Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

RÈN KĨ NĂNG VIẾT văn NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.42 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
STT
1

NỘI DUNG

TRANG

Mục lục

1

2

Các chữ viết tắt

3

3

1.Lời giới thiệu

4

4

2. Tên sáng kiến kinh nghiệm

4

5



3. Tên tác giả

4

6

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến

4

7

5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

4

8

6. Ngày sáng kiến được áp dụng

4

9

7. Mô tả bán chất

4

10


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

4

11

7.1. Lí do chọn đề tài.

4

12

7.1.1. Cơ sở lí luận

4

13

7.1.2. Cơ sở thực tiễn

5

14

7.2. Mục đích nghiên cứu

5

15


7.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

5

16

7.4. Bản chất của chuyên đề:

6

17

7.5. Phương pháp nghiên cứu:

6

18

7.6.Giới hạn chuyên đề:

6

19

7.7. Phạm vi nghiên cứu

6

20


PHẦN II. NỘI DUNG

6

21

7.1. Một số hiểu biết chung

6

22

7.1.1. Nghị luận và văn nghị luận:

6

23

7.1.2. Đặc điểm

6

24

7.2. Thực tế giảng dạy và học tập phân
môn tập làm văn nói chung và kiểu
loại văn nghị luận nói riêng.

7


25

7.2.1. Đối với giáo viên:

7

26

7.2.2. Đối với học sinh:

7

27

7.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng viết

8
1


văn nghị luận cho học sinh lớp 9.
28

7.3.1. Nhận diện đề.

9

29


7.3.2. Xây dựng cách lập luận cho bài

10

30

7.3.3. Ngôn ngữ trong văn nghị luận

16

31

7.4. Cách làm một dạng bài cụ thể:
Nghị luận xã hội

16

32

7.4.1.Yêu cầu chung của một bài văn

17

nghị luận xã hội
33

7.4.2. Yêu cầu cụ thể cho từng dạng
bài

17


34

7.4.2.1.Nghị luận về một vấn đề tư
tưởng đạo lí

17

35

7.4.2.2.Nghị luận về một sự việc hiện
tượng đời sống

21

36

7.5. Kết quả đạt được sau khi áp dụng
đề tài

23

37

PHẦNIII. KẾT LUẬN VÀ KIẾN
NGHỊ

23

38


1. Kết luận:

23

39

2. Kiến nghị

23

4

7.2. Khả năng áp dụng sáng kiến

23

41

8. Những thông tin cần được bảo mật

24

42

9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng
sáng kiến

24


43

10.Đánh giá kết quả thu được từ sáng
kiến

24

44

11. Danh sách những tổ chức cá nhân
đã tham gia áp dụng sáng kiến

25

45

Tài liệu tham khảo

26

2


CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
-

Trung học cơ sở: THCS
Sách giáo khoa: SGK
Giáo viên: GV
Nhà xuất bản: NXB

Học sinh giỏi: HSG

3


BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU,
ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Trong chương trình ngữ văn THCS các em được làm quen với 6 phương
thức biểu đạt ( Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận, hành chính –
công vụ). Đối với kiểu bài: tự sự , miêu tả, biểu cảm phần nào các em vẫn thể
hiện được cảm xúc của mình qua bài viết, nhưng để đánh giá, nhận định một vấn
đề trong xã hội, trong cuộc sống thì khá nhiều em cón lúng túng, Bởi nghị luận
xã hội là một lĩnh vực rất rộng: Từ bàn bạc những sự việc, hiện tượng trong đời
sống đến luận bàn những vấn đề có tầm chiến lược, những vấn đề tư tưởng triết
lí… Trong phạm vi tập làm văn ở nhà trường bậc THCS học sinh được làm quen
kiểu bài văn nghị luận xã hội.
Trong khuôn khổ một bài viết có hạn tôi chỉ dừng lại giới thiệu và minh
họa cách tổ chức rèn cho học sinh kĩ năng viết một bài văn nghị luận xã hội.
2. Tên sáng kiến:
“RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH LỚP 9”
3.Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên:Ngô Thị Anh Thơ.
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Giáo viên trường THCS Vĩnh Ninh.
- Số điện thoại: 0989865336.

Emai:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Ngô Thi Anh Thơ.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng cho chương trình rèn kỹ năng viết

văn nghị luận trong các tiết dạy về văn nghị luận.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Ngày 20 tháng
10 năm 2016.
7. Mô tả bản chất sáng kiến:

PHẦN I. MỞ ĐẦU
7.1 Lí do chọn đề tài.
7.1.1 Cơ sở lí luận:
Từ xưa đến nay, văn học luôn có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống
và trong sự phát triển nhân cách của con người, bởi: “Văn học là nhân học”.
4


Trong trường phổ thông, môn Ngữ văn cũng đã được các cấp ngành hết sức chú
ý, nó chiếm một số lượng tiết rất đáng kể so với các môn học khác. Đó là môn
học thuộc nhóm khoa học xã hội có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan
điểm, tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học sinh. Nó không những tạo tiền đề
cho học sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo mà còn rèn
cho các em các kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có
năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Văn học đồng thời cũng là một môn
công cụ có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ môn khác. Học tốt môn văn sẽ giúp
các em tiếp nhận các môn khoa học khác một cách tốt hơn.
7.1.2 Cơ sở thực tiễn:
Thực tế cho thấy năng lực cảm thụ văn chương, đưa văn chương vào cuộc
sống và đặc biệt là cách hành văn (nhất là văn nghị luận) của đại đa số các em
còn rất yếu. Mặc dù đã học đến lớp 9 vậy mà có không ít học sinh vẫn còn viết
những đoạn văn, bài văn không đâu vào đâu, hết sức ngây ngô, thậm chí ngay
đến bài kiểm tra một số em cũng chỉ vẽ vời luơ quơ, viết đối phó để tránh bị
điểm 0. Dường như các em bất lực trước ngòi bút của mình. Hầu hết các em chỉ
có thể làm văn bằng cách sao chép bài mẫu hoặc ghi tất cả những lời giảng của

giáo viên chứ không thể viết ra “những điều mình nghĩ, mình cần bày tỏ một
cách trung thành, chính xác, để làm nổi bật điều muốn nói”. Chính điều đó làm
cho các em lo sợ, ngại ngùng và ít hào hứng khi học bộ môn Ngữ văn nhất là
phân môn tập làm văn.
Môn ngữ văn trong nhà trường THCS gồm có ba phân môn chính là: Văn
học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Trong thực tế, phân môn Tập làm văn luôn
được coi là phân môn khó nhất không chỉ đối với giáo viên mà đối với cả học
sinh.
Đứng trước tình trạng đó, tôi và nhiều đồng nghiệp khác đã không khỏi
băn khoăn. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi, tìm biện
pháp để giúp các em có kĩ năng làm văn nhất là văn nghị luận. Chính vì vậy, tôi
đã chọn: “Rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh lớp 9” làm đề tài.
7. 2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này tôi không có tham vọng gì hơn ngoài mục đích cung
cấp cho học sinh lớp 9 nói riêng và học sinh THCS nói chung những kĩ năng khi
làm văn nghị luận để các em cải thiện được kĩ năng viết văn nghị luận của mình
nói riêng và để học tốt bộ môn Ngữ văn nói chung.
7.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Do thời gian và điều kiện của bản thân trong phạm vi giải pháp tôi chỉ tập
trung đề cập đến
- Một số dạng bài văn nghị luận trong chương trình ngữ văn lớp 9.
- Cụ thể: dạng bài nghị luận xa hội:
+ Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống
5


+ Nghị luạn về một vấn đề tư tưởng đạo lí
7.4. Bản chất của đề tài:
Qua chuyên đề giúp học sinh nắm được kĩ năng làm một bài văn nghị luận
nói chung và các dạng bài nghị luận trong chương trình lớp 9 nói riêng.

7.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc và nghiên cứu tài liệu
- Thảo luận nghiên cứu qua tổ chuyên môn
- Học hỏi qua đồng nghiệp và những người có kinh nghiệm.
7.6.Giới hạn đề tài:
Đây không phải là sáng kiến mới mà cũng đã có nhiều đồng chí đề cập
đến vấn đề này. Tuy nhiên từ kinh nghiệm thực tế giảng dạy ở trường và một số
năm dạy lớp 9 tôi nhận thấy khi học và viết bài các dạng bài nghị luận của các
em nhất là bài nghị luận xã hội còn yếu nên tôi chon chuyên đề này áp dụng
trong trường THCS Vĩnh Ninh.
7.7. Phạm vi nghiên cứu
- Văn nghị luận ở trường THCS
- Các dạng văn nghị luận ở lớp 9
- Tập trung vào dạng bài nghị luận xã hội

PHẦN II. NỘI DUNG
7.1. Một số hiểu biết chung
7.1.1 Nghị luận và văn nghị luận:
- Nghị luận: bàn bạc, lí giải, đánh giá cho rõ một vấn đề nào đó.
- Văn nghị luận là loại văn dùng để bàn bạc về một vấn đề, một hiện
tượng, một nhận định hoặc về một giá trị của một tác phẩm văn học. Có nhiều
cách bàn bạc, có khi dùng những bằng chứng để người ta tin tưởng hơn (chứng
minh), có khi giảng giải, đưa ra những bằng chứng để người ta hiểu cặn kẽ hơn
(giải thích), cũng có khi phải phát biểu ý kiến của mình (bình luận) hoặc chỉ ra
những giá trị của một tác phẩm văn học (phân tích tác phẩm), hoặc chỉ ra những
giá trị của một hình tượng nhân vật trong tác phẩm (phân tích nhân vật), hoặc
giảng giải để bình giá một tác phẩm thơ hoặc văn xuôi (bình giảng). Dù là chứng
minh, giải thích hay bình luận, phân tích tác phẩm, bình giảng tác phẩm thì
người viết văn nghị luận vẫn phải có những hiểu biết đầy đủ về vấn đề sẽ trình
bày, phải có lập trường quan điểm đúng đắn và phải lựa chọn một phương pháp

trình bày, lập luận khoa học, phải dùng những lí lẽ, những dẫn chứng và cách
trình bày những lí lẽ, dẫn chứng này theo một cách thức nhất định.
7.1.2. Đặc điểm

6


- Văn nghi luận không làm nhiệm vụ mô tả đời sống xã hội hay nội tâm
con người như văn sáng tác mà nhằm nhận biết và phân tích đời sống bằng tư
duy logic nên nó phải tuân thủ chặt chẽ tư duy logic.
- Những quy tắc này biểu hiện ở hình thức cả bài, bao giờ cũng phải có:
Nêu vấn đề (mở bài), giải quyết vấn đề (thân bài), kết thúc vấn đề (kết bài),
biểu hiện ở kết cấu từng đoạn văn, có mở đoạn, triển khai đoạn, sơ kết đoạn,
biểu hiện ở mục đích bài viết: làm cho người đọc hiểu đến tin rồi tiến đến xây
dựng một thái độ đúng và hướng dẫn những hành động khác.
Phân loại văn nghị luận:
Nhìn từ nội dung đề tài ta có thể chia văn nghị luận thành hai loại lớn:
- Nghị luận văn học:
Là những bài văn bàn về các vấn đề văn chương- nghệ thuật, phân tích,
bình luận về vẻ đẹp của tác phẩm văn học, trao đổi về một vấn đề lí luận văn học
hoặc làm sáng tỏ một nhận định văn học.
- Nghị luận xã hội:
Theo từ điển Hán Việt, " nghị luận" là dùng lí luận để phân tích ý nghĩa phải
trái, bàn bạc mở rộng vấn đề. Còn " xã hội " là những gì thuộc về quan hệ giữa
người và người về các mặt chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, văn học, ngôn
ngữ... Từ đó có thể hiểu nghị luận xã hội là những bài văn bàn về các vấn đề xã
hội - nhân sinh, một tư tưởng đạo lí, một lối sống cao đẹp, một hình tượng tích
cực hoặc tiêu cực đến con người và những mối quan hệ giữa con người với con
người trong xã hội.
Nói chung cả hai loại đều nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ,

quan điểm của người viết một cách trực tiếp về văn học hoặc về chính trị, đạo
đức, lối sống... bằng một ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn với những lập luận chặt
chẽ, giàu sức thuyết phục.

7.2. Thực tế giảng dạy và học tập phân môn tập làm văn nói
chung và kiểu loại văn nghị luận nói riêng.
7.2.1. Đối với giáo viên:
Như đã nói, Tập làm văn là phân môn khó dạy nhất trong số các phân
môn của bộ môn Ngữ văn. Mặt khác, số tiết quy định cho việc dạy lí thuyết và
thực hành lại hết sức khiêm tốn, vì vậy giáo viên ít có thời gian để uốn nắn,
điều chỉnh những lệch lạc sai sót trong cách viết của học sinh. Đa số giáo viên
tận tụy với nghề, luôn chăm lo quan tâm đến học sinh, mặc dù vậy vẫn còn một
số hạn chế như: do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy, áp dụng
công nghệ thông tin vào trong bài dạy còn hạn chế; một số giáo viên còn thực sự
chưa tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch cảm xúc, chưa khơi gợi
được hứng thú của học sinh trong tiết học
7.2.2. Đối với học sinh:
7


Phần lớn các em có tâm lí chán học , lười học, không có thói quen đọc
sách văn học, kể cả những văn bản trong sách giáo khoa, chứ chưa nói đến việc
soạn bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Hiện nay, sách những bài văn mẫu tràn
ngập thị trường khiến cho các em không cần phải động não nhưng vẫn có thể
viết bài một cách tương đối. Lâu dần khả năng cảm thụ và sáng tạo bị thui chột,
khiến các em hoàn toàn bị phụ thuộc, thành thử không có văn mẫu không làm
được bài.
Mặt khác đời sống tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí
như : xem ti vi, chơi game ngày càng nhiều khiến cho một số em chưa có ý thức
học bị lôi cuốn, thành ra sao nhãng việc học.

Nói chung còn vô vàn những thiếu sót ở phía các em, nhưng nhìn chung
lại chủ yếu là do các em chưa nắm được phương pháp, từ đó không hình thành
cho mình kĩ năng làm văn (đặc biệt là đối với văn nghị luận).
7.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh lớp 9.
Mặc dù các em đã học từ lớp 7, thế nhưng để học sinh hiểu kĩ hơn về thể
văn nghị luận, tôi thường khắc sâu cho các em thấy rõ những đặc trưng cơ bản
của văn nghị luận đó là:
Văn nghị luận là một loại văn bản mà ở đó người nói, người viết trình bày,
phát biểu ý kiến, quan niệm, suy nghĩ, tư tưởng, thái độ của mình trước một vấn
đề nào đó trong cuộc sống cũng như trong văn học. Đó là một thể văn dùng lí lẽ
để phân tích, giải quyết vấn đề nhằm xác lập cho người nghe, người đọc một tư
tưởng, một quan điểm nào đó.
Trong bài văn nghị luận, vấn đề nghị luận là tư tưởng cốt lõi, là chủ đề
(hay nói cách khác nó là nội dung chính ) của cả bài. Muốn triển khai làm rõ vấn
đề nghị luận thì bắt buộc phải có hệ thống luận điểm. Vì vậy, luận điểm được coi
là linh hồn của bài văn. Luận điểm thể hiện rõ tư tưởng, quan điểm, lập trường,
chủ trương, đánh giá của người viết với vấn đề cần thuyết phục và làm sáng tỏ.
Luận điểm thường được thể hiện dưới hình thức một câu văn ngắn gọn, là những
phán đoán có tính chất khẳng định hoặc phủ định. Tuy nhiên có luận điểm chưa
phải là yếu tố quyết định để có bài văn nghị luận hay mà điều quan trọng là luận
điểm đó như thế nào, có đúng đắn, mới mẻ, độc đáo không? Vậy làm thế nào để
có một luận điểm đúng đắn, mới mẻ và độc đáo? Luận điểm mới mẻ không tự
nhiên mà có, người viết thường xuất phát từ thực tế cuộc sống thực tế và từ kho
tàng tư tưởng đạo lí của dân tộc và nhân loại.
Có luận điểm mới mẻ, sáng tạo là hết sức quan trọng, nhưng để bài văn
thuyết phục cao thì riêng luận điểm chưa đủ. Ở đây cần phải biết đến vai trò của
lập luận. Phải biết lập luận, tức là phải biết trình bày và triển khai các luận điểm;
biết nêu vấn đề và giải quyết vấn đề, biết dùng lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ
những điều muốn nói, để người đọc hiểu, tin và tán đồng với mình. Luận điểm là
nội dung còn lập luận là hình thức diễn đạt nội dung ấy; lập luận là cách nói.

8


Trong SGK Ngữ văn 9 tập 2, để dạy học sinh cách làm bài nghị luận có
các bài cụ thể sau:
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
- Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
- Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
Mặc dù đã có những hướng dẫn cụ thể nhưng các bài này còn mang tính
khái quát, mô hình tổng thể, chưa đề cập nhiều đến việc nhận diện đề, xây dựng
lập luận, ngôn ngữ trong văn nghị luận, mặc dù những điều này các em đã học ở
các lớp dưới, cho nên học sinh gặp rất nhiều khó khăn trong viết bài.
Trong một số năm học gần đây bản thân tôi được phân công giảng dạy
môn Ngữ văn khối 9. Khi dạy văn nghị luận, tôi đã cố gắng truyền đạt tất cả
những kiến thức cơ bản để hướng dẫn học sinh viết một bài văn nghị luận như
SGK Ngữ văn 9 tập 2, song tôi nhận thấy hiệu quả viết văn nghị luận các em
chưa cao, phần lớn lỗi các em còn mắc phải trong bài làm là ở khâu nhận diện
đề, xây dựng lập luận, ngôn ngữ cho bài văn. Vì vậy trong quá trình giảng dạy,
tôi đã cố gắng lồng ghép, cung cấp tốt cho các em những điều này để giúp các
em rèn luyện kĩ năng viết văn của mình một cách tốt hơn.
7.3.1. Nhận diện đề.
Trước khi làm bất cứ một bài văn nghị luận nào, điều đầu tiên hết sức
quan trọng đối với người viết là việc nhận diện đề. Bởi mỗi đề văn nghị luận
thường có những đặc điểm riêng về mặt nội dung và hình thức, không đề nào
hoàn toàn giống đề nào. Vì vậy trong quá trình làm bài văn nghị luận, việc tìm
hiểu đề để nắm vững yêu cầu của đề về cả hai phương diện: cách thức nghị luận
và nội dung nghị luận là công việc quan trọng có ý nghĩa quyết định trước tiên
đối với sự thành bại của mỗi bài văn. Tìm hiểu kĩ đề tránh được tình trạng lạc
đề, xa đề, thừa ý, thiếu ý… trong bài làm.

Vì thế nhận diện đề là khâu hết sức quan trọng trong quy trình làm văn.
Nếu nhận diện sai, bài làm sẽ sai. Đối với học sinh những lỗi sai về nhận diện
đề thường là:
- Lạc đề: Là xác định sai nội dung, phương pháp, giới hạn…
- Lệch đề: Là chưa xác định được đâu là nội dung chính, lẽ ra nội dung
chính cần phải làm nhiều thì lại nói qua loa, đại khái, phần phụ trở thành phần
chính, thao tác chính lại trở thành thao tác phụ, cuối cùng viết không đúng trọng
tâm…
- Lậu đề: Là còn viết thiếu ý, bỏ sót ý hoặc thiếu một yêu cầu nào đó của
đề.
Khi hướng dẫn học sinh cách làm các bài văn nghị luận cụ thể, giáo viên
cần dạy tốt phần tìm hiểu đề. Giúp các em hiểu tìm hiểu đề là tìm hiểu về nội
dung, thể loại, giới hạn của đề, … Nói một cách khác giáo viên cần giúp cho học
9


sinh xác định được: vấn đề nghị luận, và những yêu cầu cụ thể mà người soạn đề
đòi hỏi người viết phải giải quyết khi bàn luận vấn đề đó.
Trước hết, giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu cặn kẽ ý nghĩa của từng
từ ngữ quan trọng, vai trò của các vế, các câu, phân tích quan hệ ngữ pháp và
quan hệ logic – ngữ nghĩa của chúng – tức là phải khám phá cho được những
điều còn ẩn kín trong các bộ phận của đề bài: từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, từ
nghĩa trực tiếp đến nghĩa sâu sa, nghĩa trong văn cảnh và các sắc thái tinh vi
phong phú của chúng.
Thông thường khi hướng dẫn học sinh nhận diện đề, tôi thường định
hướng cho học sinh trả lời các câu hỏi dưới đây:
- Viết điều gì? Tức là cần xác định được nội dung bài viết, được vấn đề
nghị luận. Yêu cầu về nội dung thường khó phát hiện hơn cả và là yêu cầu quan
trọng nhất. Song song với đó cần phải xác định: phạm vi nghị luận, mức độ nghị
luận… ( để tránh dàn trải, làm mờ nhạt nội dung chính)

- Viết cho ai? Tức là phải xác định được đối tượng nghị luận (thầøy cô, bè
bạn, hay tất cả mọi người). Việc xác định đúng đối tượng nghị luận và hiểu biết
sâu sắc về đối tượng đó luôn tạo hiệu quả cho bài nghị luận.
- Viết như thế nào? Tức là cần phải xác định được phương pháp nghị luận,
chủ yếu là tìm hiểu xem đề thuộc kiểu nào? (giải thích, chứng minh, bình luận,
hỗn hợp…), để tránh tình trạng đề yêu cầu một đằng thì viết một nẻo. Bên cạnh
đó, cũng cần xác định xem bài sẽ phải viết theo hướng nào, cần phải có những
luận điểm nào, hệ thống luận cứ và dẫn chứng ra sao?
- Viết để làm gì? Đây là câu hỏi nhằm xác định mục đích viết. Trên cơ sở
đó, các em sẽ đưa ra những luận điểm, và lựa chọn dẫn chứng sao cho phù hợp
với mục đích của mình.
7.3.2. Xây dựng cách lập luận cho bài
Văn nghị luận là tiếng nói của trí tuệ, của lí trí, nó thuyết phục người
đọc, người nghe chủ yếu bằng nội dung luận thuyết, chất liệu và sức mạnh chủ
yếu của nó là lí lẽ, là lập luận. Nói như vậy, để làm một bài văn nghị luận, mới
chỉ có ý thôi thì chưa đủ mà cần phải có lí nữa, vì đích đến của một bài văn nghị
luận đối với người đọc, người nghe chính là tính thuyết phục. Vậy để bài văn có
lí, thì cần phải có lập luận. Lập luận chính là trình bày hệ thống lí lẽ và dẫn
chứng của mình một cách chặt chẽ, rành mạch theo một trình tự hợp lí đúng với
quy luật logic nhằm khẳng định hay bênh vực một ý kiến, làm sáng tỏ một vấn
đề. Vì vậy khi dạy cho học sinh cách làm bài văn nghị luận người giáo viên cần
cho học sinh hiểu rõ và biết cách xây dựng lập luận.
7.3.2.1. Xây dựng luận cứ
Luận cứ là các lí lẽ và dẫn chứng để chứng minh cho kết luận. Khi xây
dựng một lập luận, điều quan trọng là phải tìm được các luận cứ có tính thuyết
phục cao. Vì vậy, tôi thường hướng dẫn học sinh tìm luận cứ bằng cách đưa ra
các lí lẽ và đưa ra các dẫn chứng như sau:
10



7.3.2.1.1.Sử dụng dẫn chứng từ thực tế.
Dẫn chứng từ thực tế có thể là người thật, việc thật, diễn ra trong cuộc
sống hiện tại, trong lịch sử, cũng có thể là những câu thơ, các sự kiện rút ra từ
tác phẩm văn học. Những dẫn chứng từ thực tế có tác động trực tiếp vào giác
quan người đọc, cách dẫn chứng này đơn giản, không cần tra cứu nhiều, điều
này rất thích hợp với khả năng nghị luận của đại bộ phận học sinh lớp 9 nhất là
đối tượng học sinh từ yếu đến khá. Tuy nhiên để luận cứ có tính thuyết phục cao,
tôi thường lưu ý với các em khi lấy dẫn chứng từ thực tế thì cần phải chọn
những dẫn chứng tiêu biểu, đúng bản chất của đối tượng, phù hợp với kết luận
cần hướng tới. Những dẫn chứng này phải được nhiều người biết và phải có ý
nghĩa. Đặc biệt trong bài văn nghị luận xã hội, dẫn chứng từ thực tế thường
được sử dụng nhiều và đóng vai trò hết sức quan trọng.
Chẳng hạn: Với đề bài “Đất nước ta có nhiều tấm gương học sinh nghèo
vượt khó, học giỏi. Em hãy trình bày một số tấm gương đó và nêu suy nghĩ của
mình”.
Tôi đã gợi ý để học sinh lấy một số dẫn chứng từ tế, lịch sử như sau:
Mạc Đĩnh Chi con nhà nghèo, ban ngày còn phải làm kiếm sống, chỉ tối đến mới
có thời gian học tập. Nhưng không có tiền mua dầu thắp đèn, cậu bé họ Mạc
phải bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng rồi soi lên trang sách mà đọc chữ. Với ngọn
đèn đom đóm ấy, cậu bé miệt mài học tập và đến khoa thi năm 1304 cậu thi đỗ
Trạng nguyên rồi trở thành một vị quan có tài năng lớn trong triều Trần.
Hoặc: Nguyễn Hiền nhà nghèo, phải xin đi làm chú tiểu trong chùa nhưng
rất thông minh và ham họ. Được thầy dạy cho học chữ, Nguyễn Hiền tiến bộ rất
nhanh. Không có giấy, cậu lấy lá viết chữ, rồi lấy que xâu thành từng xâu ghim
xuống đất. Mỗi xâu là một bài. Thế mà, Nguyễn Hiền đã đậu Trạng nguyên khi
mới 12 tuổi.
Hay với đề: Suy nghĩ về đạo lí “ Uống nước nhớ nguồn”
Tôi cũng đã gợi ý để học sinh lấy dẫn chứng từ thực tế, văn học như sau:
Triết lí sống “Uống nước nhớ nguồn” đã hóa thân thành những tập tục đẹp
đẽ của người Việt Nam. Biết ơn các vua Hùng dựng nước,

dân ta có ngày giỗ tổ Hùng Vương. Biết ơn các thương binh, liệt sĩ đã
đổ xương máu để giữ hòa bình, chúng ta có ngày 27 – 7. Triết lí sống “Uống
nước nhớ nguồn” đã trở thành bản lĩnh sống, là một nét nhân cách đẹp đẽ.
Nguyễn Trãi ăn lộc vua nhưng lại tâm niệm đền ơn kẻ cấy cày. Trần Đăng Khoa
biết từ những khó nhọc của cha mẹ để thấy rõ hơn trách nhiệm của mình:
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Con chưa ngoan chưa ngoan.
( Khi mẹ vắng nhà.)
11


Trong thực tế, không phải không có những kẻ vô ơn, thậm chí quay lưng
phản bội lại những người có công lao với mình. Đó là những kẻ ích kỉ, giả dối
như nhân vật Lí Thông trong truyện cổ tích Thạch Sanh. Những kẻ vô ơn ấy bị
xã hội khinh ghét và sớm muộn cũng phải trả giá cho sự vô ơn của mình.
Với kiểu bài nghị luận văn học, tôi cũng hết sức lưu ý với các em, muốn
bài viết có tính thuyết phục cao thì khi trích dẫn chứng, cần phải trích một cách
chính xác và phải đặt dẫn chứng vào trong đóng mở ngoặc kép. Do vậy khi dạy
giảng văn, tôi thường yêu cầu và kiểm tra rất chặt chẽ về việc học thuộc các văn
bản thơ và các chi tiết tiêu biểu đặc sắc trong các tác phẩm truyện.
7.3.2.1.2. Sử dụng các con số thống kê.
Con số thống kê chính là dẫn chứng thực tế được nâng lên mức độ khái
quát, tổng hợp thành số liệu cụ thể nên chúng có giá trị thuyết phục cao về mặt lí
trí. Đây là kiểu dẫn chứng khá thích hợp cho dạng văn nghị luận về một sự việc,
hiện tượng đời sống.
Chẳng hạn: Để chứng minh thuốc lá ảnh hưởng sức khỏe và đời sống con
người, tôi đưa ra những số liệu thống kê để các em tham khảo như sau:
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), thế kỉ 20, đã có khoảng 100 triệu

người trên thế giới chết do thuốc lá. WHO cũng dự báo, theo đà sử dụng thuốc
lá như hiện nay, thì sau năm 2020, mỗi người tử vong do nghiện thuốc lá trên
toàn cầu sẽ có khoảng 8 triệu người, trong đó 70% thuộc các nước đang phát
triển…
7.3.2.1.3. Sử dụng các phương tiện lập luận.
Trong lập luận, một mặt luận cứ, kết luận phải được trình bày rõ ràng,
tách bạch nhau, nhưng mặt khác, chúng phải được liên kết với nhau một cách
chặt chẽ để tạo nên một chỉnh thể. Vì vậy, các phương tiện liên kết lập luận giữ
một vai trò hết sức quan trọng. Các phương tiện liên kết trong văn bản nghị luận
thường là các từ ngữ hoặc cũng có thể là các câu văn có tác dụng liên kết.
Đối với học sinh lớp 9, các em đã được học về liên kết nội dung và liên
kết hình thức trong một đoạn văn, bài văn nhưng hầu hết bài viết của các em
phần lớn còn rời rạc, chưa có một sự liên kết chặt chẽ, sự kết dính thật sư, bởi
các em chưa biết cách sử dụng các phương tiện lập luận. Để giúp các em viết
văn nghị luận tốt hơn, GV cần thiết cung cấp cho các em những phương tiện liên
kết cơ bản để giúp cho các em viết bài tốt hơn cụ thể như sau:
- Về mặt nội dung, các phương tiện liên kết được sử dụng để chỉ các mối
quan hệ sau đây giữa các luận cứ:
+ Ý nghĩa trình tự: trước tiên, trước hết, sau đó, tiếp theo, một là, hai là,
ba là, …
+ Ý nghĩa tương đồng: ngoài ra, bên cạnh đó, vả lại, hơn nữa, một mặt,
mặt khác, …

12


+ Ý nghĩa tương phản (đối lập) : nhưng, song, tuy vậy, tuy nhiên, ngược
lại, thế mà, có điều, …
+ Ý nghĩa nhân quả: bởi vậy, vì vậy, như vậy, do đó, …
- Về mặt chức năng, các phương tiện liên kết có thể đảm nhiệm các chức

năng sau:
+ Dẫn nhập luận cứ: vì, bởi vì, do vì, …
+ Dẫn nhập kết luận: nên, cho nên, vì vậy, do đó, do vậy, …
+ Nối kết giữa các luận cứ: ngoài ra, bên cạnh đó, vả lại, nhưng, hơn thế
nữa, thêm vào đó, …
7.3.2.2.Một số cách lập luận cơ bản.
7.3.2.2.1. Lập luận suy lí (suy luận).
Là kiểu lập luận suy từ lí lẽ này đến lí lẽ khác (trong đó lí lẽ sau là hệ quả
của lí lẽ trước) để dẫn dắt đến lí lẽ cuối cùng (luận điểm chính).
Ví dụ:
Các tác phẩm văn học có giá trị đều có tính nhân văn. “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du là một tác phẩm có giá trị. Bởi vậy, “Truyện Kiều” có tính nhân văn,
không ai có thể phủ nhận được.
7.3.2.2.2. Lập luận diễn dịch.
Là lập luận trong đó câu khẳng định nhiệm vụ chung ( luận điểm chính)
đứng ở đầu đoạn văn. Những câu còn lại đứng sau mang ý nghĩa cụ thể có
nhiệm vụ giải thích, minh họa cho câu khẳng định nhiệm vụ chung.
Ví dụ:
Trần Đăng Khoa rất biết yêu thương. Em thương bác đẩy xe bò “mồ hôi
ướt lưng, căng sợi dây thừng” chở vôi cát về xây trường học, và mời bác về nhà
mình… Em thương thầy giáo một hôm trời mưa đường trơn bị ngã, cho nên dân
làng bèn đắp lại đường.
7.3. 2.2.3. Lập luận quy nạp.
Là lập luận trong đó câu khẳng định nhiệm vụ chung (luận điểm chính)
đứng ở cuối đoạn văn. Những câu đứng trước mang ý nghĩa cụ thể, có nhiệm vụ
giải thích minh họa cho câu khẳng định nhiệm vụ chung.
Ví dụ:
Chí Phèo bị vu oan, bị lừa lọc và bị xô đẩy đến đường cùng tuyệt vọng.
Chí Phèo trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại và chỉ hung hãn trong những
cơn say triền miên. Chỉ khi tỉnh rượu, Chí mới hiểu rằng mình là kẻ cô đơn, yếu

đuối. Chính sự cô đơn và nỗi tuyệt vọng đã hủy hoại ước mơ hoàn lương của
Chí Phèo. Vì vậy, Chí Phèo phải chết!
7.3.2.2.4. Lập luận Tổng – Phân – Hợp.

13


Là mô hình cấu trúc của văn nghị luận chuẩn dạng “ kinh điển”, trong đó
câu mang luận điểm chính đứng đầu đoạn, các câu nằm giữa giải thích, chứng
minh làm rõ luận điểm chính, câu cuối có nhiệm vụ khái quát luận điểm đã nêu.
Ví dụ:
“Trong hoàn cảnh “trăm dâu đổ đầu tằm” ta càng thấy chị Dậu là một
người phụ nữ đảm đang tháo vát. Một mình chị phải giải quyết mọi khó khăn
đột biến của gia đình, phải đương đầu với mọi thế lực tàn bạo: quan lại, cường
hào, địa chủ và tay sai của chúng. Chị có khóc lóc, có kêu trời nhưng chị không
nhắm mắt khoanh tay mà tích cực tìm cách cứu được chồng ra khỏi cơn hoạn
nạn. Hình ảnh chị Dậu hiện lên vững chãi như một chỗ dựa vững chắc của cả gia
đình”.
7.3.2.2.5. Lập luận so sánh.
Là phân tích bằng cách đối chiếu, đặt sóng đôi hai đối tượng, hai vấn đề
trên cơ sở sự giống nhau của chúng (thường là đối chiếu một sự vật không biết
hoặc biết ít với một sự việc quen thuộc để làm cho ý nghĩa của chúng rõ ràng,
sinh động hơn). Có 3 loại lập luận so sánh:
So sánh tương tự (loại suy): là suy lí từ chỗ hai đối tượng giống nhau ở
một số dấu hiệu ( một số mặt, tính chất hoặc quan hệ ) từ đó rút ra kết luận rằng
hai đối tượng này cũng giống nhau ở các dấu hiệu khác.
Ví dụ:
“Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần đó lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn , nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,

khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
(Hồ Chí Minh)
So sánh tính chất, sức mạnh lòng yêu nước của nhân dân ta với sóng
biển.
So sánh tương đồng: là đặt vấn đề này bên vấn đề khác có chung một số
nét đồng nhất để làm nổi bật vấn đề phân tích.
Ví dụ:
“ Đảng ta vĩ đại thật. Một thí dụ: trong lịch sử ta có ghi tên vị anh hùng
dân tộc là Thánh Gióng đã dùng gốc tre đánh đuổi giặc ngoại xâm. Trong những
ngày đầu kháng chiến, Đảng ta đã lãnh đạo hàng nghìn, hàng vạn anh hùng noi
gương Thánh Gióng dùng gậy tầm vông đánh thực dân Pháp.”
So sánh vũ khí và tinh thần đánh giặc của nhân dân ta trong cuộc kháng
chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng với vũ khí và tinh thần đánh giặc
của Thánh Gióng.
So sánh tương phản: Là đặt cái sáng bên cạnh cái tối, cái trắng bên cạnh
cái đen, cái tốt bên cái xấu để làm nổi bật cái cần được giải thích.
14


Ví dụ: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến
vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý
riêng mình mà tự chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan
nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý
dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn
thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời,
không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến
cho triều đại không được lâu bền, số phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn,
muôn vật không được thích nghi …”
(Chiếu dời đô)
Đối lập hai nhà Đinh, Lê với hai nhà Thương, Chu.

7.3.2.3.Kĩ năng trình bày luận chứng.
Tính thuyết phục của lập luận còn phụ thuộc vào các luận chứng, tức là
vận dụng các suy luận logic để đưa ra các lí lẽ, các bằng chứng cần thiết nhằm
chứng minh cho kết luận được nêu ra. GV có thể hướng dẫn HS vận dụng một
số cách trình bày luận chứng sau:
7.3.2.3.1.Cần nêu luận chứng một cách toàn diện.
Một vấn đề, một sự kiện, một hiện tượng thường bao gồm nhiều phương
diện, nhiều khía cạnh, nhiếu mức độ… cho nên luận chứng đưa ra phải nhiều
mặt, nhiều khía cạnh, bao quát được toàn bộ vấn đề. Nếu không vấn đề được
trình bày sẽ mắc thiếu sót, phiến diện; luận cứ, luận điểm sẽ khó đứng vững vì
thiếu căn cứ đầy đủ.
Khi một luận điểm đưa ra liên quan đến nhiều mặt, nhiều vấn đề thì phải
huy động nhiều luận chứng thuộc nhiều bình diện, nhiều phạm vi, nhiều lĩnh
vực, đặc biệt là trong văn chứng minh. Không bỏ sót những luận chứng cần
thiết, nhất là những luận chứng có giá trị, nhiều ý nghĩa.
7.3.2.3.2.Chọn lọc và sắp xếp luận chứng.
Trong những dẫn chứng phong phú thuộc nhiều phạm vi, nhiều lĩnh vực,
có những dẫn chứng cùng một ý nghĩa, có giá trị tương đương nhau, phải chọn
lọc để có những dẫn chứng tiêu biểu, có ý nghĩa mang tính khái quát, đại diện,
tránh tình trạng dẫn chứng tràn lan (dù đó là dẫn chứng hay). Bởi vì nếu không
biết chọn lọc dẫn chứng rất dễ rơi vào tình trạng lan man, khiến cho bài viết bị
loãng, thiếu sức thuyết phục, phản tác dụng.
Khi nêu luận chứng để chứng minh cho luận điểm cũng cần chú ý đến sự
hài hòa, cân đối trong toàn bộ bài văn, tránh chất dồn vào phần này để phần
khác sơ sài, nghèo nàn, thiếu hụt. Cũng nên tránh những dẫn chứng quá quen
thuộc, sáo mòn, ít mang lại hiệu quả.
Luận chứng cần có tính hệ thống (tức là nó phải được sắp xếp theo một
trình tự hợp lí, chặt chẽ). Tùy theo những mục tiêu cần chứng minh, giải thích,
phân tích,… để có thể sắp xếp các luận chứng theo trình tự thích hợp.
15



7.3.3. Ngôn ngữ trong văn nghị luận
Văn nghị luận đòi hỏi việc sử dụng từ ngữ phải chính xác, khoa học. Vì
vậy ngôn ngữ trong văn nghị luận có những đặc điểm sau đây:
7.3.3.1. Về cách dùng từ ngữ:
Văn nghị luận vừa mang tính chất trừu tượng, lại vừa mang tính cụ thể,
gợi cảm. Đểø bài văn giàu hình tượng, có sức thuyết phục, hấp dẫn người đọc,
thì ngôn ngữ trước hết phải mang tính toàn dân.
Trong văn nghị luận, câu văn thường có tính cân đối và sử dụng nhiều
điệp từ, điệp ngữ, câu hỏi…, khi đọc lên phải có ngữ điệu trang trọng, thiết tha,
hấp dẫn. Phép điệp từ, điệp ngữ thường được dùng phối hợp với phép lặp cấu
trúc cú pháp và phép đối, vừa có tác dụng nhấn mạnh, tô đậm, gây cảm giác
tăng tiến, vừa tạo được nhịp điệu và âm hưởng cho câu văn, tạo sự trang trọng,
đĩnh đạc hoặc thiết tha hùng hồn.
Ngoài ra, khi viết văn nghị luận cũng cần chú ý vận dụng các biện pháp tu
từ từ vựng, dùng từ, đặt câu có hình ảnh, có ngữ điệu, gợi cảm để bài viết có sức
truyền cảm, lôi cuốn, hấp dẫn và thuyết phục người đọc.
Ví dụ:
“ Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe
tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre
hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu.”
(Thép Mới)
7.3.3.2. Về cách dùng câu:
Câu văn trong văn nghị luận trước hết phải có cấu trúc cú pháp chuẩn.
Câu thường có đủ thành phần, quan hệ giữa các vế rành mạch. Văn nghị luận
hầu như không sử dụng câu đặc biệt. Văn nghị luận thường sử dụng câu ghép
với những cặp liên từ hô ứng và phụ thuộc.
Ví dụ: tuy nhiên … nhưng, vì … cho, nếu … thì, …
7.3.3.3. Về đoạn văn nghị luận:

Mỗi một luận điểm trong bài văn nghị luận thường được trình bày thành
một đoạn văn. Mỗi đoạn văn nghị luận thường gồm có nhiều câu, các câu có sự
liên kết chặt chẽ với nhau cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều cách để trình
bày nội dung trong một đoạn văn tương ứng với các kiểu lập luận đã nêu ở trên
như: diễn dịch, quy nạp, móc xích, tổng –phân – hợp,… nhưng thông thường
nhất vẫn là đoạn văn tổng – phân – hợp.
Tóm lại ngôn ngữ trong văn nghị luận cần rõ ràng, chính xác trong cách
dùng từ, đặt câu. Nó phải là ngôn ngữ vừa trừu tượng trí tuệ, khái quát vừa cụ
thể trong sáng gợi cảm để thuyết phục, kích thích người đọc, người nghe. Song
ngôn ngữ trong văn nghị luận cần được hấp dẫn, lôi cuốn bằng những từ ngữ có
tính hình tượng và sức biểu cảm bằng sự biến đổi linh hoạt của cách diễn đạt.
7.4. Cách làm một dạng bài cụ thể: Nghị luận xã hội
16


7.4.1.Yêu cầu chung của một bài văn nghị luận xã hội:
Đảm bảo kĩ năng nghị luận nói chung ( dù là một bài văn chỉ có độ dài
khoảng 300,400 từ đến 500,600 từ…): tập trung hướng tới luận đề để bài viết
không tản mạn , có ý triển khai thành những luận điểm chặt chẽ , nhất quán , tìm
được những dẫn chứng xác đáng , giàu sức thuyết phục

Kĩ năng làm bài văn nghị luận
*Kĩ năng tìm hiểu đề:
- Đọc kĩ đề , lưu ý những từ ngữ quan trọng gợi hướng làm bài
- Xác định đúng kiểu bài nghị luận để tránh nhầm lẫn về phương pháp .
- Xác định nội dung nghị luận để tránh lạc đề .
- Xác định phạm vi tư liệu cho bài viết
GV đặc biệt lưu ý kiểu ra đề có mệnh lệnh và không mệnh lệnh,những đề
mở để học HS làm quen vối nhưng yêu cầu mới trong làm văn nghị luận.


* Kĩ năng tìm ý và lập dàn ý
*Kĩ năng dựng đoạn
- Viết đoạn mở bài: cách trực tiếp , cách gián tiếp…
- Viết các đoạn thân bài : Các cách làm trình bày nội dung trong đoạn văn (
diễn dịch , quy nạp , tổng – phân – hợp …) , kĩ năng liên kết đoạn ( sử dụng tư
ngữ , câu để liên kết )
- Viết đoạn kết bài : xây dựng đoạn kết bài tương ứng với mở bài , các
cách kết bài …
* Trong quá trình dựng đoạn , chú ý kĩ năng dùng từ , đặt câu , phát triển
ý để tăng chất văn và độ sâu sắc cho bài viết . Kết hợp các kiến thức giáo viên
cung cấp, các ví dụ minh họa , cần dành thời gian cho HS luyện viết và chấm
chữa , phát huy tính sáng tạo của HS trong làm văn .
- Đảm bảo về kiến thức : đó là những hiểu biết nhất định về chính trị pháp luật , những kiến thức cơ bản về lịch sử , văn hóa , đạo đức,tâm lí – xã hội ,
những tin tức thời sự cập nhật
7.4.2. Yêu cầu cụ thể cho từng dạng bài
7.4.2.1.Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
7.4.2.1.1.Thế nào là nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
Nghị luận về một vấn đề tư tưởng ,đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh
vực tư tưởng , đạo đức , lối sống … của con người .
Yêu cầu về nội dung của bài nghị luận này là phải làm sáng tỏ các vấn đề
tư tương ,đạo lí bằng cách giải thích, chứng minh, so sánh , đối chiếu , phân tích
,...
Để chỉ ra chỗ đúng( hay chỗ sai ) của một tư tưởng nào đó , nhằm khẳng
định tư tương của người viết .
17


Về hình thức, bài viết phải có bố cục 3 phần ; có luận điểm đúng đắn,
sáng tỏ ; lời văn chính xác , sinh động .
Dạng bài này không chỉ có tác dụng giáo dục đạo đức , nhân cách thiết

thực với học sinh mà còn là hình thức luyện tập kĩ năng nghị luận , vận dụng
tổng hợp các thao tác tập luận vào một đề cụ thể . Nếu như bài văn nghị luận về
một hiện tượng đời sống từ việc phân tích sư việc cụ thể mà rút ra những vấn đề
tư tương thì bài nghị luận về một tư tương đạo lí lại đi tư phân tích , giải thích
một tư tưởng đối với đời sống con người.

7.4.2.1.2.Các dạng đề nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
Đặc điểm dạng đề nghị luận về tư tưởng , đạo lí : đối với HS trong nhà
trường phổ thông, do tâm lí lứa tuổi, tầm nhận thức nên những vắn đề đặt ra để
bàn luận không phải là vấn đề quá phức tạp, lớn lao mà chỉ là những khía cạnh
đạo đức, tư tưởng, tình cảm gắn liền với cuộc sống hàng ngày như tình cảm quê
hương, gia đinh, bạn bè, ý thức trách nhiệm, tinh thần học tập, phương pháp
nhận thức…Những vấn đề này đặt ra một cách trực tiếp, nhưng thường là được
gợi mở qua một câu danh ngôn ( tục ngữ, ca dao, câu nói của các bậc hiền triết,
các lãnh tụ, các nhà văn hóa, khoa học, các nhà văn nổi tiếng…)
7.4.2.1.2.1.Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí.
Ví dụ:
Đề 1: Bàn về câu ngạn ngữ “ thời gian là vàng”.
Đề 2: Suy nghĩ của em về tâm sự của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “ Sông vẫn
chảy đời sông, suối vẫn trôi đời suối, sống trên đời cần có một tấm lòng, dù chỉ
là để gió cuốn đi …”
7.4.2.1.2.2.Nghị luận về một quan niệm,một quan điểm về các vấn đề văn
hóa,giáo dục,tôn giáo,tín ngưỡng…
Ví dụ:
Đề 1: ”Trách nhiệm của mỗi dân tộc là thể hiện bản sắc của mình trước
thế giới”
Từ ý kiến của Tago, em hãy trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề giữ gìn
bản sắc dân tộc.
Đề 2: Những tấm lòng cao cả là cuốn sách rất nổi tiếng của nhà văn Étmông-đô Đơ A-mi-xi.Đây là một đoạn trích trong bức thư Thư của bố gửi cậu
con trai En-ri-cô được đặt tiêu dề là Lòng biết ơn:

Bạn Xtac-đi của con không bao giờ than phiền về thầy giáo cả,bố tin chắc
như vậy,”Thầy giáo đang trong cơn nóng nảy”,con đã nói như vậy với một giọng
hằn học.Con hãy nghĩ xem,biết bao nhiêu lần,chính con,con đã nóng nảy.Và
nóng nảy với ai? Với bố con,với mẹ con ,nghĩa là đối với những người mà
những cử chỉ nóng nảy ấy là những tội lỗi lớn.
(Những tấm lòng cao cả - NXB văn học)
18


Em có thể nói gì về lòng biết ơn đối với bố mẹ , thầy (cô) giáo của
mình,những người mà mỗi ứng xử không đúng,mỗi lời nói thiếu suy nghĩ của
em có thể là những tội lỗi lớn.
7.4.2.1.2.3.Nghị luận về phương pháp tư tưởng
Ví dụ:
Đề 1 : Ý nghĩa và bài học rút ra từ câu nói của nhà văn Lép Tôn-xtôi :
“Điều quan trọng không phải là biết quả đất tròn mà là bằng cách nào để biết
quả đất tròn”
Đề 2 : Học ở trường và học từ cuộc sống,cách học nào là quan trọng hơn?
7.4.2.1.3.Cách làm bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí
Đối với dạng đề nghị luận về một tư tưởng,đạo lí,để giải quyết vấn đề ,ta
cần lưu ý cách xem xét nó từ nhiều góc độ . Cách đơn giản nhất là thử đặt ra và
trả lời những câu hỏi.Sau đây là một số dạng câu hỏi chính :
- Nó là gì?
- Nó như thế nào?
- Vì sao lại thế?
- Được thể hiện trong cuộc sống và văn học ra sao?
- Như thế thì có ý nghĩa gì với cuộc sống,với con người ,với bản thân?
Từ việc đặt ra và trả lời các câu hỏi,có thể hình dung một bài văn nghị
luận về một tư tưởng,đạo lí thường triển khai theo 3 bước cơ bản sau :
- Giải thích khái niệm (Từ ngữ,hình ảnh…)

- Phân tích,lí giải
- Bình luận đánh giá
Và phải có bố cục 3 phần đầy đủ
Mở bài : Giới thiệu tư tưởng, đạo lí cần bàn luận,trích dẫn(nếu để bài đưa
ra ý kiến,nhận định)
Thân bài:
* Giải thích khái niệm:
Tùy theo từng yêu cầu cụ thể mà mức độ và cách giải thích co thể sẽ khác
nhau.Chẳng hạn ,với yêu cầu ngạn ngữ Thời gian là vàng ,điều cần giải thích
trước hết là khái niệm Thời gian và Vàng rồi trên cơ sở đó giải thích, cắt nghĩa
nội dung câu ngạn ngữ. Với lời dạy của Phật “ Giọt nước chỉ hòa vào biển cả
mới không cạn mà thôi” trước hết cần xác định nghĩa đen của các từ giọt nước,
biển cả, không cạn rồi suy luận ra nghĩa bóng. Với quan điểm của Trịnh Công
Sơn: “ Sông vẫn chảy đời sông, suối vẫn trôi đời suối, sống trên đời cần có một
tấm lòng, dù chỉ là đẻ gió cuốn đi…” cần lần lượt giải thích các mệnh đề, các
hình ảnh Sông vẫn chảy đời sông, suối vẫn trôi đời suối,tấm lòng, cần có tấm
lòngđể gió cuốn đi để trên cơ sở đó xác định chính xác nội dung thông điệp
được gửi gắm trong câu nói.
19


Có những đề bài, khâu giải thích có thể làm gọn gàng, đơn giản nhất là
khi trong yêu cầu, nhận định không có những khái niệm phức tạp, khó hiểu hay
những hình ảnh có khả năng khơi gợi những tư tưởng sâu xa.Thế nhưng lại có
những đề bài khâu giải thích cần làm rất công phu. Chẳng hạn với quan niệm về
ý nghĩa của việc đọc sách”Đọc là biến đi khỏi thế giới. Đọc là tìm lại thế giới.
Đọc là còn lại một mình với cả thế giới trong tay” có rất nhiều các mệnh đề cần
giải thích. Nếu không giải thích tường tạn những mệnh đề đó sẽ không xác định
nổi ý nghĩ, phạm vi ý nghĩ trong quan điểm về ý nghĩa của việc đọc sách.
* Phân tích, lí giải:

Bản chất của thao tác này là giảng giải nghĩa lí của vấn đề được đặt ra để
làm sáng tỏ bản chất vấn đề cùng các khía cạnh, các mối quan hệ của nó. Phần
này thực chất là trả lời câu hỏi: Tại sao? Vì sao?
Để làm được việc này, chúng ta cần tách vấn đề thành các khía cạnh nhỏ
để xem xét, nghiên cứu. Cách đơn giản nhất là đặt ra các câu hỏi để khảo sát tìm
hiểu. Muốn đặt ra các câu hỏi thật sự cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu của
đề, cần làm thật tốt khâu giải thích để xác định chính xaxc vấn đề mà đề bài đặt
ra trong câu thơ của Tố Hữu: “ Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn” thì sau khi giải
thích để xác định được sống đẹp là lối sống tích cực, là lối sống cao cả mà con
người luôn hướng tới, chúng ta có thể hướng dẫn học sinh đặt ra những câu hỏi
sau:
- Sống đẹp là sống có lí tưởng như thế nào?
- Sống đẹp là sống có những phẩm chất gì?
- Sống đẹp là sống có quan hệ như thế nào với mọi người? …
Với những câu hỏi đó, cho học sinh thấy rõ những khía cạch sau: Sống
đẹp là sống tích cực xuất phát từ lòng nhân ái, bao dung, vị tha và biết tha thứ,
biết hướng thiện. Sống đẹp là sống có lí tưởng, hoài bão và ước mơ và bằng
nghị lực, bằng ý chí, kiên định phấn đấu đạt ước mơ đó. Sống đẹp là sống trung
thực, trong sáng, giản dị và mạnh khỏe. Sống đẹp dám đương đầu với khó khăn
thử thách, hi sinh, không sợ hiểm nguy, không sợ thất bại, không sơ đấu tranh.
Sống đẹp thực sự hòa mình với mọi người, sống có ích cho mình, cho đời với
nguyện ước làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn. Sống đẹp luôn lạc quan
yêu đời, tin tưởng vào ngày mai tươi sáng để vượt lên tự hoàn thiện, trở thành
người có ích, sống có ích.
* Bình luận đánh giá:
Đây là phần việc học sinh bộc lộ nhận nhức về vấn đề ở mức độ cao nhất,
cũng là phần việc khó khăn nhất. Vì vậy, trước hết cần phải đánh giá vấn đề ở
các bình diện, khía cạnh khác nhau: Ý nghĩa tư tưởng, ý nghĩa thực tế, mức độ
đúng- sai, đóng góp – hạn chế … Từ sự đánh giá trên các bình diện, hướng dẫn
học sinh nhìn nhận giá trị của vấn đề như một bài học kinh nghiệm trong cuộc

sống cũng như trong học tập, trong nhận thức cũng như trong tình cảm, tư
tưởng của mình để bồi đắp, nâng cao kinh nghiệm sống, kinh nghiệm ứng xử
20


trong cuộc sống. Ngoài ra, tùy theo yêu cầu và tính chất cụ thể của từng đề bài
mà học sinh có thể bổ sung thêm bớt các phần khác nhau: liên hệ, mở rộng; rút
ra bài học. Phần này nên có trong những đề bài đề cập đến những vấn đề gắn
liền hoặc gần gũi với đời sống của lứa tuổi học sinh. Ví dụ: Phương pháp học
tập, tích lũy kiến thức, quan hệ bạn bè, cách sống và cách ứng xử… Ở những đề
bài như thế, việc liên hệ, mở rộng cũng chứng tỏ mức độ hiểu và khả năng cảm
nhận vấn đề của học sinh. Chẳng hạn quay trở lại với quan niệm của Tố Hữu “
Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn” thì ở phần này cần nêu những nội dung sau:
- Khẳng định đây là quan niệm sống đúng đắn, cao đẹp.
- Phê phán những quan niệm chưa đúng về lối sống của thanh niên: thiếu
lí tưởng, không hoài bão, ham vui chơi hoặc lạc thú,sống lạc điệu, thác loạn
trong tình ái và nghiện ngập. Không ít học sinh quên học tập, tu thân, sống thu
mình, ngại gian khổ,hèn nhát và bi quan...
- Liên hệ nhận thức và hành động: hiểu đúng về lối sống đẹp, thực hiện
nhiệm vụ và quyết tâm học tập rèn luyện trở thành người sống có ích.
Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề
- Tóm lại, mô hình ý và bố cục bài viết này chỉ là một cách trong khi triển
khai có thể linh hoạt đề xuất ra nhiều ý và bố cục khác miễn làlàm sáng tỏ được
vấn đề và có sức thuyết phục cao.
7.4.2.2.Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống
7.4.2.2.1.Thế nào là nghị luận về môt sự việc, hiện tượng đời sống.
Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống xã hội là bàn về một sự
việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề
đáng suy nghĩ.

Yêu cầu về nội dung của bài nghị luận này là phải nêu rõ được sự việc,
hiện tượng có vấn đề; phân tích mặt sai, mặt đúng, mặt lợi, mặt hại của nó; chỉ
ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến nhận định của người viết.
Về hình thức, bài viết phải có bố cục mạch lạc; có luận điểm rõ ràng, luận
cứ xác thực, phép lập luận phù hợp; lời văn chính xác, sống động.
7.4.2.2.2. Các dạng đề nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
7.4.2.2.2.1. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng liên quan đến môi
trường sống tự nhiên của con người như: "Trái đất sẽ ra sao nếu thiếu đii màu
xanh của những cánh rừng".
7.4.2.2.2.2. Nghị luận về một sự việc hiện tượng liên quan đến đời sống
xã hội như: "Ô nhiễm môi trường: không phải chỉ có ở thành phố" hay "Tuổi trẻ
học đường suy nghĩ và góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông"
7.4.2.2.2.3. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống tích cực đáng
biểu dương hoặc tiêu cực đáng phê phán như Game online: tốn thời gian và vô
bổ, bạn nghĩ sao? hay: Đất nước ta có nhiều tấm gương học sinh nghèo vượt
21


khó, học giỏi. Em hãy nêu một số tấm gương đó và trình bày những suy nghĩ
của mình.
7.4.2.2.3. Cách làm bài văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống.
Mở bài:
Giới thiệu sự việc, hiện tượng cần bàn luận.
Thân bài:
* Giới thiệu thực trạng
Trước hết cần nhận diện hiện tượng ấy ( sự việc, con người): các biểu
hiện, các dạng tồn tại, thậm chí cần cả những số liệu cụ thể. Thực hiện thao tác
này đòi hỏi học sinh một sự hiểu biết và quan tâm đến các vấn đề đang tồn tại
trong đời sống xã hội hiện nay. Nghĩa là không phải đợi tới lúc nhận đề bài mới
tìm hiểu mà học sinh cần có sự chuẩn bị trước bằng sự chú ý nghe ht[ì sự hàng

ngày, cập nhật thông tin về các vấn đề trong nước cũng như quốc tế. Tất nhiên
đó là những hiện tượng đặt ra các vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, tạo ra sự ảnh hưởng
rộng và thường là ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng và cuộc sống của
chính lứa tuổi học sinh: ô nhiễm môi trường, an toàn giao thông, các căn bệnh
xã hội như HIV/AIDS, các tệ nạn như nghiện ma túy, các thói quen xấu như ham
Internet, hút thuốc lá, quay cóp tron giờ kiểm tra...hay những tấm gương hiếu
thảo vượt khó của thanh thiếu niên... Khi phản ánh thực trạng cần đưa ra những
con số, những thông tin sẽ tạo ra sức thuyết phục cho những ý kiến đánh giá sau
đó.
* Phân tích và bình luận nguyên nhân – kết quả (hậu quả)
Sau khi xác định rõ thực trạng cần phân tích hiện tượng ở các mặt nguyên
nhân, hậu quả và cố gắng tìm các giải pháp để giải quyết thực trạng đó. Khi
phân tích cần có sự tỉnh táo để phân tích với một lập trường tư tưởng vững vàng,
không chạy theo dư luận không chính thống mà dẫn tới chủ quan khi phân tích,
đánh giá hiện tượng. Lưu ý khi phân tích nguyên nhân nên chú ý tới các mặt
khách quan – chủ quan. Chẳng hạn, với hiện tượng tai nạn giao thông thì nguyên
nhân khách quan là do hệ thống giao thông còn nhiều bất cập ( cách phân luông,
phân tuyến, hệ thống biển báo, chỉ dẫn, chất lượng của các phương tiện tham gia
giao thông…) nguyên nhân chủ quan là người tham gia giao thông chưa ý thức
đầy đủ trách nhiệm, chưa nắm vững luật pháp, chưa chú ý đúng mức tới vấn đề
an toàn… Khi đánh giá hậu quả cần xem xet ở phạm vi cá nhân – cộng đồng,
hiện tại – tương lai … ví dụ như hiện tượng nghiện Internet không chỉ làm hao
tổn sức lực, tiền của, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách cá nhân mà còn
tạo mần mống cho những bất ổn trong xá hội.
* Đề xuất giải pháp
Sau khi phân tích và bình luận nguyên nhân – kết quả, thường là phần nêu
đề xuất giải pháp khắc phục. Trước hết cần xem lại nguyên nhân vì chính nó là
gới ý tốt nhất để tìm ra giải pháp khắc phục. Chẳng hạn như nguyên nhân của tai
nạn giao thông là do người tham gia giao thông chưa có ý thức trách nhiệm,
22



chưa nắm vững luật pháp và chưa chú ý đến sự an toàn thì một trong những giải
pháp có thể thực hiện là tuyên truyền, giáo dục về an toàn giao thông, xây dựng
chế tài xử phạt đối với những trường hợp vi phạm an toàn giao thông…
Kết bài
Khẳng định vấn đề
Tóm lại, bài văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống cần là sự bộc
lộ vốn hiểu biết và lập trường, thái độ của người viets về sự việc, hiện tượng
được nêu. Vì vậy, bên cạnh việ nắm vững các bước cơ bản trong quá trình làm
bài, học sinh cần thể hiện tiếng nói cá nhân và quan điểm đánh giá thật rõ rang,
sắc sảo thì bài viết mới có sức thuyết phục.
7.5. Kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tài
* Kết quả thực sau khi thực hiện chuyên đề ở học sinh lớp 9 Trường
THCS:
Học sinh đại trà:
Năm
học

20162017

S

H
S
44

Kết quả
Giỏi


5

Khá

TB

%

T
S

%

TS

11

25

56,8 14

Yếu
%

T
S

32.2

0


%

PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã học hỏi, áp dụng và viết ra
trong quá trình dạy học. Những gì tôi đã trình bày, thực ra ai ai cũng biết, ai ai
cũng làm và cũng đã đạt những kết quả tốt nhưng tôi vẫn muốn nó hoàn thiện
hơn nên mạo muội viết ra. Rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của quý thầy
cô và các bạn đồng nghiệp cho bài viết này của tôi.
2. Kiến nghị
Môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng hiện nay
đang bị sao nhãng do cơ chế thị trường. Vì vậy tôi mong muốn các cấp ngành
quan tâm tổ chức các sân chơi bổ ích như: Sáng tác thơ, đóng kịch dựa theo các
đoạn trích học trong chương trình... giúp các em vừa hiểu biết về kiến thức văn
học vừa rèn luyện được kĩ năng cảm thu thơ văn.
7.2. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG SÁNG KIẾN:
Trong việc rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh giáo viên cần
hướng dẫn các em linh hoạt áp dụng để nhận diện các dạng bài nghị luận và cụ
23


thể là bài nghị luận xã hội. Trong mỗi bài kiểm tra, bài thi khi chấm bài giáo
viên cần chú ý đến các kĩ năng lập luận của học sinh.
8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Đối với giáo viên:
+ Phải có trình độ chuyên môn vững, lòng nhiệt tình say mê nghiên cứu.
Sử dụng phương pháp dạy học một cách tích cực và có hiệu quả.
+ Phải tạo hứng thú học tập cho học sinh trong mỗi bài học, tiết học để

các em có lòng say mê yêu thích bộ môn.
- Đối với học sinh:
+ Các em phải mạnh dạn học tập.
+ Các em phải rèn cho mình tính tự học, tự tìm tòi nghiên cứu, hứng thú
say mê, chủ động trong học tập.
+ Các em phải có kĩ năng quan sát, phân tích và vận dụng các kiến thức
đã học một cách thành thạo vào các tình huống cụ thể.
10. Đánh giá kết quả thu được do áp dụng sáng kiến:
- Trong những năm được công tác và giảng dạy tại trường THCS,tôi nhận
thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại hiệu quả cao hơn, học
sinh học tập sôi nổi hơn, các em yêu thích môn học hơn.
- Học sinh có khả năng tự tìm tòi, nghiên cứu, tham khảo để tìm ra câu trả lời
từ một chủ đề, hoặc nội dung trọng tâm của bài.
- Giáo viên có điều kiện bồi dưỡng học sinh giỏi. Từ đó rút ngắn được thời
gian kiểm tra phần thực hành của học sinh dành thời gian cho những hoạt động
khác.
- Dưới sự dẫn dắt gợi ý của giáo viên ở tiết học trước học sinh phải biết tuân thủ
thành thói quen việc chuẩn bị bài ở nhà để tiết học tiếp theo đạt hiệu quả cao.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã tìm tòi tham khảo và áp dụng
vào việc dạy học của mình cho học sinh ở trường THCS. Tôi nhận thấy rằng các
em học sinh đã thực sự tích cực chủ động hơn. Vậy nên trong quá trình dạy học,
giáo viên cần cố gắng áp dụng các phương pháp một cách linh hoạt sao cho phù
hợp với nội dung bài và phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên
cũng cần khéo léo sử dụng các thủ thuật kích thích hứng thú học tập của học
24


sinh và giúp cho các em học tập có kết quả hơn. Những kinh nghiệm của tôi
không phải là tất cả, tuy nhiên nó giúp rất nhiều cho bản thân tôi cũng như học
sinh của tôi trong việc dạy và học bộ môn Ngữ văn. Tôi tin chắc rằng sẽ còn có

ngày càng nhiều sáng kiến hay hơn, bổ ích hơn những gì chúng tôi làm được. Từ
thực tế hiện nay, chúng tôi nghĩ rằng mỗi giáo viên cần nhiệt tình hơn nữa trong
giảng dạy, và đặc biệt là tìm ra nhiều giải pháp, cách dạy hay giúp học sinh sinh
của chúng ta cảm thấy thoải mái và tự tin hơn trong học tập hàng ngày. Một sáng
kiến rất nhỏ đối với giáo viên nhưng lại là phương tiện hữu ích cho học sinh sử
dụng suốt trong quá trình học tập của các em về sau này. Sáng kiến này chỉ là
một số giải pháp trong nhiều giải pháp để năng cao chất lượng học sinh giỏi ở
trường THCS, tôi đã thông qua tổ chuyên môn của trường, trình hội đồng trường
THCS.
11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu
Số
TT

1

Tên tổ
chức/cá
nhân
Lớp 9

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

Trường THCS

Rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học
sinh lớp 9


Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

..........., tháng 10 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết không sao chép của người khác.

25


×