty quản lý tài sản
(VAMC) được kỳ vọng sẽ tạo ra sự chuyển biến tích cực cho toàn hệ thống ngân
hàng. Tuy nhiên, sau gần 2 năm chính thức hoạt động, số nợ xấu mà VAMC mua
được từ các tổ chức tín dụng tính đến đầu tháng 10/2014 là 93.000 tỷ đồng nhưng
mới bán lại được khoảng 1.500 tỷ. Một con số đáng báo động về tình hình kinh
doanh tiền tệ hiện nay tại Việt Nam.
1.1.2. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng thương mại thương mại cổ phần (NHTMCP) Á Châu là một trong
những ngân hàng hàng đầu trong khối NHTMCP ở nước ta, tình hình kiểm soát tín
dụng thời gian qua cũng được xem là khá tốt. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay,
việc ngân hàng đang đối mặt với những khó khăn về kinh doanh, đặc biệt là tỷ lệ nợ
xấu đang có xu hướng ngày càng tăng lên ăn mòn tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng.




2

Theo bảng báo cáo tài chính hợp nhất quý 4/2013, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB),
có tỷ lệ nợ xấu tăng từ 2.5% lên 3.03%, nợ có khả năng mất vốn cao gần gấp đôi so với
năm 2012 là 2,123 tỷ đồng. Thu nhập thuần từ lãi hợp nhất trong kỳ của ACB đạt

887 tỷ đồng, giảm mạnh 43% so với quý 4/2012. Trước những vấn đề nảy sinh trên
thì công tác quản lý nợ xấu là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay đối với ngân
hàng ACB.
Với những vấn đề cấp thiết như trên nên tôi chọn đề tài “Hạn chế và xứ lý nợ

xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu” làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình với mục đích là kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp một phần nào đó cho công tác
quản lý nợ xấu tại ngân hàng này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu thực trạng nợ xấu tại ACB để đưa ra các phưong pháp nhằm hạn
chế và xử lý nợ xấu tại ngân hàng này
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nợ xấu và công tác quản lý nợ xấu trong hoạt
động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng.
- Phân tích thực trạng nợ xấu, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và các
phương pháp quản lý nợ xấu tại ACB.
- Trên cơ sở lý luận, thực trạng nợ xấu và các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu
tại ngân hàng, đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu tại ngân hàng
ACB trong thời gian tới.
1.3. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
1.3.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài

Nhìn chung, trong việc nghiên cứu về nợ xấu ở Việt Nam, các tài liệu chính
chủ yếu là các bài báo hoặc tạp chí được trình bày dưới dạng nêu vấn đề và sự việc,
cũng có một số ít đề tài nghiên cứu về nợ xấu ở Việt Nam, nổi bật:
1) Trần Bảo Toàn (2007): “Analysis of the Vietnamese Banking Sector


3

with special reference to Corporate Governance” Luận án tiến sĩ kinh tế, trường
Đại học Kinh tế St. Gallen Thụy Sĩ. Nghiên cứu này đã đặt trọng tâm vào phân tích
quản trị ngành ngân hàng tại Việt Nam. Trong đó tại chương 3, tác giả đã đề cập đến
vai trò thị trường thứ cấp để xử lý nợ xấu. Đó là nguồn để xử lý nợ xấu phải theo
nguyên tắc lấy thị trường nuôi thị trường bằng cách tạo ra thị trường nợ thứ cấp để
sử dụng đồng bộ các thiết chế quản trị nợ sẵn có như các Công ty Quản lý nợ và
Khai thác tài sản (AMC) ở các Ngân hàng thương mại, Công ty mua bán Nợ và Tài
sản tồn đọng (DATC) của Bộ Tài chính, thị trường chứng khoán…, các công cụ tài
chính phi tiền tệ, công cụ tiền tệ và cả phương tiện phi vật chất như không gian, thời
gian, kinh nghiệm và uy tín để tạo nguồn xử lý nợ xấu.
2) Báo cáo của ngân hàng Standard Chartered (2013): "VietnamNavigating the macro landscape‟‟ ngày 26/2/2013 trong đó tập trung phân tích về
vấn đề nợ xấu cùng các kịch bản tác động, cũng như phác thảo về các kênh tài trợ
giải quyết nợ xấu. Báo cáo cho rằng quy trình phải được thực hiện theo bốn bước
chính để có thể giải quyết nợ xấu một cách hiệu quả: Một là ghi nhận nợ xấu; Hai là
trích lập dự phòng đầy đủ; Ba là tái cấp vốn; Bốn là kiểm soát rủi ro.
3) Báo cáo của Tổ chức Ngân hàng Thế giới (WB) (2013):
TakingStock_Presentation_Dec2013_VN‟‟ trong đó có để cập đến vấn đề cải cách
khu vực ngân hàng. Báo cáo cũng nêu rõ những rào cản khiến cho khu vực ngân
hàng còn mong manh. Đó là: nợ xấu còn cao do quan ngại về công khai tài chính và
minh bạch; phân loại nợ chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế; Nhà nước còn nắm giữ
cổ phần lớn trong các ngân hàng; cần quan tâm các quy định về phá sản, vỡ nợ và
quyền của người cho vay.

4) Bài phát biểu của Ông Sanjay Kalra, đại diện Thường trú của Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF) Việt Nam tại hội nghị "VietNam Development Partner Ship
Forum‟‟ ngày 5/12/2013 đã đề cập đến vấn đề cải cách cơ cấu còn chậm mà đặc
biệt cải cách ngành ngân hàng vẫn là một ưu tiên hàng đầu. Nếu trì hoãn cải cách có
thể sẽ làm xói mòn niềm tin, khả năng làm tăng nợ dự phòng có thể sẽ nhiều hơn.
Giải quyết những điểm yếu liên quan đến chất lượng tài sản có, nợ xấu, trích lập dự
phòng và mức vốn là việc rất quan trọng để tạo ra một môi trường mà trong đó các


4

ngân hàng làm trung gian chuyển tiết kiệm của quốc gia tới đầu tư hiệu quả. Những
vấn đề này cần được giải quyết ở tất cả các ngân hàng lớn và nhỏ, nhà nước hay cổ
phần. Để khôi phục sức khoẻ của hệ thống ngân hàng, các Giám đốc đã khuyến nghị
nên thực hiện các biện pháp cấp vốn bổ sung các ngân hàng, tăng cường thanh tra
và quản lý ngân hàng và thực hiện giải kế hoạch giải quyết nợ xấu.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Trong thời gian vừa qua, việc nghiên cứu về đề tài này trong nước đã có một
số công trình nghiên cứu như sau:
1) Nguyễn Thị Thu Hiền (2012), “Giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại
ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Gia Lai”, Luận văn thạc sĩ
quản trị kinh doanh, Trường Đại học Đà Nẵng.
Công trình này tập trung đánh giá thực trạng hạn chế và xử lý nợ xấu tại
ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Gia Lai. Qua đó, đưa ra các
nhận xét đánh giá để đưa ra các giải pháp khác nhau nhằm xử lý nợ xấu cho ngân
hàng này.
2) Nguyễn Thị Thu Hương (2012), “Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong
hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, trường
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Công trình này đi sâu vào phân tích những vấn đề pháp lý trong hoạt động

cho vay của NTHM hiện nay. Qua đó, luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần
hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn
vay trong hoạt động cho vay của NHTM.
3) Nguyễn Thiên Phụng (2013) “Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam- Chi nhánh Bình Thạnh” luận văn thạc sĩ kinh tế,
trường ĐH Ngân hàng TP.HCM.
Công trình tập trung nghiên cứu các nguyên nhân gây ra nợ xấu ở các
NHTM, thực trạng hạn chế và xử lý nợ xấu ở đơn vị cũng như đề xuất các giải pháp
để hạn chế và xử lý nợ xấu.


5

4) Đỗ Thị Thu Quỳnh (2012), “Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại
ngân hàng TMCP công thương Việt Nam – chi nhánh 1 Tp.HCM”, luận văn thạc sĩ
kinh tế, trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Công trình này tập trung đánh giá về thực trạng rủi ro tín dụng và công tác
quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng công thường chi nhánh 1 – TP.HCM. Từ đó,
đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng này.
5) Trần Thị Thu Tâm (2006), “Hoàn thiện công tác xử lý nợ tồn đọng tại hệ
thống ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh
tế Tp.HCM.
Đề tài nghiên cứu với mục đích hoàn thiện công tác xử lý nợ tồn đọng tại hệ
thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam . Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề
tài trên là tương đối xa do đó các số liệu cho đến thời điểm hiện tại đã lạc hậu không
mang tính thời sự cao.
6) Trần Thị Hồng Thắm (2011), “Giải pháp xử lý và ngăn ngừa nợ quá hạn
của ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Trà Vinh”, Luận văn thạc sĩ, trường
Đại học Kinh tế TP.HCM.
Công trình này tập trung đánh giá kết quả kinh doanh của các ngân hàng

thương mại trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Đồng thời nghiên cứu tình hình cho vay, thu
nợ, tình hình nợ quá hạn và tình hình thu nợ quá hạn của một số ngân hàng thường
mại của tỉnh Trà Vinh, qua đó nhận xét đánh giá để đưa ra các giải pháp khác nhau
nhằm xử lý nợ xấu cho các NHTM trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
7) Phạm Thu Trang (2009), “Quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao dịch 1
– Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường
Đại học Thương mại Hà Nội.
Luận văn đã tập trung nghiên cứu những nội dung sau; Thứ nhất, làm sáng tỏ
về mặt lý luận vấn đề nợ xấu đối với việc phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam
trong bối cảnh nền kinh tế đang trong tiến trình hội nhập. Thứ hai, nhận biết rõ
những yếu kém trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam cũng như phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển của ngân
hàng. Thứ ba, xác định rõ phương hướng trong công tác quản lý nợ xấu của


6

ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Tuy nhiên đề tài này chỉ đưa ra một số
giải pháp chung chung về quản lý nợ xấu mà chưa đưa ra được giải pháp cụ thể để
giải quyết triệt để nợ xấu của ngân hàng trong thời gian tới.
8) Hội thảo khoa học (2012): “Phát triển thị trường mua bán nợ Việt Nam:
Rào cản chính sách và định hướng hoàn thiện” do Viện Chiến lược và Chính sách
tài chính phối hợp với Trường Đại học Tài chính Marketing miền Nam. Hội thảo tập
trung đánh giá thực trạng thị trường mua bán nợ ở Việt Nam hiện nay; Khuôn khổ
pháp lý đối với thị trường mua bán nợ và những định hướng sửa đổi bổ sung; Phân
tích những cơ chế xử lý nợ hiện nay như xóa nợ, cơ cấu lại nợ, hoạt động mua bán
và sáp nhập (M&A), cổ phần hóa, hóa đổi nợ thành vốn chủ sở hữu v.v…
9) Hội thảo khoa học công bố Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2013:
“Trên đường gập ghềnh tới tương lai” do Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc
gia Hà Nội và Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức ngày

27/5/2013. Nội dung cuộc hội thảo đề cập đến vấn đề nghiên cứu nợ xấu quốc tế...
Từ kinh nghiệm thế giới đến thực tiễn Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã cung cấp một
tập hợp các kinh nghiệm quốc tế đa dạng về xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng
trong vài chục năm qua trên nhiều vùng lãnh thổ, chế độ kinh tế khác nhau, từ đó
chia sẻ về phương án xử lý nợ xấu của Việt Nam hiện nay và gợi
ý các chính sách tăng cường hiệu quả của chính sách này.
Ngoài ra tác giả còn đọc và tham khảo các công trình nghiên cứu như “Giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng
Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”, hay “Một số giải pháp nâng cao
khả năng thu nợ tại Ngân hàng Công thương” …Những đề tài này tập trung nghiên
cứu về nâng cao chất lượng tín dụng nói chung hoặc các đề tài nghiên cứu về khả
năng thu nợ của ngân hàng
Tóm lại, các đề tài nghiên cứu về nợ xấu cho Ngân hàng Thương Mại Cổ
phần Á Châu chưa có hoặc có thì hầu hết lấy số liệu cũ, chưa có sự cập nhật mới.
Các đề tài trong nước và nước ngoài nêu trên khi đề cập đến vấn đề nợ xấu, mỗi nhà
khoa học có cách tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo quan điểm của tác giả
để giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu ngoài vấn đề phải xây dựng hệ thống ngân hàng


7

vững mạnh, một yếu tố quan trọng trong quá trình xử lý nợ xấu đó là phải xác định
rõ nguồn gốc xâu xa dẫn đến nợ xấu và coi vấn đề nợ xấu là hệ lụy của cả nền kinh
tế chứ không chỉ của riêng ngành ngân hàng và phải có lộ trình xử lý nợ xấu cụ thể.
Do đó không chỉ riêng ngành ngân hàng mà tất cả các bộ ngành liên quan phải cùng
nhau ngồi lại để tìm ra hướng đi chung xử lý “cục máu đông” này. Vì thế việc
nghiên cứu đề tài này là một yêu cầu khách quan và rất khẩn trương nhằm giúp các
nhà hoạch định chính sách có một cách nhìn cụ thể và hệ thống để đưa ra những giải
pháp đúng đắn nhất nhằm góp phần thành công cho quá trình xử lý nợ xấu tại ngân
hàng. Đây chính là lý do tác giả chọn đề tài „„Hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân

hàng Thương mại Cổ phần Á Châu” để nghiên cứu.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nợ xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
(ACB) trong giai đoạn hiện nay
- Khách thể nghiên cứu: Ban Giám đốc các chi nhánh Ngân hàng Thương
mại cổ phần Á Châu, lãnh đạo các Phòng tín dụng, công nhân viên và khách hàng
của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
1.4.2.1. Nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về nợ xấu và thực trạng nợ xấu
trong thời gian qua của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu, từ đó đưa ra các
biện pháp hạn chế và xử lý nợ xấu một cách có hiệu quả.
1.4.2.2. Không gian
Các hoạt động kinh doanh, trong đó đặc biệt nghiên cứu hoạt động quản lý
nợ xấu của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu.
1.4.2.3. Thời gian
Số liệu thứ cấp: Số liệu sử dụng để nghiên cứu cho đề tài trong 3 năm từ năm
2011 đến năm 2013.
Số liệu sơ cấp: Khảo sát từ tháng 7/2014 đến tháng 9/2014.
1.5. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu


8

Luận văn sẽ sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu định tính để thực hiện
mục đích nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, để đảm bảo tính khoa học và
thực tiễn các nội dung nghiên cứu, luận văn sẽ sử dụng kết hợp các phương pháp
sau:
- Phương pháp lịch sử;

- Phương pháp thống kê, mô tả;
- Phương pháp phân tích so sánh;
- Phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia;
- Phương pháp điếu tra, khảo sát;
- Phương pháp tổng hợp.
1.6. Những đóng góp mới của luận văn
Bài văn phân tích, đánh giá thực trạng nợ xấu của ACB, sẽ giúp cho các nhà
quản trị ACB có cái nhìn tổng quát hơn về thực trạng hoạt động hạn chế và xử lý nợ
xấu của ngân hàng.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của bài luận sẽ cung cấp một tài liệu tham
khảo cho các nhà quản trị ACB.
Đồng thời, bài luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm giúp cho ACB nâng
cao được hiệu quả hoạt động hạn chế và xử lý nợ xấu, hiệu quả hoạt động kinh
doanh và nâng cao vị thế của ngân hàng .
1.7. Bố cục luận văn
Đề tài nghiên cứu tuân theo quy định về bố cục luận văn của nhà trường. Vì
vậy luận văn được thiết kế với kết cấu thành 5 chương:
Chương 1: Mở đầu
Chương 2: Cơ sở lý luận về nợ xấu ở ngân hàng thương mại và quản trị nợ
xấu tại các ngân hàng thương mại.
Chương 3: Phân tích thực trạng nợ xấu tại ngân hàng TMCP Á Châu và
phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 5: Kết luận và kiến nghị


9

Kết luận chương 1
Chương 1 đã tiến hành đưa ra lý do chọn đề tài nghiên cứu, mục tiêu nghiên

cứu, nội dung và phương pháp nghiên cứu. Bên cạnh đó một nội dung không kém
phần quan trọng của chương này đó là tác giả đã hệ thống hóa được các công trình
nghiên cứu về các đề tài liên quan trong thời gian qua, đây là cơ sở để tác giả tìm ra
điểm mới trong nghiên cứu của đề tài này.


10

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VÀ QUẢN TRỊ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Cơ sở lý thuyết về nợ xấu
2.1.1. Khái niệm nợ xấu
 Theo Ngân hàng Trung ương Liên minh châu Âu
Nợ xấu trong các NHTM bao gồm:
* Nợ không thể thu hồi được:
- Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi
bồi thường từ nợ
- Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ.
- Những khoản nợ mà Ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ
hoặc không thể tìm được người mắc nợ.
- Những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài
sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
* Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng.
Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp
không đủ trả nợ. Người mắc nợ không liên lạc với Ngân hàng để trả lãi hoặc gốc có
thời hạn thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi đầy
đủ như:
- Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng
phần còn lại không thể được đền bù, hoặc những khoản nợ trong đó tài sản được
chuyển để thanh toán nhưng giá trị còn lại không đủ trang trải toàn bộ khoản nợ.

- Những khoản nợ mà người mắc nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu gia hạn nợ
nhưng không đền bù được trong thời gian thỏa thuận.
- Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế
chấp ở Ngân hàng không được chấp nhận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc nợ
không thể trả nợ Ngân hàng đầy đủ.


11

- Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần
bồi hoàn ít hơn dư nợ.


Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc

Một khoản nợ xấu được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/ hoặc gốc trên 90
ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp
vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày
nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán
đầy đủ. Về cơ bản, nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày
và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ.


Theo định nghĩa của Việt Nam

Theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 về phân loại tài sản có,
mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông
tư này sẽ thay thế Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày
22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng và

Quyết định 18 ban hành ngày 25/4/2007 về sửa đổi, bổ sung Quyết định 493.
Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới chuẩn),
nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn); các nhóm nợ trên có
các khoản nợ gốc và lãi đã quá hạn từ 90 ngày trở lên. Tuy có nhiều khái niệm khác
nhau nhưng nhìn chung các khái niệm nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa
trên hai yếu tố: (i) Các khoản dư nợ đã quá hạn từ 90 ngày trở lên; (ii) Khả năng trả
nợ của khách hàng được xếp vào loại nghi ngờ về khoản vay sẽ được thanh toán đầy
đủ.
Qua định nghĩa về nợ xấu của các tổ chức trên ta có thể hiểu khái quát nợ
xấu là các khoản nợ mà khách hàng không trả gốc và lãi đúng hạn hoặc không trả
nợ như đã cam kết dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng.
2.1.2. Phân loại nợ xấu
Theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 thay thế Quyết định
493 của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và


12

sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng và Quyết định 18 ban hành ngày
25/4/2007 về sửa đổi, bổ sung Quyết định 493.
Theo đó, việc phân loại nợ để trích lập dự phòng cụ thể được quy định lại
theo hướng siết chặt hơn so với Quyết định 493 và Quyết định 18.
Nợ nhóm 1 và Nợ nhóm 2 hầu như vẫn giữ như các quy định trước đây. Tuy
nhiên, với các khoản nợ xấu (nợ nhóm 3, 4 và 5) đã được Ngân hàng Nhà nước bổ
sung thêm nhiều đối tượng. Tỷ lệ nợ xấu sẽ được tính bằng tỷ lệ giữa nợ xấu so với
tổng nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5, trước đó, quyết định 493 không quy định cụ thể
cách tính này.
Cụ thể, nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ trong hạn và
được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn, cộng với các
khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ

gốc và lãi bị quá hạn cùng với nợ gốc và lãi còn lại đúng hạn.
Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày, các khoản
nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.
Nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180
ngày, nợ gia hạn lần đầu và nợ được miễn giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Đặc biệt, nợ nhóm 3 được bổ sung thêm các trường hợp:
Nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng mà
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng theo
quy định.
Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con
của tổ chức tín dụng hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ chức tín
dụng khác trên cơ sở tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản đảm bảo bằng cổ phiếu
của chính tổ chức tín dụng nhận vốn góp.


13

Nợ không có bảo đảm được cấp với điều kiện ưu đãi hoặc giá trị vượt quá
5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi cấp cho
khách hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định.
Nợ cấp cho công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh
nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt các tỷ lệ giới hạn
theo quy định.
Nợ có giá trị vượt quá giới hạn cấp tín dụng, trừ trường hợp được phép vượt
giới hạn, theo quy định của pháp luật.
Nợ vi phạm các quy định của pháp luật về cấp tín dụng, quản lý ngoại hối và
các tỷ lệ đảm bảo an toàn với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nợ vi phạm các quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, chính sách
dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra.
Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) sẽ bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến
360 ngày; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2; Nợ phải thu
hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60 ngày mà vẫn chưa
thu hồi được...
Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần đầu; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở
lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn.
Đặc biệt, bổ sung thêm nợ của tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước
công bố đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị
phong tỏa vốn và tài sản.


14

Các mức dự phòng cụ thể được trích cho các nhóm nợ từ 1 đến 5 vẫn giữ
nguyên so với quy định tại Quyết định 493 là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%. Mức dự
phòng chung vẫn giữ nguyên là 0,75% tổng dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Ngoài ra, Thông tư 02 cũng ban hành thêm khái niệm "Tỷ lệ cấp tín dụng
xấu" là tỷ lệ giữa tổng nợ và cam kết ngoại bảng từ nhóm 3 đến nhóm 5 so với các
cam kết ngoại bảng từ nhóm 1 đến nhóm 5.
Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài ít nhất mỗi quý một lần, trong 15 ngày đầu tiên của tháng mỗi quý
phải tự thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày làm
việc cuối cùng của quý trước và gửi báo cáo này lên cho Trung tâm xếp hạng tín
dụng (CIC).
Riêng với quy cuối cùng của kỳ kế toán năm, trong 15 ngày làm việc đầu tiên

của tháng cuối cùng, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực
hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng
của tháng thứ hai quý cuối cùng của kỳ kế toán.
Ngoài thời điểm phân loại nêu trên, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng
nước ngoài thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng theo quy định nội bộ.
2.1.3. Bản chất của nợ xấu
Hoàn trả đầy đủ khoản nợ gốc và lãi cho Ngân hàng đến thời điểm đáo hạn là
hành động hoàn tất mối quan hệ tín dụng hoàn hảo giữa Ngân hàng và khách hàng.
Như vậy, nợ xấu trong hoạt động tín dụng NHTM là hiện tượng phát sinh từ mối
quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi vay (khách hàng) không thực hiện
được nghĩa vụ trả nợ của mình cho Ngân hàng đúng hạn.
Nợ xấu nói chung được xem như một dấu hiệu của vấn đề rủi ro tiềm ẩn. Tuy
nhiên, thực tế một khoản nợ xấu thì cho biết rất ít vấn đề, để xác định bản chất vấn
đề phải tìm hiểu được nguyên nhân của khoản nợ đó. Nếu khoản nợ xấu là một biểu
hiện của việc khách hàng không muốn hoặc không có khả năng hoàn trả thì có thể
khoản vay đã có vấn đề nghiêm trọng và có nguy cơ không cứu vãn được. Nếu
khoản nợ chỉ hình thành do việc tiêu thụ hàng hóa hoặc thu hồi các khoản phải thu


15

chậm hơn dự tính hoặc do việc chậm trễ không tính trước được trong việc chuyển từ
khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ trên thị trường, thì vấn đề chưa đến mức nghiêm
trọng.
Bản chất của nợ xấu gắn liền với bản chất của mối quan hệ tín dụng – đây là
mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có quan hệ với
nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức
tiền tệ và hàng hóa từ người cho vay chuyển sang người đi vay và sau một thời gian
nhất định quay về với người cho vay với giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Do
đó, tín dụng được tạo nên từ 3 yếu tố chính là: lòng tin, thời hạn của quan hệ tín

dụng và sự hứa hẹn hoàn trả. Người ta chỉ cho vay khi người ta tin rằng việc sử
dụng giá trị đó sẽ thu được lượng giá trị lớn hơn, có tính hiệu quả hơn sau một thời
gian nhất định.
Như vậy, có thể thấy bản chất nợ xấu là kết quả của mối quan hệ tín dụng
không hoàn hảo, trước hết vì nó vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời
hạn, sau nữa nó vi phạm đến đặc trưng thứ hai là tính hoàn trả đầy đủ, gây nên sự đổ
vỡ lòng tin của người cung cấp tín dụng đối với khách hàng nhận tín dụng.
2.1.4. Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu
Nợ xấu phát sinh khi khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết ban đầu với ngân hàng. Việc tìm hiểu
nguyên nhân khiến nợ xấu tăng nhanh trong thời gian qua phải bắt đầu tư ba nguyên
nhân chính:

2.1.4.1. Nguyên nhân khách quan


16

Trước hết, các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ, sự thay
đổi thị hiếu người tiêu dùng…gây ra những biến động xấu ngoài dự kiến trong mối
quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng của mình. Điều này có thể làm cho
khách hàng mất khả năng trả nợ.
Nguyên nhân khách quan thứ hai là sự thay đổi trong cơ chế, chính sách như:
Chính trị, sự điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi
địa giới hành chính các địa phương, sự sáp nhập hay tách ra của các Bộ, Ngành
trong nền kinh tế. Những sự thay đổi và điều chỉnh này tuy cần thiết trong quá trình
phát triển kinh tế của đất nước nhưng đôi khi, cũng có tác động tiêu cực, ảnh hưởng
đến ngân hàng và khách hàng dẫn tới làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng.
Nhân tố tiếp theo tác động vào quan hệ tín dụng này là thông tin không đầy
đủ. Do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng rất dễ gặp các rủi ro như khách

hàng cố tình vi phạm, che giấu thông tin hoặc làm sai lệch thông tin về mình (lập
báo cáo tài chính thiếu trung thực, sử dụng vốn vay sai mục đích...). Khách hàng thì
do không có đầy đủ thông tin về thị trường sẽ dẫn tới những quyết định kinh doanh
sai lầm. Do đó, việc sản xuất kinh doanh không đáp ứng nhu cầu và dẫn tới làm ăn
thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, môi trường pháp lý cũng tác động tới quan hệ vay mượn giữa
ngân hàng và khách hàng. Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh sẽ không đảm
bảo sự cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế. Đây là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp và tạo ra
các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng.
Còn một nhân tố khách quan nữa là nhân tố quốc tế. Trong xu thế toàn cầu
hoá hiện nay, tín dụng trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với tín dụng quốc tế, dễ
bị ảnh hưởng bởi tình hình quốc tế như tình hình kinh tế, chính trị, chính sách tài
chính của các quốc gia khác trên thế giới. Bất cứ một sự biến động nào trong nền
kinh tế quốc tế cũng đều có tác động tới đất nước cho dù ít hay nhiều.
2.1.4.2. Nguyên nhân chủ quan
* Từ phía ngân hàng


17

Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến ở đây là chính sách cho vay của ngân
hàng. Đối với mỗi ngân hàng, chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín
dụng. Nó phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. Khi chính sách cho vay
thống nhất, đầy đủ và đúng đắn, cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng xác định đúng phương
hướng khi thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng.
Còn ngược lại, một chính sách tín dụng thiếu độ chính xác, không đầy đủ và không
nhất quán sẽ tạo ra kẽ hở cho người sử dụng vốn và dẫn tới rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân thứ hai nằm ở năng lực và đạo đức của người cán bộ tín dụng.
Nếu cán bộ tín dụng không tính toán chính xác hiệu quả đầu tư của dự án xin vay thì

họ sẽ dễ dàng có những những quyết định sai lầm trong cho vay. Hoặc người cán bộ
tín dụng khi chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về lĩnh vực kinh doanh mà
mình đang cho vay sẽ không thể đánh giá hết khả năng sinh lời cũng như những rủi
ro của khách hàng. Đôi khi, những cán bộ tín dụng vì một lý do nào đó vẫn cố ý cho
vay mặc dù biết dự án không có hiệu quả sẽ dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Trong
những trường hợp như vậy thì khả năng mất vốn của Ngân hàng là rất cao.
Thứ ba, ngân hàng chưa đánh giá đúng mức về khoản vay, về người đi vay
hoặc do chủ quan tin tưởng khách hàng quen biết mà coi nhẹ khâu kiểm tra về tình
hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, nguồn trả nợ.
Thứ tư là do ngân hàng thiếu một cơ chế theo dõi, quản lý rủi ro, thiếu hạn
mức tín dụng tối đa cho từng lkhách hàng thuộc từng ngành nghề, lĩnh vực, sản
phẩm, địa phương khách nhau để phân tán rủi ro, chưa có các tiêu thức đo lường rủi
ro, độ rủi ro cho phép chấp nhận đối với mỗi đối tượng khách hàng.
* Từ phía khách hàng
Trước hết, khả năng quản lý của khách hàng yếu kém sẽ dẫn tới sử dụng
khoản vay không có hiệu quả, dễ thua lỗ. Tiếp theo, doanh nghiệp không chịu thu
thập, tìm hiểu thông tin về thị trường, sản phẩm, đối tượng khách hàng sẽ dẫn tới
những quyết định sai lầm trong kinh doanh. Do đó, doanh nghiệp dễ dàng lâm vào
tình trạng vỡ nợ hoặc phá sản. Một phần nữa cũng quan trọng không kém là đạo đức
của khách hàng. Không ít những chủ doanh nghiệp hoặc cá nhân vay vốn của ngân


18

hàng chẳng những yếu kém về năng lực kinh doanh mà còn thiếu cả tư cách đạo
đức. Phần lớn trong số họ đều mong muốn thành đạt trong kinh doanh để có điều
kiện trả nợ cho ngân hàng, tuy nhiên, cũng không hiếm những người chỉ mong
muốn lừa đảo, chiếm đoạt lấy tiền từ ngân hàng vào những mục đích xấu xa khác
như cờ bạc, hụi đề. Thông thường, những khách hàng này đều xuất trình những dự
án rất sáng sủa, những lời hứa hẹn hoa mỹ. Các nhà ngân hàng một phần thì thiếu

kinh nghiệm, phần nữa có thể do tham một chút lợi nhỏ nên đã đầu tư vào những dự
án này và đương nhiên là sẽ gặp rủi ro.
2.1.5. Tác hại của nợ xấu
NHTM là một trung gian tài chính có chức năng dẫn vốn từ nơi có khả năng
cung ứng vốn đến những nơi có nhu cầu về vốn nhằm tạo điều kiện cho đầu tư, phát
triển kinh tế. Do đó, một sự biến động của Ngân hàng sẽ ảnh hưởng xấu đến chính
hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế mà nợ xấu là một trong những nguyên nhân chủ
yếu gây ra. Tác hại của nợ xấu thể hiện trên hai nội dung sau:


Đối với nền kinh tế

Nợ xấu phát sinh do khách hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu
quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế do ứ đọng vốn, sản xuất kinh doanh đình trệ.
Nợ xấu tùy theo tính chất và mức độ, không chỉ ảnh hưởng tới Ngân hàng mà
còn cả tới các doanh nghiệp, các cá nhân liên quan và toàn bộ nền kinh tế. Trên giác
độ vĩ mô, nợ xấu làm giảm tính tích cực của tín dụng đối với nền kinh tế, cản trở
NHTM thực hiện tốt chức năng trung gian tín dụng, cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Việc điều tiết vĩ môt kinh tế thông qua các NHTM cũng trở nên kém hiệu quả.
Ở mức độ trầm trọng, nợ xấu không chỉ gây mất vốn, mất khả năng thanh
toán dẫn tới sự sụp đổ không chỉ của một Ngân hàng mà còn kéo theo ảnh hưởng
dây truyền làm chao đảo toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Điều đó gây rối loạn lưu
thông tiền tệ trong nước, gây đình trệ sản xuất và khủng hoảng kinh tế
Lịch sử hoạt động của các NHTM trên thế giới đã chứng kiến không ít các
Ngân hàng lớn bị phá sản và hậu quả của nó thậm chí không giới hạn trong phạm vi
một quốc gia mà còn lan ra nhiều nước trong khu vực hay toàn châu lục.


19


Tóm lại, nợ xấu không những tác động đối với Ngân hàng mà còn nguy hại
đối với cả nền kinh tế, trật tự xã hội. Do đó, quan tâm quản trị nợ xấu không còn là
việc riêng của các NHTM mà là sự quan tâm chung của cả NHNN, Chính phủ và xã
hội.
 Đối với Ngân hàng:

Thứ nhất – làm giảm lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng của Ngân
hàng, lợi nhuận được hình thành từ những khoản thu của Ngân hàng mà những
khoản thu này chủ yếu thu từ lãi cho vay. Nợ xấu tác động đến lợi nhuận Ngân hàng
trên hai khía cạnh đó là:
- Đã phát sinh nợ xấu thì lãi của những khoản nợ xấu khó có thể thu được
hay thu không bao giờ đủ. Do đó, sẽ làm giảm thu nhập kinh doanh của Ngân hàng.
- Phát sinh nợ xấu tất yếu Ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro cho
khoản vay đó, tức là làm tăng chi phí của Ngân hàng đồng thời làm giảm lợi nhuận.
Thứ hai - Ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh: Các
khoản vay của khách hàng không được thanh toán đúng hạn, hay khi chuyển sang
quá hạn thì việc thu nợ đã không đúng theo kế hoạch của Ngân hàng gây ra thiếu
hụt so với dự tính của kế hoạch. Sự việc này chỉ trong một giới hạn nhất định, song
nếu vượt qua một giới hạn cho phép Ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán, và không có kế hoạch cho tương lai.
Thứ ba – làm mất uy tín của Ngân hàng: Những ảnh hưởng của nợ xấu dẫn
đến lợi nhuận giảm, khả năng thanh toán giảm… nó có tác động sâu sắc đến tâm lý
khách hàng “hiệu ứng khách hàng” kể cả là khách hàng cá thể, doanh nghiệp hay
các Ngân hàng đối tác. Trong lĩnh vực Ngân hàng uy tín tuyệt đối quan trọng, nó
quyết định sự sống còn, tồn tại và phát triển một Ngân hàng.
Thứ tư – không duy trì được đội ngũ nhân viên: khi một Ngân hàng làm ăn
không hiệu quả, hay để tình trạng nợ xấu nhiều sẽ gây tâm lý hoang mang cho
không những khách hàng mà còn cho chính nhân viên Ngân hàng, sẽ không giữ
được những người làm việc hiệu quả ở lại, đây là một chi phí rất lớn cho Ngân

hàng.


20

2.1.6. Các chỉ tiêu phản ánh nợ xấu
- Tổng số nợ xấu: Đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn
bộ khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó,
nợ không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu.
Và như vậy, nó chưa phản ánh một cách chính xác số nợ cho vay không có khả năng
thu hồi của ngân hàng
- Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/ tổng dư nợ: Chỉ tiêu này phản ánh
mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết cứ 100 đơn vị tiền tệ khi Ngân hàng
cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà Ngân hàng xác định khó có khả năng thu
hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao thì
khả năng rủi ro càng cao. Nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì Ngân hàng bị coi là có
chất lượng tín dụng yếu kém, còn nếu nhỏ hơn 5% thì được coi là có chất lượng tín
dụng tốt, các khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng để tính chỉ
số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính xác
chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: Các chỉ số này phản
ánh chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là
những chỉ tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân
hàng. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của Ngân hàng càng cao.
- Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro
có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các
khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù
đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh koanh của Ngân hàng
càng cao và ngược lại.
Ngoài ra tùy theo tình hình cụ thể của mỗi Ngân hàng hoặc quốc gia trong

từng thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ
xấu nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.


21

2.1.7. Sự cần thiết phải hạn chế, xử lý nợ xấu
2.1.7.1. Ảnh hưởng của "nợ xấu" tới hoạt động của các Ngân hàng thương
mại
Nếu các khoản nợ xấu này lớn, tức là khả năng thu hồi các khoản nợ khách
hàng của ngân hàng thấp. Do đó ngân hàng phải dùng vốn để trang trải cho các
khoản thất thoát này thì đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện việc
"xóa sổ" những khoản thất thoát này, ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng mất
khả năng thanh toán cho người gửi tiền.
Ngân hàng là ngành kinh tế nhạy cảm, phụ thuộc vào những lòng tin, do đó
khi thông tin khả năng trả nợ ngân hàng là không chắc chắn, người gửi tiền sẽ đổ xô
đi rút tiền làm ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
Ngoài ra ngân hàng Trung ương của bất kì quốc gia nào cũng đều có nhiệm
vụ bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động một cách an toàn và ổn định. Vì nếu có
sự thất thoát trong hoạt động tín dụng nào đó dù chỉ là một ngân hàng và ở một mức
độ nhất định nào đó cũng sẽ đe doạ tới sự tan toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống
ngân hàng.
2.1.7.2. Xử lý nợ xấu cần triệt để và nhanh chóng
Cấu trúc nợ xấu của Việt Nam rất phức tạp, bao gồm: nợ xấu từ các DN nhà
nước (DNNN), nợ của ngân sách do các DN đã ứng vốn làm tại các địa phương, nợ
của các DN với các ngân hàng thương mại (NHTM)… Ngân hàng và DN chỉ có thể
tự xử lý khi con số nợ xấu ở quy mô nhỏ, còn với quy mô hiện tại, thậm chí lớn hơn
ước tính hiện nay rất nhiều, thì phải để Chính phủ vào cuộc.
Cụ thể, khả năng tự xử lý của ngân hàng và DN mỗi năm chỉ được 1,5 - 2%
nợ xấu, trong khi con số nợ xấu hiện tại ước tính 10 - 15%, do vậy, sẽ mất 7 - 10

năm. "Trong vòng 7 - 10 năm đó, tín dụng sẽ "đóng băng" vì ngân hàng không dám
cho vay, cộng thêm lãi suất cho vay lên cao vì phải gánh cho khoản nợ xấu. Và sau
7 năm đó, sẽ chẳng còn DN nào có thể tồn tại"


22

Một vấn đề đáng lưu ý nữa là không thể trông mong vào dự phòng hay tài sản
đảm bảo để xử lý nợ xấu. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), số dự phòng
rủi ro cho các khoản nợ xấu của toàn hệ thống là 76.000 tỷ đồng, nhưng không nên
trông chờ số tiền này để giải quyết nợ xấu. Lý do là phần lớn ngân hàng có nợ xấu cao
thì số dự phòng rất thấp và ngược lại, những ngân hàng lớn có dự phòng "dày" nhưng
nợ xấu lại không nhiều. Bên cạnh đó, tài chính của mỗi ngân hàng lại tách biệt và
không thể chuyển dự phòng của ngân hàng này sang cho ngân hàng khác. Do vậy, trong
số 76.000 tỷ đồng dự phòng rủi ro chỉ có thể sử dụng 20.000 - 30.000 tỷ đồng, số còn
lại nằm ở các ngân hàng nợ xấu thấp và lẽ dĩ nhiên, không cho phép mang tiền của họ
đi để "trả đậy" cho những ngân hàng yếu kém kia được.

Có ý kiến khác cho rằng giá trị tài sản bảo đảm (TSBĐ) có thể mang ra xử lý
cho nợ xấu. Nhưng đây cũng lại là giải pháp không khả thi khi phần lớn tài sản đảm
bảo là nhà xưởng hay bất động sản thì đều mất thanh khoản nghiêm trọng, dù giá đã
giảm nhưng vẫn không thể bán. Thêm nữa, một bộ phận rất lớn nợ xấu đến từ
DNNN, nhưng đối tượng này không hề có TSĐB, hay nếu có cũng chỉ là máy móc,
nhà xưởng không thể giao bán do quá đặc thù về kỹ thuật.
Nhìn lại tình trạng tín dụng của 10 tháng đầu năm 2012 giống như "nước
trong bình rất nhiều, người xung quanh chết khát, nhưng vặn vòi thì nước không
chảy!". Nếu như trước đây, khi nới lỏng, tín dụng tăng tới 47 - 48%/năm, nhưng
năm nay, mặc dù NHNN "tha hồ" nới lỏng nhưng tín dụng cũng không tăng.
Lý giải vấn đề này, đó là do suy giảm lòng tin nghiêm trọng của các tổ chức
tín dụng và DN; và ngược lại, DN hạn chế vay do lo lắng khả năng hoàn trả. Hệ quả

đi kèm là tỷ lệ lợi nhuận/vốn chủ sở hữu (ROE) của các ngân hàng giảm sút nhanh
chóng: ROE trung bình của các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2009 đạt trên
10%, nhưng 6 tháng năm 2011 giảm còn 9%, và tới năm nay chỉ đạt 6%.
Tuy nhiên, những khó khăn gần như không thể tránh khỏi khi bắt tay xử lý
nợ xấu. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, để xử lý dứt điểm được nợ
xấu cần có nguồn tài chính rất lớn và số tiền này sẽ do Ngân hàng Phát triển, Kho
bạc Nhà nước và cả ngân hàng Trung ương sẽ phát hành trái phiếu, do vậy sẽ đẩy


23

mặt bằng lãi suất đi lên. Và như vậy, trong giai đoạn đầu của việc xử lý nợ xấu,
NHTM nhỏ sẽ gặp khó khăn ngay lập tức về thanh khoản, nên sẽ đẩy lãi suất lên
cao nữa để huy động, tuy nhiên, cũng không thể đẩy lên quá cao, vì có lực lượng
NHTM lớn đứng sau lưng.
Chính vì lẽ đó, khả năng lớn là các NHTM nhỏ rơi vào khủng hoảng thanh
khoản. Rủi ro nữa là khi các ngân hàng nhỏ không còn khả năng thanh khoản kéo
theo các khoản nợ ở ngân hàng lớn cũng không thể chi trả, và rủi ro dây chuyền từ
NHTM nhỏ lan sang NHTM trung bình và lan sang NHTM lớn. Bối cảnh xấu sẽ là
trong khi lãi suất bắt đầu tăng lên mà nợ xấu mới chỉ được xử lý ở giai đoạn đầu.
Có thể thấy việc xử lý nợ xấu đang rất cấp bách, và điều cần nhất trong lúc
này là sự đồng thuận về phương án để đưa ra cách giải quyết triệt để và nhanh nhất.
Chắc chắn sẽ có những đánh đổi, thậm chí là mất mát lớn, nhưng chắc chắn, qua
giai đoạn đó, thị trường sẽ có những tiến bộ rõ rệt.
2.2. Quản lý và xử lý nợ xấu ở các ngân hàng thương mại
2.2.1. Khái niệm về quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại
Quản lý nợ xấu không chỉ là việc xử lý như thế nào khi đã có nợ xấu phát
sinh mà nó bao gồm quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách
quản lý và kinh doanh tín dụng của ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn,
hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp nhằm phòng

ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các khoản nợ xấu đã phát
sinh nhằm phù hợp đối với mục tiêu trong từng giai đoạn của mỗi ngân hàng.
2.2.2. Mục tiêu của quản lý nợ xấu
Mục tiêu của quản lý nợ xấu tại mỗi ngân hàng và các thời điểm khác nhau là
khác nhau. Tuy nhiên, theo một cách chung nhất thì mục tiêu của quản lý nợ xấu
trong bất kỳ hoàn cảnh nào và đối với bất kỳ ngân hàng nào thì đó chính là việc phải
xây dựng và thực thi được một qui chế, chính sách sàng lọc khách hàng phù hợp với
từng thời kỳ sao cho phải hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro không thể thu hồi được
của các khoản cho vay mà không ảnh hưởng tới mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng.


24

2.2.3. Các biện pháp ngân hàng thương mại đã áp dụng để phòng ngừa và
xử lý nợ xấu
Nợ xấu luôn tồn tại song song với ngân hàng. Vì vậy, yêu cầu được đặt ra là
phải xử lý các khoản nợ xấu sau khi đã phát sinh. Sau đây là một số biện pháp xử lý
nợ xấu
- Yêu cầu tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và tái cơ cấu lại nợ
Đối với các khoản nợ xấu của khách hàng là doanh nghiệp, sau khi phân tích
thực trạng tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu đánh giá khách hàng có
khả năng phát triển để thanh toán nợ xấu cho Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ áp dụng
biện pháp cấu trúc lại hay tái cơ cấu doanh nghiệp.
Tái cơ cấu doanh nghiệp là quá trình thực hiện tái cơ cấu hoạt động sản xuất
kinh doanh, tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp có hiện trạng kinh doanh, tài chính
kém nhưng có khả năng phục hồi. Việc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp được thực
hiện giữa các bên có liên quan: nhà đầu tư, nhà kinh doanh, Ngân hàng cho vay nợ
với mục đích cao nhất là hồi sinh, tăng giá trị cho doanh nghiệp.
Nói chung, đề xuất xử lý nợ xấu theo giải pháp cấu trúc lại chỉ được áp dụng
cho các khoản nợ thuộc nhóm 3 và nhóm 4 và đối với các khách hàng được quyết

định tiếp tục duy trì quan hệ. Khi đã có quyết định tiếp tục duy trì quan hệ với đối
tượng khách hàng này, khoản nợ có thể được quản lý thông qua việc giám sát chặt
chẽ, nhằm đảm bảo rằng bên vay thực thi các hành động cần thiết để cải thiện tình
hình của họ và sửa chữa sai sót. Đặc biệt, trong trường hợp không trả được nợ lần
đầu, Ngân hàng cần có hành động kiên quyết để thuyết phục khách hàng trong việc
thực thi các biện pháp cứng rắn để củng cố vị thế của khách hàng. Ngân hàng duy
trì mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng để giám sát quá trình xử lý nợ. Trên cơ sở
đó, Ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp:
Thứ nhất, điều chỉnh kỳ hạn nợ: Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ thông thường
được thực hiện thông qua việc hoãn hoặc/ và giảm khối lượng nợ gốc phải thanh
toán của kỳ hạn trả nợ, nhưng không được giảm tổng số dư nợ phải trả. Nếu được


25

sử dụng một cách cẩn thận, việc điều chỉnh kỳ hạn nợ là một hình thức được chấp
nhận khi thực hiện tái cơ cấu lại nợ.
Thứ hai, gia hạn nợ: Đây là phương án tránh áp lực trả nợ cho khách hàng để
hỗ trợ khách hàng tiếp tục kinh doanh. Ngân hàng cũng có thể xem xét cấp thêm tín
dụng giúp khách hàng vượt qua khó khăn đồng thời tạo khả năng thu hồi các khoản
nợ trước. Đây không phải là biện pháp tốt vì nó mang tính mạo hiểm cao.
Thứ ba, giảm, miễn một phần nợ lãi vay phải trả: Giải pháp này có thể được
xem xét áp dụng tùy thuộc vào thiện chí trả nợ vay của khách hàng và tuân thủ theo
các quy định hiện hành của Nhà nước và của từng Ngân hàng. Việc giảm, miễn lãi
đối với khách hàng coi như sự hy sinh một phần doanh thu của Ngân hàng để có thể
tận thu hồi được nguồn vốn đã cho vay.
- Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu – Biến nợ thành chứng khoán
Hiện nay, một kỹ thuật mới trong công tác xử lý nợ xấu đang được áp dụng
rộng rãi trên thế giới là chứng khoán hóa các khoản nợ. Một cách đơn giản, chứng
khoán hóa là quá trình tập hợp và tái cấu trúc các tài sản thiếu tính thanh khoản

nhưng lại có thu nhập bằng tiền cao trong tương lai như các khoản phải thu, các
khoản nợ rồi chuyển đổi chúng thành trái phiếu và đưa ra giao dịch trên thị trường
tài chính. Chứng khoán hóa các khoản nợ là chuyển đổi một tập hợp có chọn lọc các
khoản vay có thế chấp của Ngân hàng mà trước đó không có thị trường thứ cấp để
giao dịch thành các chứng khoán khả mại, có thể bán trên thị trường thứ cấp. Ngân
hàng có thể dùng kỹ thuật này để xử lý các khoản nợ xấu của mình nhưng cần có sự
phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán cùng giao dịch mua bán nợ. Đối
mặt với áp lực rủi ro tín dụng và yêu cầu tăng vốn chủ sở hữu, công cụ quản lý rủi
ro chứng khoán hóa các khoản cho vay đã giúp Ngân hàng hạn chế một cách có
hiệu quả rủi ro tín dụng.
Công nghệ chứng khoán hóa hấp dẫn nhiều Ngân hàng, bởi vì thông qua đó
mà Ngân hàng có thể rút ngắn được thời gian xử lý nợ xấu, tăng khả năng thanh
khoản của tài sản, cung cấp một phương tiện tài trợ mới, giảm được các chi phí có
tính chất thuế cũng như tăng thu nhập từ thuế.


×