Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Nâng cao hiệu quả dạy học biện pháp tu từ so sánh trong phân môn luyện từ và câu nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.06 KB, 40 trang )

PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỒNG TĨNH A
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: Nâng cao hiệu quả dạy học biện pháp tu từ so sánh trong
phân môn Luyện từ và câu nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh
lớp 3.
Tác giả sáng kiến: Trần Thị Loan

Tam Dương, năm 2018


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Trong cuộc sống hàng ngày, khi trò chuyện, giao tiếp với những người xung
quanh ta vẫn hay sử dụng hình thức so sánh để câu nói thêm phần thuyết phục
như: Hoa cao hơn mẹ, Mưa như trút nước, Đường trơn như bôi mỡ… Trong kho
tàng thành ngữ, tục ngữ Việt Nam từ lâu đã tồn tại nhiều thành ngữ, tục ngữ
dưới dạng so sánh như: Xấu như ma, Đen như cột nhà cháy, … Chắc hẳn không
ai trong chúng ta lại chưa một lần sử dụng biện pháp so sánh.
So sánh là “cách nói” rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như
trong sáng tạo văn chương. Nhờ phép so sánh, người nói, người viết có thể gợi ra
những hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh, đẹp đẽ cho người nghe,
người đọc. So sánh được coi là một trong những phương thức tạo hình gợi cảm
hiệu quả nhất, có tác dụng lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển
trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Mặt
khác nó còn làm cho tâm hồn và trí tuệ của con người thêm phong phú, giúp con


người cảm nhận văn học và cuộc sống một cách tinh tế, sâu sắc hơn.
Xuất phát từ vai trò và tác dụng của biện pháp tu từ so sánh, từ mục tiêu của
môn Tiếng Việt ở tiểu học, ngay từ các lớp đầu cấp, các bài học của sách giáo khoa
đã đưa vào khá nhiều hình ảnh so sánh. Tuy nhiên phải đến lớp 3, học sinh mới chính
thức được học về biện pháp tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu.
Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 đã giới thiệu sơ bộ về biện pháp tu từ so sánh,
hình thành những hiểu biết và kĩ năng ban đầu về so sánh cho học sinh thông
qua các bài tập thực hành. Từ đó giúp học sinh cảm nhận được cái hay của một
số câu văn, câu thơ và vận dụng biện pháp so sánh vào quan sát sự vật, hiện
tượng xung quanh và thể hiện vào bài tập làm văn được tốt hơn. Mặt khác, việc
dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3 còn là một cách chuẩn bị dần để
các em sử dụng thành thạo hơn biện pháp tu từ này khi làm các bài văn kể
chuyện, miêu tả ở lớp 4, lớp 5.
Thế kỉ XXI, thế giới đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trong lĩnh
vực giáo dục, tốc độ phát triển tri thức nhân loại ngày càng tăng với tốc độ
chóng mặt. Vì vậy, mô hình giáo dục ở nhà trường phổ thông theo hướng tiếp
cận nội dung không còn phù hợp nữa.

2


Giáo viên và học sinh trong thời đại hội nhập và toàn cầu hoá đang chịu
nhiều sức ép và thách thức lớn mang tính thời đại; theo đó, giáo dục buộc phải
thay đổi cách tiếp cận từ nội dung sang tiếp cận năng lực để sản phẩm của đào
tạo là học sinh phải “biết làm”, nghĩa là mang tính ứng dụng cao.
Thế kỉ XXI, tri thức đến với học sinh từ nhiều nguồn đa dạng, phong phú;
học sinh có thể tự học nếu biết được cách học. Giáo viên ở thế kỉ này phải có
năng lực hướng dẫn học sinh, để học sinh tự tìm tòi lấy nội dung cần học và áp
dụng vào thực tiễn không ngừng thay đổi. Vì vậy, đào tạo năng lực cho người
học là mục tiêu cao nhất và cần thiết để người học có thể khẳng định được mình

trong cộng đồng phức tạp, đa dạng và đổi thay, tạo ra thích ứng cao với mọi
hoàn cảnh.
Quay trở lại với vấn đề giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 3 phần
biện pháp tu từ so sánh. Trong thực tế, giáo viên và học sinh lớp 3 còn gặp nhiều
khó khăn khi dạy học về biện pháp tu từ so sánh, hiệu quả giảng dạy về biện
pháp tu từ so sánh chưa cao. Học sinh lớp 3 nhận biết được các hình ảnh so sánh
nhưng việc vận dụng kiến thức về biện pháp so sánh vào nói, viết còn nhiều hạn
chế. Đặc biệt việc dạy về biện pháp tu từ so sánh làm sao để học sinh phát triển
được năng lực sáng tạo là vấn đề còn chưa được chú trọng đúng mức. Giáo viên
còn lúng túng khi lựa chọn các biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu cách so
sánh và tác dụng của so sánh. Việc đánh giá kĩ năng sử dụng biện pháp tu từ so
sánh của học sinh cũng chưa có những tiêu chí cụ thể, nhiều khi sự đánh giá của
giáo viên còn mang tính chủ quan, cảm tính.
Xuất phát từ những lí do trên, qua kinh nghiệm thực tế giảng dạy của mình,
tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và ứng dụng sáng kiến: “Nâng cao hiệu quả dạy
học biện pháp tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu nhằm phát triển
năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3.”
2. Tên sáng kiến: Nâng cao hiệu quả dạy học biện pháp tu từ so sánh
trong phân môn Luyện từ và câu nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh
lớp 3.
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Trần Thị Loan
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Đồng Tĩnh B – Tam Dương –
Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0976733413;
- E- mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Loan
3



5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến của tôi là phương pháp dạy học biện pháp tu
từ so sánh cho học sinh lớp 3. Sáng kiến giúp hình thành những hiểu biết ban
đầu và rèn luyện kĩ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3.
Đồng thời giải quyết những khó khăn của giáo viên tiểu học về nâng cao hiệu
quả dạy học biện pháp tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu nhằm phát
triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Tháng 9/2017
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
7.1.1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
7.1.1.1. Cơ sở lí luận
a) Biện pháp tu từ so sánh
So sánh tu từ (còn gọi là so sánh hình ảnh) là một biện pháp tu từ trong đó
người ta đối chiếu hai hay nhiều sự vật, sự việc với nhau mà giữa chúng có
những nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn.
Ví dụ 1: Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng.
Cần phân biệt so sánh tu từ và so sánh logic. So sánh logic là một biện
pháp nhận thức trong tư duy của con người, là việc đặt hai hay nhiều sự vật, hiện
tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra các sự giống nhau và khác
biệt giữa chúng.
Ví dụ 2: Hồ này rộng hơn cái đầm ở làng.
Ở ví dụ thứ nhất, “bà” được ví như “quả ngọt” đã chín, bà càng có tuổi thì
tình cảm của bà càng sâu sắc, càng ngọt ngào như quả chín trên cây. Với sự so
sánh này, người cháu đã thể hiện được tình cảm yêu thương, quý trọng của mình
đối với bà. Còn ở ví dụ thứ hai, cách so sánh lại dựa trên tính đồng nhất, đồng
loại của sự vật, hiện tượng và mục đích của sự so sánh là xác lập sự tương
đương giữa hai đối tượng.
Như vậy, so sánh tu từ khác so sánh logic ở tính hình tượng, tính biểu cảm

và tính dị loại của sự vật. Nếu như giá trị của so sánh logic là xác lập sự tương
đương giữa hai đối tượng thì giá trị của so sánh tu từ là ở sự liên tưởng, sự phát

4


hiện và gợi cảm xúc thẩm mĩ ở người đọc, người nghe. Ở tiểu học, ta đang dạy
học sinh so sánh tu từ này (sau đây gọi là biện pháp tu từ so sánh).
b) Việc dạy học biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3
Mục tiêu của việc dạy biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3 là rèn luyện kĩ
năng. Thông qua việc giải bài tập, học sinh chỉ ra được hình ảnh, nhân vật hoặc
chi tiết được sử dụng trong bài đồng thời hiểu được tác dụng của biện pháp tu từ
so sánh.
Ngoài việc nắm được dấu hiệu và hiểu được giá trị biểu cảm của biện pháp
tu từ so sánh, chương trình còn yêu cầu học sinh biết vận dụng so sánh tu từ vào
việc nói, viết, như biết dùng những hình ảnh so sánh sinh động trong giao tiếp,
trong làm văn hay khi kể lại một câu chuyện mà các em được nghe, được đọc.
Mặc dù những kiến thức về so sánh được dạy cho học sinh lớp 3 còn ở
mức độ sơ giản song thông qua đó chương trình còn muốn bước đầu trang bị cho
học sinh những cách nói, cách nhìn giản dị mà sâu sắc, tinh tế về đời sống, văn
hoá, văn học của con người Việt Nam. Từ đó góp phần hình thành và phát triển
tư tưởng, tình cảm và nhân cách của học sinh.
Nội dung dạy biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3 có những loại bài tập sau:
Loại 1: Bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh:
Trong loại bài tập này, có các dạng sau:
Dạng 1: Tìm những sự vật được so sánh với nhau
Dạng 2: Tìm những hình ảnh so sánh
Dạng 3: Tìm các từ so sánh
Dạng 4: Tìm các đặc điểm so sánh
Loại 2: Bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh

Ở loại bài tập này có hai dạng nhỏ:
Dạng 1: Bài tập nhận biết tác dụng của biện pháp tu từ so sánh
Dạng 2: Bài tập đặt câu có hình ảnh so sánh.
Như vậy, qua nghiên cứu nội dung chương trình dạy biện pháp tu từ so
sánh ở lớp 3, tôi thấy 3 điểm như sau: Thứ nhất, nội dung dạy học phù hợp với
trình độ nhận thức của học sinh. Thứ hai, chương trình đã cung cấp những kiến

5


thức cơ bản về biện pháp tu từ so sánh. Thứ ba, nội dung về biện pháp tu từ so
sánh được xây dựng theo quan điểm tích hợp.
7.1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Nội dung về dạy học biện pháp tu từ so sánh trong Tiếng Việt là một nội
dung phong phú và khá phức tạp.
Có nhiều phương pháp dạy học tiếng việt có thể áp dụng để dạy biện pháp
tu từ so sánh như phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp làm mẫu,
phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp trò chơi tiếng Việt,… Tuy nhiên,
mỗi phương pháp lại có những đặc trưng riêng nên đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt
và sáng tạo của giáo viên tiểu học.
Để tìm hiểu thực trạng việc dạy học biện pháp tu từ so sánh, tôi đã xây
dựng phiếu điều tra 225 giáo viên tiểu học ở huyện Tam Dương . Sau khi xử lí số
liệu, tôi đã thu được kết quả như sau:

Mức độ
TT

Nội dung điều tra

Rất thành

thạo

Thành
thạo

Chưa
thành
thạo

1

Xác định mục đích của việc dạy biện
pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3

81

93

51

2

Nắm mức độ, nội dung chương trình
của từng bài

3

Xác định phương pháp, phương tiện
dạy học và các hình thức tổ chức dạy
học phù hợp với nội dung từng bài dạy


4

Xây dựng quy trình dạy học của một
tiết dạy biện pháp tu từ so sánh cho
học sinh lớp 3

5

Thiết kế hệ thống bài tập giúp học
sinh chiếm lĩnh kiến thức

6

Kiểm tra đánh giá khả năng nhận diện
và vận dụng biện pháp tu từ so sánh

(36%)
39
(17,33%)
45
(20%)

(41,33%) (22,67%)
116

70

(51,56%) (31,11%)
89


91

(39,56%) (40,44%)

53

90

82

(23,56%)

(40%)

(36,44%)

31

66

128

(13,78%)
48
(21,33%)

(29,33%) (56,89%)
97


80

(43,11%) (35,56%)

6


Qua điều tra, tôi nhận thấy nhìn chung giáo viên đã nắm được mục đích
của việc dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh, biết sử dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh,
biết phối hợp nhiều hình thức dạy học để tổ chức các hoạt động học tập giúp học
sinh tự tin và bộc lộ được năng lực của mình. Một số giáo viên biết sử dụng linh
hoạt các phương tiện dạy học giúp các em tiếp cận với biện pháp tu từ so sánh
một cách dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, một số giáo viên còn lúng túng khi xác định phương pháp dạy
học vì đặc trưng phân môn Luyện từ và câu nói chung và phần dạy về biện pháp
tu từ so sánh nói riêng ở lớp 3 không có những bài học, những phần của bài học
dạy riêng kiến thức về tu từ. Phương pháp dạy học các bài về phép tu từ so sánh
tập trung vào việc tổ chức các hoạt động hoc tập mang tính thực hành là chính.
Đặc biệt việc phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh còn chưa được chú trọng.
Nhìn chung, việc dạy biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3 hiện nay còn nhiều
hạn chế. Điều đó đã ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh.
Qua tìm hiểu, tôi nhận thấy kết quả dạy học biện pháp tu từ so sánh ở lớp
3 hiện nay chưa đạt yêu cầu do những nguyên nhân sau đây :
- Vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế,
- Tài liệu tham khảo, mở rộng kiến thức cho giáo viên và học sinh chưa nhiều.
- Biện pháp tu từ so sánh là một nội dung mới đưa vào chương trình nên giáo
viên chưa có kinh nghiệm trong việc lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học.
Tóm lại, hiện nay, thực trạng dạy học về biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3
đang có nhiều vấn đề cần quan tâm và giải quyết như:

Về phía giáo viên: Kiến thức về phong cách học của giáo viên còn hạn
chế. Giáo viên chưa biết vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy
học nên kết quả học tập của học sinh chưa cao. Bên cạnh đó, giáo viên phần lớn
chỉ chú trọng đến việc dạy cho học sinh cách nhận diện biện pháp so sánh mà
chưa quan tâm nhiều đến việc dạy học sinh cách cảm nhận và vận dụng các kiến
thức về so sánh vào việc nói và viết. Giáo viên chưa biết tích hợp lồng ghép
trong quá trình dạy các phân môn Tiếng Việt với nhau. Giáo viên chưa chú trọng
nâng cao năng lực sáng tạo cho học sinh thông qua việc dạy học biện pháp tu từ
so sánh.

7


Về phía học sinh: Do khả năng tư duy của các em còn dừng lại ở mức độ
tư duy đơn giản, trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn
chế. Vốn kiến thức văn học của học sinh còn nghèo. Bên cạnh đó, năng lực nhận
thức của một số em còn yếu nên các em còn mắc một số lỗi như về nhận diện
biện pháp so sánh, lỗi về cách cảm thụ và vận dụng các hình ảnh so sánh vào bài
làm của mình.
7.1.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy biện pháp tu từ so
sánh nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3
Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh nắm được cấu trúc của một hình ảnh so
sánh bằng thao tác phân tích - tổng hợp. (Áp dụng với dạng bài tập nhận biết)
Ví dụ: Tìm hình ảnh so sánh trong câu sau: Mặt biển sáng trong như tấm
thảm khổng lồ bằng ngọc thạch.
Tôi đã cho học sinh phân tích hình ảnh so sánh trong câu trên qua bảng sau:
Yếu tố 1

Yếu tố 2


Yếu tố 3

Yếu tố 4

Sự vật 1

Đặc điểm so sánh

Từ so sánh

Sự vật 2

Mặt biển

sáng trong

như

tấm thảm khổng lồ

Sau khi học sinh phân tích đề và nắm chắc yêu cầu của đề bài, tôi hướng dẫn
học sinh nắm cấu trúc của một hình ảnh so sánh đầy đủ qua hệ thống câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Trong câu trên, các sự vật nào được so sánh với nhau? (Mặt biển và
tấm thảm) Giáo viên cho học sinh dùng bút chì gạch chân dưới các sự vật
được so sánh với nhau và điền vào bảng ở cột sự vật 1 và cột sự vật 2 (yếu tố 1
và yếu tố 4)
Câu hỏi 2: Tại sao mặt biển và tấm thảm lại được đem ra so sánh với nhau? (Vì
hai sự vật này có điểm giống nhau)
Câu hỏi 3: Các sự vật đó giống nhau về đặc điểm gì? (đặc điểm sáng trong)
Như vậy, giữa hai sự vật khác loại, khi muốn so sánh chúng với nhau ta cần

tìm ra điểm tương đồng (điểm giống nhau, dấu hiệu chung) giữa chúng. Đây
chính là đặc điểm so sánh –yếu tố 2.
Câu hỏi 4: Từ ngữ nào thể hiện sự so sánh? (Như) Đây là yếu tố 3.

8


Sau khi học sinh phân tích được 4 yếu tố của một hình ảnh so sánh, tôi cho học
sinh tổng hợp lại thành hình ảnh so sánh: Mặt biển sáng trong như tấm thảm
khổng lồ bằng ngọc thạch.
Như vậy, bằng thao tác phân tích-tổng hợp, học sinh đã nắm được cấu trúc của
một hình ảnh so sánh hoàn chỉnh gồm 4 yếu tố:
Yếu tố 1: yếu tố được (hoặc bị) so sánh.
Yếu tố 2: yếu tố chỉ tính chất của sự vật hay trạng thái của hành động, có vai trò
nêu rõ phương diện so sánh (ở tiểu học, ta gọi đơn giản là đặc điểm so sánh)
Yếu tố 3: yếu tố thể hiện quan hệ so sánh.
Yếu tố 4: yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh.
Qua đó, học sinh dễ dàng làm được các dạng bài tập sau:
Dạng 1: Tìm những sự vật được so sánh với nhau
Dạng 2: Tìm những hình ảnh so sánh
Dạng 3: Tìm các từ so sánh
Dạng 4: Tìm các đặc điểm so sánh
Các dạng bài tập này chiếm đa số trong chương trình. Các yếu tố 1 và yếu
tố 2 có thể là 1 trong 4 mô hình sau:
A) Mô hình 1: So sánh: Sự vật - Sự vật.
B) Mô hình 2: So sánh: Sự vật - Con người.
C) Mô hình 3: So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
D) Mô hình 4: So sánh: Âm thanh - Âm thanh.
Muốn học sinh của mình có một kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh
vững vàng đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn bài mới.

Dựa vào các mô hình như ta vừa phân tích.
A. Mô hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật
Mô hình này cách nhận dạng rất dễ vì trong câu thường xuất hiện các từ so
sánh (như, là, giống, tựa, chẳng bằng...)
Mô hình này có các dạng sau: A như B; A là B; A chẳng bằng B.
a) Tìm hiểu dạng: A như B

9


Dạng này đã xuất hiện ở các bài tập đầu tiên của chương trình và xuyên
suốt đến cuối chương trình Tiếng Việt 3.
* Ví dụ: Bài 2 (SGK trang 8): Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu
văn dưới đây:
"Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành"
(Huy Cận)
"Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"
(Vũ Tú Nam)
"Cánh diều như dấu á
Ai vừa tung lên trời"
(Phạm Như Hà)
Để làm tốt bài tập này, học sinh phải phát hiện các từ chỉ sự vật được so sánh.
Từ đó học sinh sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên.
Có 2 phương án
Phương án 1: Gạch chân các từ chỉ sự vật so sánh trong các câu trên bằng bút
chì vào SGK.
Phương án 2: Giáo viên phát phiếu học tập nhóm đôi. Các nhóm điền vào phiếu
Câu


Sự vật 1

Từ so sánh

Sự vật 2

a)

Hai bàn tay em

như

hoa đầu cành

b)

Mặt biển

như

tấm thảm khổng lồ

c)

Cánh diều

như

dấu “ á”


Học sinh trình bày :
+ "Hai bàn tay em" được so sánh với "hoa đầu cành"
+ "Mặt biển" được so sánh với "tấm thảm khổng lồ".
+ "Cánh diều" được so sánh với "dấu á"
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với
"Hoa đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó
10


giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào
giống nhau, chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
(Giáo viên có thể vẽ lên bảng "Cánh diều" và "Dấu á")
b)Tìm hiểu dạng: A là B: Dạng này học sinh rất dễ nhầm lẫn giữa câu so sánh
với câu giới thiệu. Bởi lẽ, cả 2 kiểu câu này đều có từ “là”
Ví dụ :(Bài 1c, d trang 24,25): Tìm các hình ảnh so sánh trong câu :
c/ Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh.
Mùa hè
Trời là cái bếp lò nung.
d/ Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng.
Trong trường hợp này, cần phải cho học sinh xác định từ chỉ sự vật trong
câu thơ: (trời mùa đông – tủ ướp lạnh), (trời mùa hè – bếp lò nung)
Giáo viên giải thích cho học sinh điểm tương đồng giữa các từ chỉ sự vật được
so sánh.
- Trời mùa đông lạnh như cái tủ ướp lạnh.
- Trời mùa hè nóng như bếp lò nung.
Trong câu: Mẹ tôi là giáo viên (từ là có tác dụng giới thiệu. Trong trường

hợp này, học sinh phải hiểu nghĩa của từ và của câu )
B. Mô hình 2: So sánh: Sự vật - Con người
Dạng của mô hình so sánh này là:
a) Dạng A như B:

+ A có thể là con người.
+ B sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh.

Ví dụ: Bài tập 1/trang 58: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây:
"Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan"
11


(Hồ Chí Minh)
"Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng".
(Võ Thanh An)
Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm được sự vật so sánh với con
người nhưng các em chưa giải thích được"Vì sao?". Chính vì điều đó giáo viên
cần giúp học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn:
"Trẻ em" giống như "búp trên cành". Vì đều là những sự vật còn tươi non đang
phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hi vọng.
"Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" đều phát triển đến
độ già dặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng.
b) Dạng A là B:
Ví dụ: Bài tập 1/trang 42,43 (phương pháp dạy như mô hình 1)
"Ông




Sự vật 1 (người)

Cháu



Sự vật 1 (người)

buổi trời chiều
Sự vật 2 (Sự vật)

ngày rạng sáng"
Sự vật 2 (Sự vật)

c) Dạng A chẳng bằng B:
Ví dụ: Bài tập 1c/trang 43 : Tìm các hình ảnh so sánh trong câu :
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời
Trần Quốc Minh
Dạng bài tập này chỉ cần học sinh thực hiện được hai yêu cầu :
- Xác định sự vật so sánh (ngôi sao - mẹ), (mẹ - ngọn gió)
- Xác định từ so sánh (Chẳng bằng, là)
Xác định được hai yêu cầu trên là học sinh đã xác định được hình ảnh so sánh.
C. Mô hình 3: So sánh: Hoạt động - Hoạt động
12



Mô hình này có dạng như sau:
+ A x B.
+ A như B.
* Ví dụ: Bài tập 2 /trang 98: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào
được so sánh với nhau:
+

"Con trâu đen lông mượt
Cái sừng nó vênh vênh
Nó cao lớn lênh khênh
Chân đi như đạp đất".
(Trần Đăng Khoa)

+

"Cau cao, cao mãi
Tàu vươn giữa trời
Như tay ai vẫy
Hứng làn mưa rơi".
(Ngô Viết Dinh)

Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó
học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn:
+ Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ "như".
+ Hoạt động “vươn” của tàu lá dừa giống hoạt động “vẫy” tay của con người
D. Mô hình 4: So sánh: Âm thanh - Âm thanh
Mô hình này có dạng sau:
A như B:

+ A là âm thanh thứ 1.

+ B là âm thanh thứ 2.

Ví dụ:(Bài tập 2 trang 117): Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong
mỗi câu thơ, câu văn dưới đây:
Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ
nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ "như". Chẳng hạn:
+

"Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai"
13


(Nguyễn Trãi)
Âm thanh của "tiếng suối" được so sánh với âm thanh của "tiếng đàn cầm"
qua từ "như".
Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh phân biệt dấu hiệu so sánh
Đây là biện pháp rất quan trọng khi dạy về biện pháp tu từ so sánh cho
học sinh lớp 3. Nếu như biện pháp 1 ở trên là nền tảng, là cái cơ bản, thì biện
pháp này là biện pháp giúp học sinh củng cố vững chắc kiến thức, kĩ năng về
biện pháp tu từ so sánh vừa học.
Giáo viên phân biệt cho học sinh thông qua các bài tập thực hành.
Trường hợp 1: Vắng khuyết yếu tố 2 – đặc điểm so sánh
Ví dụ 1: Trẻ em như búp trên cành.
Ví dụ 2: Hai bàn tay em/ Như hoa đầu cành
Trong hai hình ảnh so sánh trên, yếu tố 2 - đặc điểm so sánh không được
nêu ra. Kiểu so sánh vắng khuyết yếu tố 2 này tạo điều kiện cho sự liên tưởng
rộng rãi hơn. Nó kích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn để xác
định được những nét giống nhau giữa hai đối tượng ở hai vế và từ đó nhận ra
đặc điểm của đối tượng miêu tả. Sự suy nghĩ, liên tưởng có thể diễn ra như sau:

- Trẻ em tươi non như búp trên cành./ Trẻ em đầy sức sống như búp trên cành./
Trẻ em chứa chan hi vọng như búp trên cành./ …
- Hai bàn tay em đẹp như hoa đầu cành./ Hai bàn tay em xinh xắn như hoa đầu
cành./ Hai bàn tay em nhỏ xinh như hoa đầu cành./ …
Trường hợp 2: Vắng khuyết cả yếu tố 2 – đặc điểm so sánh và yếu tố 3 – từ so
sánh, giữa yếu tố 1 và 4 có dấu gạch hai chấm hoặc dấu gạch ngang.
Ví dụ 1: Trường Sơn: chí lớn ông cha
Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào.
Ví dụ 2:

Thân dừa bạc phếch tháng năm

Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh.
Trong ví dụ 1 có hai hình ảnh so sánh: So sánh Trường Sơn với chí lớn
ông cha và so sánh Cửu Long với lòng mẹ bao la. Trong ví dụ 2 có hai hình ảnh
14


so sánh: so sánh quả dừa với đàn lợn con và so sánh tàu dừa với chiếc lược. Tất
cả các hình ảnh so sánh này đều vắng khuyết cả hai yếu tố: yếu tố 2 – đặc điểm
so sánh và yếu tố 3 – từ so sánh, giữa yếu tố 1 và 4 có dấu gạch hai chấm hoặc
dấu gạch ngang. Khi đọc cần ngắt giọng chỗ có dấu hai chấm hoặc dấu gạch
ngang.
Trường hợp 3: Vắng khuyết cả yếu tố 2 – đặc điểm so sánh và yếu tố 3 – từ so
sánh, giữa yếu tố 1 và 4 không có sự ngăn cách nào.
Ví dụ: Tay em đánh răng/ Răng trắng hoa nhài
Ở đây, tác giả đã so sánh răng với hoa nhài. Nhưng cái khó là giữa hai yếu
tố 1 và 4 không có bất cứ dấu hiệu nào. Dạng này thường dành cho học sinh

nhận thức tốt.
Ở cả 3 trường hợp này, giáo viên cần cho học sinh đọc kĩ nội dung câu thơ
hoặc câu văn, gợi mở cho học sinh suy nghĩ tại sao lại đặt hai sự vật, hiện tượng
này cạnh nhau mà không có từ ngữ nào ở giữa. Cho học sinh thử thêm vào
những từ ngữ thể hiện sự so sánh (thêm yếu tố 3), hoặc thêm cả từ chỉ đặc điểm
và từ so sánh (yếu tố 2 + yếu tố 3) mà không làm nội dung câu văn, câu thơ thay
đổi.
Ví dụ: Tàu dừa như/ tựa như/ như thể/ giống như/ … chiếc lược chải vào mây
xanh
Quả dừa chi chít/ nằm chen chúc/ … như đàn lợn con nằm trên cao.
Trường hợp 4: Các từ so sánh không phải lúc nào cũng thể hiện sự so sánh.
Trong hình ảnh so sánh Trăm cô gái đẹp tựa tiên sa, giáo viên có thể cho
học sinh thay thế từ “tựa” bằng các từ ngữ khác cũng thể hiện sự so sánh như: là,
giống, hệt, như, như thể, chẳng khác gì,… mà ý nghĩa của câu không thay đổi.
Nhưng điều quan trọng là giáo viên phải phân biệt cho học sinh không phải lúc
nào các từ là, giống, hệt, như, như thể, chẳng khác gì,… cũng là các từ dùng để
chỉ sự so sánh. Giáo viên giúp học sinh khắc phục điều này bằng cách giúp học
sinh hiểu ý nghĩa của các từ ngữ này trong văn cảnh. Nhấn mạnh và nhắc lại cho
học sinh là các sự vật, sự việc, hiện tượng, … được đem ra so sánh bao giờ cũng
phải có một dấu hiệu chung nào đó.
Ví dụ 1: Con búp bê của Lan làm bằng vải. Từ “bằng” chỉ mối quan hệ
giữa một bên là sự vật, một bên là chất liệu của sự vật đó. Hai sự vật: con búp bê
và vải không có dấu hiệu chung. Vậy đây không phải là hình ảnh so sánh.
15


Ví dụ 2: Quả táo này nhỏ bằng ngón tay. Từ “bằng” dùng để chỉ sự so sánh
ngang bằng giữa hai sự vật có hình dáng nhỏ bé. Hai sự vật: quả táo này và ngón
tay có dấu hiệu chung là nhỏ. Vậy câu trên là hình ảnh so sánh. Đây là trường hợp
học sinh khó phát hiện ra hình ảnh so sánh. Giáo viên cần giúp học sinh phân tích

theo cấu trúc so sánh và tìm ra dấu hiệu chung của các yếu tố so sánh.
Tóm lại, khi dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3, cần giúp học
sinh nắm được cấu trúc hoàn chỉnh thường gặp của so sánh tu từ. Trong đó yếu
tố 1 và yếu tố 4 là quan trọng nhất, không thể vắng khuyết. Học sinh dần được
làm quen với các dạng khuyết thiếu 1 trong các yếu tố như trên. Khi gặp dạng
nào giáo viên cũng nên đưa vào mô hình cấu tạo để học sinh nhận biết.
Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh làm dạng bài tập sáng tạo
Dạng bài tập sáng tạo giúp học sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ so
sánh. Dạng bài tập này có tính tư duy, sáng tạo cao hơn. Tuy nhiên, dạng bài tập
này trong SGK rất ít. Nó tập trung ở cuối chương trình học kì I gồm 2 bài tập.
Để làm được dạng bài tập này bắt buộc giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh
nắm được một cách chắc chắn về so sánh tu từ như hai biện pháp trên.
Bài tập 1: Nhìn tranh đặt câu
Tương tự Bài tập 3/SGK trang126: Ta có thể đưa ra bài tập sau :
Ví dụ: Quan sát từng cặp tranh ở hình 1 rồi viết các câu có hình ảnh so sánh

Hình 1
16


Bài tập 2: Dạng bài tập điền khuyết
Ví dụ: Bài tập 4/trang 126: Tìm những từ ngữ thích hợp để điền vào chỗ trống:
a)

Công cha nghĩa mẹ được so sánh như..., như...

a)

Trời mưa, đường đất sét trơn như...


b)

Ở thành phố có nhiều toà nhà cao như....

Khi hướng dẫn học sinh làm các bài tập dạng này, giáo viên cần thao tác
theo các bước sau:
Bước 1: Giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu đề bài.
Bước 2: Phân tích các yếu tố của bài cho và đưa vào mô hình cấu trúc so sánh
xem còn thiếu yếu tố nào để hoàn chỉnh hình ảnh so sánh.
Bước 3: Suy nghĩ dựa trên các dấu hiệu chung để tìm các từ ngữ thích hợp.
Bước 4: Thử các từ ngữ khác, đọc và lựa chọn từ ngữ em cho là hay nhất.
Ta phân tích bài tập 1:
Ở tranh 1: Có 2 sự vật là xe ô tô và cung tên/ tên bắn
Ta đưa vào mô hình cấu trúc so sánh :
Yếu tố 1

Yếu tố 2

Yếu tố 3

Xe ô tô

Yếu tố 4
tên bắn

Như vậy đã có yếu tố 1 và yếu tố 4, còn thiếu yếu tố 2 và yếu tố 3:
Yếu tố 2 (phương diện so sánh): dựa vào đặc điểm của hai sự vật này, học sinh
dễ dàng nhận thấy hai sự vật này có dấu hiệu chung về hoạt động: lao, đi, chạy,
phi, … các hoạt động này có đặc điểm chung là nhanh.
Yếu tố 3 : Nếu học sinh so sánh ngang bằng thì có thể sử dụng: như, như thể,…

Nếu học sinh so sánh hơn kém thì có thể sử dụng: hơn, hơn cả, …
Vậy tổng hợp lại ta được câu hoàn chỉnh: Xe ô tô lao nhanh như tên bắn./ Xe ô
tô chạy nhanh hơn tên bắn/ … Nếu không sử dụng yếu tố 2 thì ý nghĩa của câu
thông báo sẽ không rõ ràng: Xe ô tô như tên bắn. Khi nhắc đến ô tô ta thường
nghĩ đến hình dáng, màu sắc của nó. Vậy xe ô tô và tên bắn có gì giống nhau về
hình dáng và màu sắc? Rõ ràng là không. Vậy ta phải nói rõ ta đang so sánh ô tô
và tên bắn về đặc điểm gì, cho nên phải có yếu tố 2 ở đây.
17


Các trường hợp còn lại tương tự, giáo viên sử dụng phương pháp phân
tích - rèn luyện theo mẫu như trong các nghiên cứu về phương pháp dạy học
biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3 đã đưa ra.
Ví dụ các trường hợp còn lại :
- Bóng đèn điện toả sáng như mặt trăng.
- Cây thông cao như ngọn tháp.
- Nụ cười của cô ấy xinh như hoa hồng.
- Thỏ thì hiền hơn hùm.
Ta phân tích bài tập 2:
Ta cũng cho học sinh đưa các yếu tố đã có vào mô hình cấu trúc so sánh

Yếu tố 1

Yếu tố 2

Yếu tố 3

Công cha

như


Nghĩa mẹ

như

Yếu tố 4

Như vậy đã có yếu tố 1 và yếu tố 3, còn thiếu yếu tố 2 và yếu tố 4:
Ở đây yếu tố 4 là quan trọng, không thể thiếu. Để tìm yếu tố 4 ta cho học sinh
suy nghĩ xem công cha giống với gì? (núi Thái Sơn/ núi cao/ trời/…), nghĩa mẹ
giống với gì? (nước biển Đông/ nước trong nguồn/ biển/ …)
Còn yếu tố 3, học sinh có thể tìm là to lớn, bao la, ngời ngời, …
Vậy sắp xếp lại ta được các câu hoàn chỉnh :
Công cha nghĩa mẹ được so sánh như núi Thái Sơn, như nước biển Đông.
(không có yếu tố 3)
Nếu tách rời, ta được hai câu: Công cha to lớn như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ bao
la như nước biển Đông. (Có đầy đủ 4 yếu tố)
Ở đây, ta lưu ý cho học sinh yếu tố 3 có thể không có. Trong những câu mà sắc
thái tình cảm thể hiện rất rõ như thế này thì người ta thường che lấp đi phương
diện so sánh để người đọc, người nghe có những suy nghĩ, liên tưởng của riêng
mình. Các đáp án có thể là:
a) như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn chảy ra, như sông như biển,…
b) như bôi mỡ, xà phòng, đổ dầu...
18


c) núi, những ngọn tháp...
Các bài tập mang tính sáng tạo này rất ít nên trong quá trình dạy, nhất là
các tiết Tiếng Việt luyện tập, giáo viên nên đưa thêm những bài tập tương tự hai
dạng trên để học sinh khắc sâu kiến thức.

Trong khi học về biện pháp so sánh, học sinh còn được làm quen với kiểu
so sánh: Ngang bằng và hơn kém.
Kiểu so sánh ngang bằng thường gặp các từ so sánh như: tựa, giống,
giống như, không thua, không khác…
Kiểu so sánh hơn kém thường gặp các từ so sánh như: hơn, kém, thua,
chẳng bằng, …
Biện pháp 4: Kết hợp sử dụng trò chơi học tập :
Đây là hình thức hấp dẫn nhất trong đó chơi là phương tiện, học là mục
đích. Thông qua hình thức chơi mà học, học sinh sẽ được hoạt động, tự củng cố
kiến thức và rèn luyện phản xạ. Tuy nhiên, muốn tổ chức trò chơi có hiệu quả,
cần xác định mục đích của trò chơi, hình thức chơi cũng phải đa dạng, cách chơi
cần phải đơn giản, dễ hiểu.
Ví dụ: Trò chơi “Thử tài so sánh”
Mục đích: - Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ bằng cách tạo nhanh các cụm từ có
hình ảnh so sánh đúng.
- Luyện phản ứng nhanh, trau dồi trí tưởng tượng, liên tưởng về hoạt
động hay đặc điểm, tính chất ... của sự vật.
Chuẩn bị :
- Làm các bộ phiếu bằng giấy (Kích thước: 3 x 4 cm)
- Mỗi bộ phiếu gồm 3-5 từ chỉ hoạt động, trạng thái, đặc điểm, màu
sắc... của sự vật (Tuỳ thời gian chơi, nội dung bài học).
Lớp 3 chủ yếu là từ chỉ hoạt động, trạng thái, đặc điểm, tính chất.
Ví dụ : + Bộ phiếu A (5 từ chỉ hoạt động, trạng thái): Đọc, viết, cười, nói, khóc
(Dành cho Tiết 7: Ôn tập từ chỉ trạng thái, tính chất)
+ Bộ phiếu B (5 từ chỉ màu sắc) Trắng, xanh, đỏ, vàng, đen
(Dành cho tiết 15: Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh)

19



+ Bộ phiếu C (5 từ chỉ đặc điểm, tính chất): đẹp, cao, khoẻ, nhanh, chậm
(Dành cho tiết 14, 17: Ôn tập từ chỉ đặc điểm)
- Phiếu được gấp tư để “bốc thăm”
- Cử trọng tài, thư kí theo dõi cuộc thi.
Tiến hành :
- Trọng tài để một bộ phiếu lên bàn cho học sinh xung phong lên thử tài
so sánh (1 bộ phiếu 5 từ thì dành cho 5 người “thử tài”).
- Học sinh 1 (HS1) lên “bốc thăm”, mở phiếu đọc từ cho các bạn nghe
rồi nêu thật nhanh cụm từ có hình ảnh so sánh để làm rõ nghĩa từ đó.
- Ví dụ: HS1: “bốc thăm” được từ trắng – Có thể nêu cụm từ so sánh:
trắng như tuyết, trắng như vôi, (hoặc: trắng như trứng gà bóc).
- Trọng tài cùng cả lớp chứng kiến và xác nhận kết quả Đúng- Sai
+ Đúng được bao nhiêu kết quả được bấy nhiêu điểm.
+ Trọng tài đếm từ 1-5 vẫn không nêu được kết quả thì không có điểm.
- Lần lượt 5 học sinh lên bốc thăm thử tài. Hết 5 phiếu thì về chỗ, thư kí
công bố kết quả.
- Mỗi bộ phiếu sẽ chọn ra 1 người có tài so sánh cao nhất là người thắng cuộc.
Cách tiến hành này có thể thay đổi tùy sự linh động của giáo viên.
Cũng có thể mỗi học sinh lần lược bốc cả 5 phiếu. Mỗi phiếu chỉ cần nêu 1 cụm
từ. Người thứ không được nêu lặp cụm từ của người trước. Hoặc cũng có thể
bốc cả 5 phiếu và tiến hành theo nhóm. Nhóm nào tìm được nhiều cụm từ nhất
thì nhóm đó thắng.
Tham khảo:
1/ Gợi ý các cụm từ có hình ảnh so sánh nêu ở mục chuẩn bị
Bộ phiếu A: (5 từ chỉ hoạt động, trạng thái)
- Đọc: Đọc như đọc kinh, đọc như rên rỉ, đọc như cuốc kêu, đọc như nói
thầm, đọc như vẹt,…
- Viết: viết như gà bới, viết như giun bò, viết như rồng bay phượng múa,
viết như in,...
- Cười: cười như nắc nẻ, cười như pháo nổ, cười như mếu,...

20


- Nói: nói như khướu, nói như vẹt, nói như Trạng Quỳnh, nói như thánh
tướng,...
- Khóc: khóc như mưa, khóc như ri, khóc như cha chết,...
Bộ phiếu B (5 phiếu từ chỉ màu sắc):
- Trắng: trắng như trứng gà bóc, trắng như tuyết, trắng như vôi, trắng
như bột lọc, trắng như ngà voi,...
- Xanh: xanh như tàu lá, xanh như pha mực, xanh như nước biển...
- Đỏ: Đỏ như máu, đỏ như son, đỏ như gấc, đỏ như mận chín, đỏ như ớt,
đỏ như quả cà chua,...
- Đen: đen như than, đen như gỗ mun, đèn như cột nhà cháy, đen như bồ
hóng, đen như quạ, đen như cuốc,...
- Vàng: vàng như nghệ, vàng như mật ong, vàng như tơ, vàng như nắng,
vàng như lụa,...
Bộ phiếu C: (5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính chất )
- Đẹp: đẹp như tiên, đẹp như hoa, đẹp như tranh, đẹp như mơ,...
- Cao: cao như núi, cáo như ngọn tháp, cao như sếu, cao như cây sào,..
- Khoẻ: khoẻ như voi, khoẻ như trâu, khoẻ như bò mộng, khoẻ như hổ,
khoẻ như lực sĩ,...
- Nhanh: nhanh như sóc, nhanh như điện, nhanh như cắt, nhanh như gió,
nhanh như chớp,...
- Chậm: chậm như sên, chậm như rùa,...
2/ Gợi ý thêm một số bộ phiếu để “Thử tài so sánh”
Bộ phiếu D: (5 từ chỉ trạng thái)
- Buồn: buồn như đưa đám, buồn như mất của, buồn như mất sổ gạo,...
- Vui: vui như tết, vui như hội, vui như bắt được vàng, vui như mở cờ
trong bụng,...
- Sướng: sướng như tiên, sướng như vua, sướng như ông Hoàng (vua)

- Khổ: khổ như trâu ngựa, khổ như ăn mày, khổ như nô lệ,...
- Im: im như thóc, im như hến, im như ngủ,...
Bộ phiếu E: (5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính chất)
21


- Lạnh: lạnh như tiền, lạnh như đồng, lạnh như ướp đá, lạnh như băng,...
- Nóng: nóng như thiêu, nóng như lửa đốt, nóng như bếp lò nung,...
- Chua: chua như dấm, chua như mẻ, chua như khế,...
- Ngọt: ngọt như đường cát, ngọt như mía lùi, ngọt như mật ong,...
- Đắng: đắng như bồ hòn, đắng như mật gấu, …
Bộ phiếu G: (5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính chất)
- Gầy: gầy như cò hương, gầy như hạc, gầy như que tăm, gầy như cây
củi, gầy như ống sậy,...
- Hiền: hiền như phật, hiền như bụt, hiền như cô Tấm, hiền như đất,...
- Dữ: dữ như báo, dữ như cọp, dữ như hổ, dữ như chó sói,...
- Tròn: tròn như bi ve, tròn như cái đĩa, tròn như quả bóng,...
- Cong: cong như lưỡi liềm, cong như cầu vồng, cong như con tôm,
cong như cánh cung,…
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả dạy học biện pháp tu từ so
sánh trong phân môn Luyện từ và câu nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho
học sinh lớp 3 của tôi đã áp dụng hiệu quả trong phạm vi huyện Tam Dương và có
thể nhân rộng phạm vi áp dụng ra toàn tỉnh Vĩnh Phúc.
8. Những thông tin cần bảo mật: (Không)
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên phải nhuần nhuyễn về phương pháp giảng dạy từng phân môn
Tiếng Việt;
- Giáo viên phải mạnh dạn trong việc tiếp thu và áp dụng cái mới phục vụ
cho quá trình dạy học.

- Có rút kinh nghiệm nghiêm túc sau mỗi lần thử nghiệm để hoàn thiện
sáng kiến.
- Trang thiết bị dạy học, đồ dùng, giáo cụ trực quan, ... đầy đủ.
- Nắm chắc chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng bài học mà mình muốn vận
dụng biện pháp mới.
- Giáo viên phải thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn để kịp thời
điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp.
22


- Biện pháp dạy học sinh nhận biết và sử dụng biện pháp tu từ so sánh
phải được thực hiện đồng bộ từ lớp dưới lên lớp trên, đồng thời cho các em nâng
cao kĩ năng sử dụng biện pháp này.
10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác
giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu
10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
Tôi đã tiến hành dạy thử nghiệm ở khối lớp 3 trường tiểu học Đồng Tĩnh
B năm học 2017-2018. Lớp thử nghiệm là lớp 3A, tôi dạy các tiết Luyện từ và
câu có liên quan đến biện pháp tu từ so sánh theo 4 biện pháp nêu trên. Lớp đối
chứng là lớp 3C, giáo viên dạy bình thường. Lớp đối chứng và lớp thử nghiệm
được lựa chọn theo nguyên tắc: cân bằng về số lượng, giới tính, thành phần dân
tộc và nhận thức của học sinh.
Bảng 1: Giới tính và thành phần dân tộc của học sinh
Học sinh các nhóm

Dân tộc

Lớp
TS


Nam

Nữ

Kinh

3A

30

14

16

30

3C

29

15

14

29






Bảng 2: Chất lượng giáo dục ở hai lớp năm học 2013-2014
Hạnh kiểm
Lớp

Xếp loại giáo dục

TS
Đ



Từ TB trở lên

Yếu

3A

30

30

0

30

0

3C

29


29

0

29

0

- Về ý thức học tập: Học sinh ở hai lớp đều tích cực, chủ động.
- Về thành tích học tập của năm trước: Hai lớp đều tương đương nhau về điểm
số của tất cả các môn học.
Bài kiểm tra trước tác động là bài khảo sát năng lực nhận thức học sinh đầu
năm học do Phòng Giáo dục Đào tạo ra chung cho cả khối lớp 3, Ban giám hiệu
nhà trường chấm chung. Kết quả bài kiểm tra cho thấy điểm trung bình của hai lớp
23


có sự khác nhau, do đó tôi dùng phép kiểm chứng T-test độc lập để kiểm chứng sự
chênh lệch điểm số trung bình của hai nhóm trước khi thực hiện tác động.
Kết quả kiểm chứng T-test độc lập:
Bảng 3: Kiểm chứng để xác định các nhóm tương đương

Điểm TBC
Giá trị p

Lớp đối chứng

Lớp thử nghiệm


6,1

6,3
0,227

Giá trị của p trong phép kiểm chứng T-test độc lập cho ta p = 0,227> 0,05,
từ đó kết luận sự chênh lệch điểm số trung bình của hai lớp thực nghiệm và đối
chứng là KHÔNG CÓ Ý NGHĨA, hai lớp được coi là tương đương.
* Sử dụng thiết kế 2: Kiểm tra trước tác động và sau tác động đối với các
nhóm tương đương (được mô tả ở bảng 4).
Bảng 4: Thiết kế nghiên cứu
Nhóm

Kiểm tra
trước tác động

Tác động

Kiểm tra sau
tác động

Thử
nghiệm

O1

Dạy học có sử dụng bốn biện
pháp như phân tích ở trên.

O3


Đối chứng

O2

Dạy học không sử dụng các biện
pháp nêu trên.

O4

Ở thiết kế này tôi sử dụng phép kiểm chứng T-test độc lập.
Việc dạy thử nghiệm của tôi được tiến hành theo thời khoá biểu nhà
trường để không làm ảnh hưởng đến việc học của học sinh.
Bảng 5: Thời gian dạy thử nghiệm
Thứ/ngày

Môn/lớp



Luyện từ
và câu/

07/9/2017

Tên bài dạy
Ôn về từ chỉ sự vật. So sánh

24





So sánh. Dấu chấm

20/9/2017


So sánh

04/10/2018

18/10/2017
Ba

Ôn về từ chỉ hoạt động, trạng thái. So sánh
lớp 3
So sánh. Dấu chấm

07/11/2017
Ba

Ôn tập về từ chỉ hoạt động, trạng thái. So sánh

21/11/2017
Ba

Từ ngữ về dân tộc. Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh.

12/12/2017


Bài kiểm tra trước tác động:

Bài khảo sát năng lực nhận thức học sinh đầu năm
Môn Tiếng Việt Lớp 3 Năm học 2017 - 2018
I/ Đọc thầm: (3 điểm)
Chiếc rễ đa tròn
Buổi sớm hôm ấy, như thường lệ, sau khi tập thể dục, Bác Hồ đi dạo trong
vườn. Đến gần cây đa, Bác chợt thấy một chiếc rễ đa nhỏ và dài ngoằn ngoèo
nằm trên mặt đất. Chắc là trận gió đêm qua đã làm nó rơi xuống. Bác tần ngần
một lát rồi bảo chú cần vụ đứng gần đấy:
– Chú cuốn rễ này lại, rồi trồng cho nó mọc tiếp nhé!
Theo lời Bác, chú cần vụ xới đất, vùi chiếc rễ xuống. Nhưng Bác lại bảo:
– Chú nên làm thế này.
Nói rồi, Bác cuộn chiếc rễ thành một vòng tròn và bảo chú cần vụ buộc nó
tựa vào hai cái cọc, sau đó mới vùi hai đầu rễ xuống đất.
Chú cần vụ thắc mắc:
– Thưa Bác, làm thế để làm gì ạ?

25


×