Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1960 - 1985

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.58 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



MÔN HỌC: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

TIỂU LUẬN

QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1960 - 1985

GVHD: Ths. L
SVTH:
X
X
X
X
x
Lớp thứ x – Tiết x
LLCTxxxx

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2019
MỤC LỤC
1


MỞ ĐẦU...............................................................................................................x
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................5


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.........................................................7
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận......................................................9
6. Kết cấu của tiểu luận........................................................................................10
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HOÁ ............11
1.1. Khái niệm công nghiệp hoá – hiện đại hoá..................................................11
1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá.................................................................11
1.1.2. Khái niệm hiện đại hoá.......................................................................11
1.2. Phân biệt công nghiệp hóa và hiện đại hóa...................................................11
Chương 2. MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG CỦA ĐẢNG.................................12
2.1. Mục tiêu, phương hướng...............................................................................12
2.1.1. Mục tiêu..............................................................................................12
2.1.2. Phương hướng.....................................................................................12
2.2. Thuận lợi, khó khăn......................................................................................14
2.2.1. Thuận lợi..............................................................................................14
2.2.2. Khó khăn..............................................................................................14
2.3. Đặc trưng chủ yếu.........................................................................................15
Chương 3. ĐÁNH GIÁ SỰ THỰC HIỆN QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ 16
x ............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
x
3.1. Kết quả, ý nghĩa............................................................................................16
3.2. Hạn chế, nguyên nhân...................................................................................17
KẾT LUẬN.........................................................................................................20
2


TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................22
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ.....................................................................23
BẢNG ĐIỂM.......................................................................................................24


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Vấn đề công nghiệp hoá – hiện đại hoá vốn là một vấn đề quan trọng, là một vấn
đề chung mang tính toàn cầu mà tất cả các nước trên thế giới đều vẫn cố gắng nghiên
cứu và thực hiện. Vấn đề về sự khác nhau giữa các nước chỉ là về các phương diện
mục tiêu, nội dung và cách thức phát triển. Đất nước Việt Nam ta hiện nay vẫn đang
từng ngày phát triển, phấn đấu đi theo con đường công nghiệp hoá – hiện đại hoá, từng
bước chuyển biến từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại.
Công nghiệp hoá – hiện đại hoá là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay. Vấn đề công nghiệp hoá nền kinh tế được đặt ra ở nước ta từ năm
3


1960, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Tuy nhiên, vì chưa xuất phát
từ đặc điểm tình hình nước ta lúc bấy giờ nên việc thực hiện chủ trương công nghiệp
hoá khi ấy đã mắc phải một số khuyết điểm sai lầm. Từ Đại hội Đảng lần thứ VIII nay
Đảng ta đã luôn xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm và chúng ta đã thu
được nhiều thành tựu quan trọng khi thực hiện nhiệm vụ đó sau khi vạch ra những sai
lầm mà chúng ta đã mắc phải.
Muốn tiếp tục phát huy thành tích và phát triển đất nước, chúng ta phải đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá, rút ra được những bài học kinh nghiệm từ
sai lầm và thành công trong đường lối công nghiệp hoá của đất nước vào thời kì trước
đổi mới, củng cố và phát huy thêm làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước. Qua
đó chúng ta có thể thấy được sự tất yếu và cấp thiết của việc nhìn lại chặng đường
công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, từ đó phát huy, đưa ra những phương án tốt
nhất, phù hợp nhất, đúng đắn nhất phục vụ cho sự phát triển của nước nhà, và đó cũng
là lí do chúng em chọn đề tài tiểu luận là “Phân tích quá trình công nghiệp hoá ở Việt
Nam giai đoạn 1960 – 1985”.


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích
Mục đích của đề tài là khẳng định những vai trò cũng như những đóng góp to lớn
về đường lối công nghiệp hóa đất nước mà Đảng ta đã đề ra trong giai đoạn 19601985, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên , khóa luận phải thực hiện các nhiệm vụ :
 Trình bày khái niệm công nghiệp hóa , tác dụng và tính tất yếu khách
quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
 Nêu và phân tích đường lối công nghiệp hóa đất nước của Đảng giai
đoạn 1960-1985
4


 Nêu những thành tựu, hạn chế của sự nghiệp công nghiệp hóa .Qua đó
rút ra một bài học kinh nghiệm, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hóa đất nước mà Đảng ta đề ra.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu
Theo quan điểm của Đảng, trong thời đại ngày nay, những tiến bộ về kinh tế, xã
hội cùng với sự mở rộng và tăng cường hợp tác phát triển với các nước và các tổ chức
quốc tế là cơ sở để chúng ta đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,
cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Xác định công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm, có tầm quan trọng hàng đầu, là con
đường duy nhất giúp chúng ta không chỉ thoát khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn
so với các nước trong khu vực Đông – Nam Á và trên thế giới, mà còn giữ được ổn
định chính trị - xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền quốc gia và định hướng phát
triển xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là hai

nội dung của một quá trình thống nhất và diễn ra đồng thời. Đảng ta đã xác định rõ
rằng, việc thực hiện các nội dung chiến lược đó ở nước ta hiện nay cần phải dựa vào tri
thức. Xuất phát từ một trình độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, để có thể đi nhanh và phát
triển theo hướng hiện đại, bền vững, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con
đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với
phương thức "rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt".
Chúng ta cần phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ nền kinh tế nông
nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Điều đó có nghĩa là, một mặt, chúng ta phải phát triển nông nghiệp và các ngành công
nghiệp cơ bản, mặt khác, phải phát triển các ngành kinh tế dựa nhiều vào tri thức và
công nghệ cao. Nói cách khác, gắn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát
5


triển kinh tế tri thức theo những bước đi và hình thức thích hợp với điều kiện nước ta
hiện nay không chỉ là quá trình mang tính tất yếu, khách quan, mà còn là con đường
duy nhất giúp chúng ta "rút ngắn thời gian" để có thể trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Đảng ta đã xác định.
Không chỉ khẳng định sự cần thiết, tất yếu phải gắn việc đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức, lấy kinh tế tri thức làm yếu tố cấu
thành quan trọng của nền kinh tế, Đảng ta còn chỉ rõ nội dung chủ yếu của quá trình
này là:
- Thứ nhất, phát triển với tốc độ nhanh và ngày càng mạnh các ngành, các
lĩnh vực và những sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri
thức; kết hợp có hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt
Nam với những tri thức mới nhất của nhân loại.
- Thứ hai, không chỉ coi trọng số lượng, mà còn phải coi trọng cả chất
lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng,
từng địa phương và trong mỗi dự án phát triển kinh tế – xã hội.
- Thứ ba, xây dựng một cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh

vực và lãnh thổ.
- Thứ tư, giảm mạnh chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của
tất cả các ngành, các lĩnh vực, nhất là các ngành, các lĩnh vực có sức cạnh tranh
cao trên thị trường thế giới, khu vực và trong nước.
 Phạm vi nghiên cứu: Đất nước Việt Nam.

4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
 Cơ sở lí luận
Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, đã diễn
ra từ lâu trong lịch sử xã hội cùng với cuộc cách mạng công nghiệp của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình nghiên cứu, Mác và Ăng-ghen đã đề cập đến cuộc
cách mạng công nghiệp trong nền sản xuất tư bản như: trong đại công nghiệp, điểm
6


xuất phát của cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất là tư liệu lao động, trước hết
là máy công cụ. Máy móc thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, giảm lao động cơ
bắp sức lực và làm cho việc nâng cao trình độ học vấn trở thành bắt buộc đối với
người dân lao động. Mác dự đoán: theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra
của cải thật sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi
phí mà chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và của tiến bộ kỹ thuật, hay
là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất.
Việc cách mạng trong phương thức sản xuất ở lĩnh vực công nghiệp đã gây ra
cuộc cách mạng trong các lĩnh vực khác, nó làm biến đổi cơ cấu ngành kinh tế và cơ
cấu lao động. Cuộc cách mạng công nghiệp khi Mác - Ăng-ghen nghiên cứu đã diễn ra
bắt đầu từ công nghiệp nhẹ, rồi lan sang nông nghiệp, giao thông vận tải… và cuối
cùng xâm nhập vào ngành công nghiệp nặng. Sự biến đổi cơ cấu ngành diễn ra không
ngừng kéo theo sự biến đổi về cơ cấu lao động xã hội, đòi hỏi phải chuyển đổi lao
động từ nông nghiệp sang công nghiệp và các ngành dịch vụ, làm cho số lượng lao
động nông nghiệp giảm cả tương đối và tuyệt đối.

Công nghiệp hoá đã làm chuyển biến mạnh mẽ trong nền nông nghiệp và Mác đã
dự đoán công nghiệp hoá sẽ làm chuyển dịch lao động trong nông nghiệp sang các lĩnh
vực công nghiệp và dịch vụ.
V.I.Lênin cũng phân tích sự tác động của công nghiệp tới lĩnh vực nông nghiệp,
công nghiệp sẽ làm cho công cụ lao động ngày càng tiến bộ hơn, dẫn đến năng suất lao
động trong nông nghiệp tăng khi đó đòi hỏi phải phát triển công nghiệp chế biến, công
nghiệp chế tạo máy móc phục vụ nông nghiệp và kéo theo nó là những ngành công
nghiệp khác cũng phát triển. Theo Lênin: Ngoài máy móc ra, sự cần thiết phải cày bừa
ruộng đất tốt hơn nữa sẽ đưa chúng ta đến chỗ thay thế những công cụ thô sơ trước
đây, bằng những công cụ cải tiến hơn, và thay thế gỗ bằng sắt, bằng thép.
Lênin còn chỉ ra rằng, Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thắng lợi khi xây dựng được
một nền sản xuất hiện đại trên nền tảng cơ sở vật chất- kỹ thuật tiên tiến, có năng suất
lao động cao hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Đối với nước có nền kinh tế lạc hậu, lại bị
chiến tranh tàn phá như nước Nga lúc đó thì công nghiệp hoá là bước đi quan trọng để
xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, trong đó điện khí hoá là bước đi quan
trọng nhất. Người luôn chủ yếu coi trọng ngành sản xuất có công nghệ hiện đại và đào

7


tạo cán bộ công nhân có trình độ cao, nên trong thời kỳ khó khăn sau chiến tranh, vẫn
giành chi phí hàng triệu rúp để cử người ra nước ngoài học tập.
Không chỉ tác động trực tiếp đến lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp phát triển
còn thúc đẩy các quá trình kinh tế khác, nó gián tiếp mở mang phát triển nông nghiệp,
đưa nông nghiệp ra hội nhập kinh tế thế giới. Cách mạng công nghiệp tạo điều kiện
mở rộng thị trường trong nước, làm lưu thông hàng hoá vượt ra khỏi biên giới quốc
gia, tham gia vào phân công lao động thế giới và thị trường thế giới.
Nhờ sản xuất bằng máy móc, việc khai thác tài nguyên, nguyên liệu, vận tải…
được cơ khí hoá, làm cho của cải được sản xuất ra với khối lượng lớn và thuận lợi
trong quá trình lưu thông, tạo ra thị trường rộng mở trên thế giới, điều đó tất yếu dẫn

đến quốc tế hoá đời sống kinh tế và là xu hướng toàn cầu hoá.
Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta rất quan tâm đến vấn đề công nghiệp hoá
nông nghiệp. Người cho rằng, đối với một đất nước đi lên từ nông nghiệp là chủ yếu
thì trước hết đòi hỏi phải phát triển nông nghiệp, phải công nghiệp hoá nông nghiệp.
Người cho rằng đời sống của nông dân chỉ có thể thật dồi dào khi chúng ta dùng máy
móc để sản xuất một cách thật rộng rãi và nếu muốn đưa máy móc vào sản xuất nông
nghiệp thì phải khoanh vùng sản xuất nông nghiệp.
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào nước ta, rút kinh nghiệm từ những bài học không
thành công của việc rập khuôn máy móc mô hình ưu tiên phát triển công nghiệp nặng,
Đảng ta đã đổi mới và từng bước hoàn thiện quan điểm về sự công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Đó là kết quả của quá trình đổi mới tư duy lý luận, đổi mới cơ chế
quản lý từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, cùng với việc vận dụng các phương pháp luận
nghiên cứu khoa học như: duy vật lịch sử, duy vật biện chứng... chúng em chú trọng
sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: thống kê, so sánh,
phân tích, tổng hợp...
Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về đường lối công nghiệp hoá của đảng
trước thời kỳ đổi mới. Từ đó phân tích đánh giá quá trình mà đảng đã thực hiện.
8


5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận
 Ý nghĩa khoa học
Khái quát được các phương pháp, mục tiêu, phương hướng của Đảng trong quá
trình công nghiệp hóa ở Việt Nam giai đoạn 1960 – 1985.
Hiểu rõ những thành tựu to lớn, trong đó có những thành tựu nổi bật của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
 Ý nghĩa thực tiễn

Giúp đánh giá diễn biến và kết quả của công cuộc đổi mới, tiền đề cho công cuộc
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước.

6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu luận được chia làm 3
chương.
Chương 1. Khái quát về công nghiệp hóa
Chương 2. Mục tiêu, phương hướng của Đảng
Chương 3. Đánh giá sự thực hiện quá trình công nghiệp hoá

9


CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1.

Khái niệm công nghiệp hoá – hiện đại hoá

1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá
Theo định nghĩa khái quát, công nghiệp hoá là quá trình chuyển biến một nước
có nền kinh tế lạc hậu thành một nước nông nghiệp. Công nghiệp hoá được hiểu là quá
trình xây dựng nền công nghiệp tiên tiến tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước, với mục đích chuyển từ xã hội nông nghiệp với lao
động thủ công sang xã hội nông nghiệp với lao động bằng máy móc và công nghệ hiện
đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế để tạo ra năng suất lao động xã hội và nhịp độ phát
triển kinh tế cao.
1.1.2. Khái niệm hiện đại hoá
Hiện đại hoá là quá trình chuyển biến từ tính chất truyền thống cũ sang áp dụng
trình độ tiên tiến, hiện đại ở các lĩnh vực. Về ý nghĩa kinh tế thì hiện đại hoá được định
nghĩa là quá trình chyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, hiện

nay quá trình này vẫn đang được diễn ra và chưa kết thúc. Nhờ vào quá trình hiện đại
hoá, các nước đang phát triển tìm được cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế, tiến hành củng cố cơ cấu xã hội, cải cách cơ cấu chính trị, nhằm tiến tới một xã hội
với hệ thống kinh tế, xã hội, chính trị giống với những nước phát triển.
1.2. Phân biệt công nghiệp hoá – hiện đại hoá
Công nghiệp hoá là quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp, là sự chuyển từ
nền kinh tế bằng phương pháp thủ công sang nền kinh tế dựa vào các phương pháp
mới nhất nhờ vào sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật để đạt chất lượng và hiệu quả cao.

10


Hiện đại hoá không chỉ là hiện đại hoá đối với công nghiệp mà là hiện đại hoá
toàn bộ nền kinh tế. Hiện đại hoá còn là quá trình, các dạng cải biến, các bước quá độ
từ trình độ kỹ thuật khác nhau đang tồn tại nâng cao lên một trình độ mới dựa trên sự
tiến bộ của khoa học và công nghệ.
CHƯƠNG 2. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CỦA ĐẢNG
2.1. Mục tiêu và phương hướng của Đảng
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của Đảng
(tháng 9-1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành công
nghiệp hóa qua hai giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền Bắc và từ
năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước . hai giai đoạn này có mục
tiêu, phương hướng rõ rệt.
Ở miền Bắc: Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm kinh tế miền Bắc,
trong đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội III của
Đảng khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con
đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Tức là khẳng
định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.

2.1.1. Mục tiêu
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được Đại hội III của
Đảng xác định là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước
đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản,
lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
2.1.2. Phương hướng
Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa III
nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
-

Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý;

11


-

Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông

nghiệp;
-

Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát

triển công nghiệp nặng;
-

Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh

phát triển công nghiệp địa phương,( Hình thành các trung tâm công nghiệp

như Hải Phòng ,Quảng Ninh, Thái Nguyên, Nam Định,…)
Như vậy đây thực chất là sự lựa chọn mô hình chiến lược công nghiệp hóa thay
thế nhập khẩu mà nhiều nước , cả nước Xã hội chủ nghĩa và nước Tư bản chủ nghĩa đã
và đang thực hiện lúc đó . Chiến lược này được duy trì suốt 15 năm ở miền Bắc
( 1960-1975) và 10 năm tiếp theo trên phạm vi cả nước (1976-1985).
Trên phạm vi cả nước: Sau Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập,
thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện đặc
điểm, tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (tháng-1976) đề ra đường
lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa,
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kêt hợp xây dựng
công, nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp;
vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế
trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất".
Đường lối này nhất trí với những nhận thức cơ bản về công nghiệp hóa ở miền Bắc
trước đây, đồng thời có sự phát triển thêm.
Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976-1981), Đảng ta rút ra kết luận;
từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công
nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt
vấn đề như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982) đã xác định trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng
đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển
12


công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết
thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung
chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh rất
đúng đắn mục tiêu và bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta đã không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan
trọng này, gây hậu quả nghiêm trọng.
2.2.

Thuận lợi, khó khăn
2.2.1. Thuận lợi:
- Có sự giúp đỡ của các nước XHCN
- Xuất thân là một nước nông nghiệp :Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định:

kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng.
- Xây dựng được cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Đảng ta nhận thức được những sai lầm trong chủ trương công nghiệp
hóa thời kỳ 1960-1985 là điểm nhấn chuyển từ mô hình hướng nội (thay thế
nhập khẩu) trước đây bằng mô hình hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời
thay thế nhập khẩu) sau Đại hội VI.
2.2.2. Khó khăn:
- Quá trình công nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình
trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận chiều.
- Ở miền Bắc, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua phát triển chủ nghĩa tư bản, mặt
khác, vừa phải xây dựng CNXH vừa phải chiến đấu chống Mỹ.
- Điểm xuất phát của Việt Nam khi bước vào thực hiện CNH rất thấp.
- Phân công lao động chưa phát triển và LLSX còn ở trình độ thấp.

13


- Đảng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồn viện trợ từ nước ngoài
đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính quan liêu, bao cấp, nhiều
công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu vốn, công nghiệp trung ương

giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…).
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên
về phát triển công nghiệp nặng. Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên
đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công
nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước… Nóng vội, giản đơn, chủ
quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế
xã hội trong thời kỳ 1960-1985.
2.3.

Đặc trưng chủ yếu

Nhìn chung, từ năm 1960 – 1985, Đảng ta đã nhận thức và tiến hành công nghiệp
hóa theo kiểu cũ với các đặc trưng chủ yếu sau:
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín và hướng nội: đặc trưng
này là do điều kiện khách quan đem lại. Tình hình của Việt Nam trước đổi mới
là chiến tranh và bao vây cấm vận của các nước tư bản, chúng ta chỉ nhận được
sự hợp tác của một số nước trong hệ thống XHCN. Vì vậy, khó có thể lựa chọn
-

mô hình công nghiệp hóa khác.
Thiên về phát triển công nghiệp nặng: do tình hình thực tiễn của Việt Nam là
một nước nông nghiệp nghèo nàn, tỷ trọng công nghiệp không đáng kể. Tình
hình kinh tế và chính trị đòi hỏi Việt Nam phải có một nền công nghiệp nặng
phát triển. Vì vậy, trong đường lối tiến hành công nghiệp hóa đã đề cao vai trò

-

của công nghiệp nặng để giải quyết những vấn đề đó.
Gắn với cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp: nhà nước quản lý
tất cả mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội trong đó có vấn đề về công nghiệp


-

hóa. Mục tiêu, phân bố nguồn lực,… đều do Nhà nước quyết định.
Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của
các nước xã hội chủ nghĩa; chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước; việc phân bố nguồn lực để công nghiệp hóa chủ yếu
bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, trong một nền kinh tế phi thị
trường.
14


CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ SỰ THỰC HIỆN QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HOÁ
3.1.

Kết quả, ý nghĩa

Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới diễn ra trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, những tiền đề vật chất cần thiết cho công nghiệp hóa vẫn còn hết sức hạn chế và
trong điều kiện có chiến tranh phá hoại.
Trên phạm vi cả nước sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập thống
nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến lược ưu tiên phát triển ngành công nghiệp nặng tiếp tục được khẳng định
lại sau 16 năm tại Đại hội IV của Đảng (1976) nhưng chính sách này đã có thay đổi
chút ít. Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả
nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp và xây dựng nền kinh tế trung ương

vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương
trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Những thay đổi trong chính sách công nghiệp hóa dù còn chưa rõ nét song cũng
đã tạo ra một sự thay đổi nhất định trong phát triển:
+ Số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên 2627
cơ sở năm 1980 và 3220 cơ sở năm 1985.
+ 1976-1978 công nghiệp phát triển khá. Năm 1978 tăng 118,2% so với năm
1976. Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồn
viện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế thì nặng tính quan
liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu vốn, công nghiệp
15


trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được) nên đây vẫn là sự biểu hiện của tư
tưởng nóng vội trong việc xác định bước đi và sai lầm trong việc lựa chọn ưu tiên giữa
công nghiệp và nông nghiệp.
Kết quả là thời kỳ 1976 – 1980 nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, suy thoái, nền
kinh tế mắt cân đối nghiêm trọng.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng
trong giai đoạn này cần làm có mức độ phù hợp, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có
hiệu quả cho lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước
mắt. Đây là bước điều chỉnh rất đúng đắn và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhờ vậy, nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ này đã có sự tăng trường khá hơn so
với thời kỳ 5 năm trước đó.
Cụ thể là:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1981: 2,3% 1985: 57%.
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1981: 9,5%.

+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1981: 5,3% 1985: 3%.
+ Năm 1985, công nghiệp nhóm A chiếm 32,7%, công nghiệp nhẹ 67,3%, tiểu
thủ công nghiệp 43,5%, công nghiệp địa phương 66%, công nghiệp quốc doanh và
công tư hợp doanh 56,5%.
+ Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 20,2%/1980 lên 30%/1985.
+ Nhập khẩu lương thực giảm hẵn so với 5 năm trước (từ 5,6 triệu tấn thời kỳ
1976-1980 xuống 1 triệu tấn thời kỳ 1981-1985).

16


Tuy nhiên, trên thực tế chính sách này vẫn không có mấy thay đổi so với trước.
Mặc dù nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại hội vẫn xác định
"Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công nghiệp nặng
tương đối phát triển làm nòng cốt. Sự điều chỉnh không dứt khoát đó đã làm cho nền
kinh tế Việt Nam không tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và
khuyết điểm mới, tình hình kính tế - xã hội và đời sống nhân dân sau 5 năm không
những không ổn định được mà còn lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.
Mặc dù vậy, quá trình công nghiệp hóa vẫn đạt được nhiều kết quả quan trọng.
So với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn đã hình
thành, đã có nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như
điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng. Đã có hàng chục trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đã đào tạo được đội ngũ cán bộ
khoa học - kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với 1960 và đó là thời điểm bắt
đầu công nghiệp hóa. Trong điều kiện đi lên từ điểm xuất phát thấp, lại bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, thì những kết quả đạt được trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp theo.
3.2.

Hạn chế, nguyên nhân


Bên cạnh những thành tựu đạt được, công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới còn
nhiều hạn chế như cơ sở vật chất kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành công
nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức để làm nền
tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân. Lực lượng sản xuất trong nền nông nghiệp
mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực,
thực phẩm cho xã hội.
Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, rơi vào sự
khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Những hạn chế trên còn xuất phát từ nguyên nhân:

17


- Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế
lạc hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng
nề, vừa không thể tập trung sức người sức của cho quá trình công nghiệp hóa.
- Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác
định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu
đầu tư. Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan trong nhận thức và chủ
trương công nghiệp hóa.
 Đánh giá sự thực hiện đường lối công nghiệp hóa:
Nhìn chung trong thời kỳ 1960-1985 chúng ta đã nhận thức và tiến hành công
nghiệp hóa theo kiểu cũ dẫn tới hạn chế, sai lầm sau đây:
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên
về phát triển các ngành công nghiệp nặng. Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào
lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước XHCN;
chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước;
việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa dược thực hiện thông qua cơ chế kế
hoạch hóa quan liêu, bao cấp, không tôn trọng các quy luật của thị trường.
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không

quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội. Trong điều kiện chiến tranh phá hoại,
tiếp theo lại bị bao vây, cô lập, những sai làm trên đây đã trở thành nguyên nhân
chủ yếu dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong nhiều năm.

18


KẾT LUẬN
Có thể thấy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá được coi là một quy luật có tính phổ
biến trong sự phát triển của tất cả các quốc gia. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã,
đang và sẽ là xu hướng phát triển chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đất nước
Việt Nam ta để đi tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”
cũng cần phải xem công nghiệp hoá – hiện đại hoá là con đường phát triển tất yếu. Với
sự cố gắng và nỗ lực, quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá ở nước ta trước thời kì
đổi mới đã gặt hái được những thành quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế
và sai lầm.
Đại hội VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/ 1986 với tinh thần “nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc phê phán và chỉ ra những
sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hoá thời kì 1960 – 1985. Chúng ta
đã sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lí kinh tế,… Nước ta đã chủ trương đẩy mạnh
công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khái chậm đổi mới có
chế quản lí kinh tế. Bên cạnh đó, trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu
sản xuất và cơ cấu đầu tư cũng có những sai lầm, đó chính là không tập trung sức giải
quyết các vấn đề căn bản về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dung và hàng xuất khẩu,
dẫn đến kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp. Cuối cùng, trong quá trình thực
hiện ta đã không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội V: chúng ta chưa thật sự
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976-1981), Đảng ta rút ra kết luận:

từ một nên sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công
nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt
vấn đề như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982) đã xác định trong chặng
đường đầu tiên thời kí quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu,
ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển
công ngiệp nặng trong giai đoạn này cần có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực,
có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính
19


của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh rất đúng đắn
mục tiêu và bước đi công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tiếc rằng, trên
thực tế chúng ta đã không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này, gây hậu
quả nghiêm trọng.
Nhìn chung, mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá – hiện đại hoá là cải biến nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kĩ thuật hiện đại; có cơ cấu kinh tế
hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
mức sống vật chất và tinh thần cao; nền quốc phòng – an ninh vững chắc; dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần có
những chủ trương đúng đắn, hợp lí, kịp thời và sự phối hợp thực hiện nhịp nhàng giữa
chính phủ và nhân dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

http://:tailieu.vn
http://:123doc.net
http://:ykhoataynguyen.com
20



http://:www.cpv.org.vn/cpv
/> />
/>
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
THỨ
TỰ

NHIỆM VỤ

THỰC HIỆN

KẾT QUẢ

Phụ trách
1

Hoàn thành tốt

2

Phụ trách

Hoàn thành tốt

3

Phụ trách

Hoàn thành tốt


21

KÝ TÊN


Phụ trách
4

Hoàn thành tốt
Phụ trách

5

Hoàn thành tốt

ĐIỂM SỐ

TIÊU CHÍ

NỘI DUNG

BỐ CỤC

TRÌNH BÀY

TỔNG

ĐIỂM

NHẬN XÉT

.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
22


.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Ký tên

Ths.

23



×