Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Đánh giá năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan có liên quan khác để thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.26 KB, 108 trang )

Đánh giá năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước
và các cơ quan có liên quan khác để thực hiện Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

Báo cáo cuối cùng:
Những phát hiện và khuyến nghị

1


Tháng 9 năm 2010

2


Lời cảm ơn
Báo cáo này và những phụ lục đính kèm là kết quả của sự nỗ lực
hợp tác của một nhóm các chuyên gia quốc tế và quốc gia, gồm
chị Andrea Mestrov, anh Lars Udsholt, chị Vũ Thu Hồng và chị
Lê Thị Mai Hương. Báo cáo được thực hiện với sự hợp tác chặt
chẽ của Viện Gia đình và Giới với lời cảm ơn đặc biệt tới Tiến sỹ
Nguyễn Hữu Minh, Viện trưởng và các cán bộ nghiên cứu của
Viện. Sự hỗ trợ quý báu của Ban Quản lý dự án Ô (PMU)
Chương trình Hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên
hợp quốc về Bình đẳng giới (JPGE) của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, với lời cảm ơn đặc biệt tới bà Nguyễn Thị Diệu
Hồng, Phó giám đốc và chị Aya Matsuura, chuyên gia giới của
JPGE. Chị Patricia Rosa Garcia, cán bộ chương trình của
UNIFEM Việt Nam đã hỗ trợ nhằm đảm bảo Báo cáo đem lại giá
trị gia tăng đối với JPGE. Nhóm đặc biệt cảm ơn về sự hợp tác
của tất cả những người cung cấp thông tin đến từ các tổ chức:


Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Vụ các
vấn đề xã hội), Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội; các tổ
chức của Chính phủ, gồm: Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin
và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn; các tổ chức quần chúng: Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông
dân Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam; các mạng lưới tổ chức phi chính phủ: CSAGA,
NEW, CEPEW; và các tổ chức của Liên hợp quốc và tổ chức tài
trợ tại Việt Nam: UNDP, UNFPA, Văn phòng Điều phối viên
Thường trú của Liên hợp quốc, UNIFEM và AECID.
Quá trình viết, biên tập và điều phối đã được bà Andrea Mestrov
(chuyên gia tư vấn chính) thực hiện dưới sự giám sát của chị
3


Patricia Rosa Garcia (cán bộ chương trình, UNIFEM Việt Nam),
bà Nguyễn Thị Diệu Hồng (chuyên viên chính Vụ Bình đẳng
giới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) và chị Aya
Matsuura (chuyên gia giới của JPGE) và sự quản lý của Tiến sỹ
Suzette Mitchell (Giám đốc quốc gia, UNIFEM Việt Nam).

4


NỘI DUNG
1. GIỚI THIỆU
Error! Bookmark not defined.

1.1
Bối cảnh và những mục tiêu của Báo cáo Đánh giá Năng lực
Error! Bookmark not defined.
1.2
Phát triển năng lực và Giới: Văn hóa thay đổi và cầu thị 11
2. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
13
2.1
Khung Đánh giá Năng lực
14
2.2
Tiến trình
17
2.3
Phương pháp luận và các công cụ để thu thập và phân tích
số liệu 19
2.4
Những người cung cấp thông tin chính
22
3. BỐI CẢNH
23
3.1
Luật Bình đẳng giới
23
3.2
Môi trường điều chỉnh chính sách – Luật Bình đẳng giới 24
3.3
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
25
3.4

Môi trường điều chỉnh chính sách – Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình
26
4. NHỮNG PHÁT HIỆN CHUNG
27
4.1
Cơ cấu thể chế
27
4.2
Thực hiện
29
4.3
Lãnh đạo
31
4.4
Kiến thức
31
4.5 Giám sát, Đánh giá và Báo cáo
33
4.5
Trách nhiệm giải trình
35
5. NHỮNG PHÁT HIỆN CỤ THỂ
36
5.1
Các tổ chức Chính phủ
38
5.1.1
Cấp trung ương
38

5.1.2
Cấp tỉnh/thành phố
46
5.2
Các tổ chức quần chúng
60
5.2.1
Cấp trung ương
60
5.2.2
Cấp tỉnh/thành phố
61
6. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CHUNG
64
6.1
Cơ cấu thể chế
64
6.2
Thực hiện
68
6.3
Lãnh đạo
72
6.4
Kiến thức
74
6.5
Giám sát, đánh giá và báo cáo
80
5



6.6
Trách nhiệm giải trình
6.7
Những bước tiếp theo quan trọng
7. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CỤ THỂ
7.1
Các tổ chức của Chính phủ
7.1.1
Cấp trung ương
7.1.2 Cấp tỉnh/thành phố
7.2
Các tổ chức quần chúng
7.2.1 Cấp Trung ương
7.2.2 Cấp tỉnh/thành phố
8. CÁC HỆ THỐNG VÀ QUY TRÌNH ĐỔI MỚI
9. KẾT LUẬN
CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các công cụ của phương pháp luận

83
84
84
85
85
88
93
93
95

100
103

Phụ lục 2: Các bảng kiểm cuối cùng - phản ánh nhanh về năng lực của
mỗi một tổ chức và tỉnh/thành phố

6


MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
BĐG

Bình đẳng giới

BLGĐ

Bạo lực gia đình

Bộ LĐ-TBXH

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

Bộ VHTTDL

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

CBO

Tổ chức dựa vào cộng đồng


CEDAW

Công ước về Xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử chống lại phụ nữ

CFAW

Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ

DOVIPNET

Mạng Phòng, chống bạo lực gia đình

ĐGNL

Đánh giá năng lực

GENCOMNET

Mạng Giới và Phát triển Cộng đồng

GSO

Tổng cục Thống kê

Hội LHPN

Hội Liên hiệp Phụ nữ

IFGS


Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế

JPGE

Chương trình Hợp tác chung giữa Chính phủ
Việt Nam và Liên hợp quốc về Bình đẳng giới

Luật BĐG

Luật Bình đẳng giới

Luật PCBLGĐ

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

M&E

Giám sát và đánh giá

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

NCFAW


Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ

NEW

Mạng Tăng quyền năng cho phụ nữ

NGO

Tổ chức phi chính phủ

PCFAW

Ban vì sự tiến bộ của Phụ nữ tỉnh/thành phố

SEDP

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

SMA

Cơ quan quản lý nhà nước
7


Sở LĐ-TBXH

Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

Sở VHTTDL


Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

SWOT

Mặt mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức

UBND

Ủy ban Nhân Dân

UBQG

Ủy ban Quốc gia

UNDP

Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc

UNFPA

Quỹ Dân số Liên hợp quốc

UNIFEM

Quỹ Phát triển Phụ nữ của Liên hợp quốc

VCCI

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam


VSTBPN

Vì sự tiến bộ của phụ nữ

8


1. GIỚI THIỆU
1.1. Bối cảnh và những mục tiêu của đánh giá năng lực
Chương trình chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên hợp
quốc về Bình đẳng giới (JPGE) đang hỗ trợ kỹ thuật mang tính
chiến lược, đa ngành và được điều phối nhằm xây dựng năng lực
cho các cơ quan chịu trách nhiệm ở cấp trung ương và cấp tỉnh
để các cơ quan này có thể thực hiện tốt hơn hai luật: Bình đẳng
giới và Phòng, chống bạo lực gia đình từ năm 2009 đến năm
2011. Với sự hình thành một khối vững chắc và đồng tâm nhất trí
của 12 cơ quan, Liên hợp quốc đang ở vị thế thuận lợi hơn để
hợp tác với các đối tác quốc gia nhằm đem lại sự thay đổi ở cấp
cao nhất hướng tới bình đẳng giới ở Việt Nam.
Đặt việc thực hiện các quyền con người và an ninh của phụ
nữ vào trọng tâm của tất cả các nỗ lực của mình, Quỹ Phát triển
Phụ nữ của Liên hợp quốc (UNIFEM) tập trung các hoạt động
của mình trong JPGE đối với các Kết quả chung sau đây:
 Các kỹ năng, kiến thức và thực tiễn để thực hiện, giám
sát, đánh giá và báo cáo Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình được cải thiện;
 Các mối quan hệ đối tác và điều phối về bình đẳng giới ở
trong và ngoài Chính phủ được nâng lên.
Chương trình Hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và
Liên hợp quốc về Bình đẳng giới (JPGE) đang được Bộ Lao

động - Thương binh và Xã hội (MOLISA) quản lý với tư cách là
cơ quan quản lý nhà nước đối với Chương trình chung và Quỹ
Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) với tư cách là cơ quan quản lý
của Liên hợp quốc. JPGE có ba cấu phần, mỗi một cấu phần
được một cơ quan của Chính phủ và một cơ quan của Liên hợp
quốc điều phối, liên quan đến những lĩnh vực chuyên môn tương
ứng của các cơ quan đó. Ba cơ quan điều phối của Liên hợp quốc
đã được giao nhiệm vụ như những điều phối viên từ phía Liên
hợp quốc nhằm đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ và hài hòa. Quỹ
Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) đang cùng điều phối với Bộ
9


Văn hóa, Thể thao và Du lịch (MOCST), UNIFEM với Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội (MOLISA) và Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc (UNDP) với Tổng cục Thống kê (GSO).
Dự án cấu phần do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
quản lý và UNIFEM điều phối tập trung nâng cao năng lực cho
các cơ quan của Chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự có liên
quan trong thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo Luật Bình
đẳng giới. Tương tự, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và
UNFPA tập trung vào nâng cao năng lực cho các cơ quan của
Chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự có liên quan trong thực
hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình. UNDP và Tổng cục Thống kê tập trung vào củng cố cơ
sở dữ liệu dựa trên bằng chứng và những hệ thống dữ liệu nhằm
thúc đẩy bình đẳng giới.
Nhiệm vụ này liên quan tới Kết quả chung 1 của JPGE
được nêu ở trên. Nhiệm vụ đánh giá năng lực này đã được
UNIFEM và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội điều phối

thực hiện ở năm đầu tiên của JPGE.
Những mục tiêu cụ thể của nhiệm vụ này là:
 Đánh giá những năng lực của tất cả các cơ quan chịu trách
nhiệm thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo hai luật;
 Xác định những hạn chế cụ thể về năng lực và những yếu
tố cản trở;
 Đánh giá tiềm năng nhằm tăng cường năng lực của các
đối tác ở cấp địa phương để thực hiện, giám sát, đánh giá
và báo cáo hai luật một cách hiệu quả;
 Đề xuất những cách thức thực tiễn để khắc phục những
hạn chế về năng lực và những cản trở đã được xác định
với đề cập chi tiết cho những năng lực hiện có, những
khoảng trống đã được xác định và tiềm năng để tăng
cường những năng lực.

10


1.2. Phát triển năng lực và Giới: Văn hóa thay đổi và cầu
thị

1

Văn hóa và những vấn đề giới thay đổi liên tục; mục tiêu
là thay đổi những giá trị giới đang ngăn cản cơ hội của những
thành viên nhất định của xã hội tham gia vào và thụ hưởng
bình đẳng những thành quả của Việt Nam.
Văn hóa là một phần cơ cấu của mọi xã hội và đặc biệt đối
với Việt Nam đang có và tự hào về một nền văn hóa và những
truyền thống mang đậm bản sắc. Văn hóa định hình “cách thức

các vấn đề được thực hiện” và hiểu biết của mọi người là tại sao
nên như vậy. Những kỳ vọng về những thuộc tính và hành vi phù
hợp với phụ nữ và nam giới và về các mối quan hệ giữa phụ nữ
và nam giới - nói cách khác, giới - được văn hóa định hình.
Những thuộc tính giới và các mối quan hệ giới là những khía
cạnh quyết định của văn hóa vì những khía cạnh này định hình
cách thức cuộc sống hàng ngày trong gia đình, cũng như trong
cộng đồng rộng lớn hơn và tại nơi làm việc. Trong khi bản chất
của các mối quan hệ giới thay đổi giữa các xã hội, có một đặc
trưng chung là phụ nữ có ít quyền lực cá nhân hơn, ít những
nguồn lực hơn để tùy ý sử dụng và ít có ảnh hưởng đối với các
quá trình ra quyết định mà sẽ định hình nên các xã hội và cuộc
sống của bản thân họ. Đặc trưng này của sự khác biệt trên cơ sở
giới là vấn đề cả về quyền con người và phát triển quốc gia. Tuy
nhiên, các xã hội và các nền văn hóa không tĩnh tại - các xã hội
và các nền văn hóa là những thực thể sống động liên tục đổi mới
và tái định hình. Cũng như với văn hóa nói chung, những tư
tưởng về giới thay đổi theo thời gian đáp ứng rất nhiều yếu tố xã hội, kinh tế, pháp luật, chính sách và từ sự ảnh hưởng của xã
hội dân sự. Trong quá trình tiến hóa này, một số các giá trị được
1

1. Tư liệu trong phần này được rút ra từ “Hướng dẫn lồng ghép giới
trong xây dựng và thực hiện chính sách quốc gia: Hướng tới bình đẳng giới ở
Việt Nam”, Hà Nội 2008, tr. 19.

11


tái khẳng định trong khi các giá trị khác bị thách thức vì không
còn phù hợp. Lồng ghép giới là một chiến lược nhằm đạt được

bình đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới thông qua nâng cao nhận
thức và thách thức những giá trị và niềm tin dẫn đến một số
thành viên của xã hội bị từ chối được công nhận một cách bình
đẳng, các cơ hội và khả năng tiếp cận các thành quả của sự phát
triển của đất nước.
Lồng ghép các vấn đề giới có nghĩa là thay đổi hiện trạng.
Thay đổi thường đầy thách thức và gặp phản ứng. Thay đổi
thành công phụ thuộc vào sự dũng cảm và trung thực.
Lồng ghép các vấn đề bình đẳng giới kéo theo sự thách thức
hiện trạng - có nghĩa là thực hiện những thay đổi cách thức nam
giới và phụ nữ suy nghĩ, quan tâm và làm việc và thay đổi một
số niềm tin đã có từ lâu về vai trò và giá trị của nam giới và phụ
nữ. Thay đổi có thể đem đến những cơ hội mới. Tuy nhiên, chắc
chắn có sự phản kháng mạnh mẽ đối với thay đổi. Những người
cho rằng họ có thể ‘mất mát’ trong quá trình thay đổi có thể sẽ
phản kháng quyết liệt đối với thay đổi. Những người khác có thể
nghi ngờ có những cách thức hiệu quả để đạt được thay đổi lớn
về tổ chức. Thay đổi thành công đòi hỏi liên quan đến quản lý
cấp cao - một thực tế đã được chứng minh rất rõ trên khắp thế
giới và đặc biệt liên quan đến đạt được bình đẳng giới. Để đạt
được thay đổi, phụ nữ và nam giới phải có thiện ý công nhận và
bày tỏ rõ cần thay đổi gì và làm thế nào để thay đổi; điều này bao
gồm một lập trường kiên định trong thúc đẩy thay đổi vì bình
đẳng giới.
Phát triển năng lực là một cách thức nhằm đề cao thay đổi,
hình thành động cơ và các kỹ năng và thay đổi những quan điểm
theo hướng tạo ra bình đẳng giới thông qua lồng ghép giới. Như
gợi ý trong báo cáo này, có nhiều cách thức đa dạng phát triển
năng lực và mỗi một cách tiếp cận cần phù hợp với mỗi một thể
chế, tổ chức hoặc cá nhân.


12


2. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Phương pháp luận đánh giá năng lực của UNDP đã được lựa
chọn đối với hoạt động đánh giá năng lực này (ĐGNL). ĐGNL
đòi hỏi nhận biết những năng lực chính đang có cũng như những
năng lực bổ sung cần có để thực hiện, giám sát, đánh giá và báo
cáo hai Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Do vậy ĐGNL là một phân tích những năng lực được
mong muốn so với những năng lực hiện có tạo nên một sự hiểu
biết về những nguồn vốn năng lực và những nhu cầu có thể
thông tin cho việc định hình một sự đáp ứng của JPGE và của
bất kỳ các chương trình và sáng kiến khác có liên quan về phát
triển năng lực.
Nhóm nghiên cứu đã nhất trí đặt ra mức độ mong muốn về
năng lực vào năm 2011 nên bao gồm những thuộc tính và các kết
quả sau:
 Cam kết chính trị ở các cấp lãnh đạo;
 Có chuyên gia giới để hỗ trợ kỹ thuật về lồng ghép giới;
 Có cơ chế mang tính thể chế, ví dụ các cán bộ đầu mối về
giới;
 Có chính sách về tổ chức;
 Nhận thức cơ bản về giới của đội ngũ cán bộ nhân viên;
 Kế hoạch hành động với trách nhiệm giải trình rõ ràng;
 Có người chủ trương tích cực/cán bộ đầu ngành về giới;
 Văn hóa hỗ trợ của tổ chức hướng tới bình đẳng giới, bao
gồm cả hỗ trợ từ các cán bộ nhân viên là nam giới.
UNDP định nghĩa các năng lực là “khả năng của con người,

các thể chế và các xã hội thực hiện các chức năng, giải quyết
các vấn đề, đặt ra và đạt được các mục tiêu”. Hình thành một sự
đáp ứng về phát triển năng lực dựa trên những phát hiện và
khuyến nghị của báo cáo này tốt nhất nên được gắn kết với chiến
lược phát triển năng lực của các tổ chức chịu trách nhiệm chính
đối với việc thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo hai luật.
13


Bảng dưới đây mô tả phạm vi công việc của ĐGNL.
Bảng 1. Phạm vi công việc của Báo cáo Đánh giá Năng lực

Tổ chức

Năng
lực
được
mong
đợi

Năng
lực
hiện


Khoảng
trống
trong
năng lực


những
yếu tố
cản trở

Những
quá
trình &
hệ
thống
đổi mới

Triển
vọng để
tăng
cường
năng
lực &
khắc
phục
các hạn
chế

Bộ LĐ-TBXH; Bộ
VH, TT và DL;
UBQGVSTBPNVN
Các Bộ chủ chốt (8)
và Phòng TM và
CNVN
Các Sở ở địa
phương (8)

Các liên minh hoặc
các tổ chức quần
chúng
Các tổ chức cộng
đồng

Phương pháp luận đánh giá năng lực của UNDP hoàn toàn
phù hợp với môi trường cho phép và ở cấp độ tổ chức; phương
pháp này được định hình trên nền tảng và xuất phát điểm đối với
nhiệm vụ đánh giá năng lực này. Phương pháp luận này bao gồm
3 cấu phần sẽ được thảo luận ở bên dưới: Khung đánh giá năng

14


lực của UNDP, tiến trình và phương pháp luận và các công cụ để
thu thập và phân tích số liệu.

2.1. Khung đánh giá năng lực
Khung dành cho đánh giá năng lực bao gồm ba chiều cạnh
chính:
a) Những xuất phát điểm: UNDP thừa nhận rằng năng lực
tập trung ở ba cấp độ - môi trường cho phép, cấp độ tổ chức và
cá nhân. Do các nguồn lực hạn hẹp về thời gian, nhân sự và kinh
phí, đánh giá năng lực được tập trung vào môi trường cho phép
và cấp độ năng lực của tổ chức. Đánh giá năng lực ở cấp độ cá
nhân sẽ là một hoạt động riêng với những phát hiện và khuyến
nghị từ Báo cáo Đánh giá Năng lực này, như đầu vào trong xây
dựng một cách tiếp cận đánh giá năng lực ở cấp độ cá nhân.
b) Những vấn đề trọng tâm: Có bốn vấn đề phổ biến phải

đối đầu về năng lực, tất cả những vấn đề đó đều sẽ được đề cập
trong Đánh giá này2:
(i) Cơ cấu thể chế đề cập đến các chính sách, thủ tục và
quy trình mà các quốc gia có để xây dựng luật pháp, lập
kế hoạch và quản lý điều hành sự phát triển, các quy tắc,
biện pháp thay đổi và các chức năng khác của đất nước.
Về bản chất, vấn đề cơ cấu thể chế có mặt ở mọi khía
cạnh của phát triển và quản lý khu vực công. Điều đòi hỏi
phải quan tâm đến thực hiện chức năng và cơ cấu thể chế
hiệu quả vẫn là động lực lớn đối với năng lực và do vậy
đối với năng lực thực thi.
(ii) Lãnh đạo là khả năng để ảnh hưởng, truyền cảm hứng
và thúc đẩy mọi người, các tổ chức và xã hội đạt được và tiến xa hơn - các mục tiêu của mình. Một đặc trưng
2

2. Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của UNDP qua một loạt các lĩnh vực
và chủ đề. Có thể tham khảo Bản Hướng dẫn Đánh giá năng lực năm 2008
của UNDP đối với nội dung giải thích chi tiết hơn.

15


quan trọng của lãnh đạo giỏi là khả năng lường trước (đôi
khi gây xúc tác), chịu trách nhiệm và quản lý thay đổi
nhằm thúc đẩy phát triển con người. Mặc dù hầu hết sự
lãnh đạo thường gắn với một cá nhân người lãnh đạo, nó
cũng có thể tập trung trong một đơn vị của nhà nước chỉ
đạo việc thực hiện cải cách hành chính công. Những yếu
tố quyết định chủ chốt của sự lãnh đạo - những khả năng
để tập hợp những người khác dưới một mục tiêu chung,

tạo nên một tầm nhìn và quản lý việc thực hiện mục tiêu
chung đó và đưa ra một mẫu hình về quy tắc đạo đức.
(iii) Kiến thức đề cập đến sự sáng tạo, sự thu hút và sự
truyền bá thông tin và chuyên môn về các giải pháp phát
triển hiệu quả. Các nhu cầu về kiến thức có thể được quan
tâm ở các cấp độ khác nhau (quốc gia/địa phương/lĩnh
vực, sơ cấp/trung cấp/cao cấp) và thông qua các cách thức
khác nhau (giáo dục chính quy, tập huấn kỹ thuật, các
mạng kiến thức và học tập phi chính thức). Kiến thức có
thể được khuyến khích ở cấp độ tổ chức, ví dụ, thông qua
một hệ thống quản lý kiến thức hoặc một chiến lược học
tập của tổ chức.
(iv) Trách nhiệm giải trình tồn tại khi hai bên cùng tham gia
một tập hợp các nguyên tắc và thủ tục chi phối những tác
động qua lại của họ và dựa trên một sự đồng thuận hoặc
hiểu biết lẫn nhau về những vai trò và trách nhiệm có liên
quan. Tập hợp này tồn tại khi cả những nhóm nắm giữ
quyền và nhóm thực hiện trách nhiệm chuyển giao các
nghĩa vụ của họ. Nó cho phép các tổ chức và hệ thống giám
sát, học hỏi, tự điều chỉnh và điều chỉnh hành vi của họ
trong tác động qua lại lẫn nhau với những người mà họ có
trách nhiệm giải trình (các khách hàng, các công dân, các
đối tác). Nó bao gồm cả sức sáng tạo và sử dụng không
gian và các cơ chế khuyến khích cả nhóm nắm giữ quyền
và nhóm thực hiện trách nhiệm trong một đối thoại để giám
sát và hướng dẫn các hành động của mình, chẳng hạn thông
qua các cơ chế rà soát hoặc các cơ quan giám sát công.
16



c) Các năng lực thuộc chức năng: Các năng lực thuộc chức
năng trong trường hợp này bao gồm năng lực thực hiện, giám
sát, đánh giá và báo cáo về hai luật.
Bảng dưới đây minh họa một khung hướng dẫn xây dựng
các câu hỏi đánh giá và phân tích số liệu, kết hợp cả các vấn đề
trọng tâm và các năng lực thuộc chức năng.
Bảng 2. Khung phân tích dữ liệu
Các năng lực thuộc chức năng
Những vấn đề
trọng tâm

Thực hiện

Giám sát

Đánh giá

Báo cáo

Cơ cấu thể chế
Lãnh đạo
Kiến thức
Trách nhiệm giải
trình

2.2. Tiến trình
Phần này giải thích đánh giá năng lực đã được quản lý và
tiến hành như thế nào và sự tham gia của các đối tác chính.
Đánh giá năng lực là một hoạt động chung do một nhóm
chuyên gia quốc tế và quốc gia - Viện Nghiên cứu Gia đình và

Giới (IFGS) thực hiện dưới sự quản lý của UNIFEM và Bộ Lao
động - Thương bình và Xã hội.
Nhóm chuyên gia quốc tế, gồm hai tư vấn quốc gia và hai tư
vấn quốc tế, đã đưa ra các kết quả kỹ thuật chủ yếu, bao gồm kế
hoạch công tác và hội thảo tập huấn về phương pháp luận và các
công cụ, dự thảo báo cáo cuối cùng và trình bày những phát hiện
và các khuyến nghị. Nhóm chuyên gia quốc tế cũng đã giám sát
và đảm bảo chất lượng của các hoạt động và kết quả của Viện
Nghiên cứu Gia đình và Giới. Viện đã thu thập số liệu và thực
hiện phân tích ban đầu các số liệu. Nhóm chuyên gia quốc tế đã
17


hỗ trợ Bộ Lao động - Thương bình và Xã hội chuẩn bị hậu cần
cho Hội thảo cuối cùng. Những người cung cấp thông tin chính
tham gia vào các cuộc phỏng vấn và các thảo luận nhóm trọng
tâm đã tạo nên phần chủ yếu về số liệu của đánh giá này.
Đáng lưu ý là Bộ Lao động - Thương bình và Xã hội đã đảm
bảo việc liên hệ trước với các đối tác thực hiện về tầm quan
trọng của đánh giá năng lực - gợi ý cho các đối tác thực hiện về
pháp luật mới đã giúp ích nhiều trong vận động những người
cung cấp thông tin chính. Kế hoạch thực địa của Viện được
chuẩn bị kỹ càng linh hoạt là vô cùng quan trọng đối với một hệ
thống thu thập số liệu hiệu quả.
a) Tập huấn chuẩn bị cho các nghiên cứu viên của Viện
Nghiên cứu Gia đình và Giới (IFGS)
Nhóm chuyên gia quốc tế đã tiến hành một hội thảo đào tạo
nửa ngày cho 12 nghiên cứu viên của Viện Nghiên cứu Gia đình
và Giới, giới thiệu tổng quan về nhiệm vụ đánh giá năng lực;
phương pháp luận; và chuẩn bị cho các nhóm nghiên cứu để sử

dụng các công cụ đánh giá năng lực đối với thực địa.
b) Thu thập dữ liệu thực địa
Thu thập dữ liệu thực địa được thực hiện từ ngày 3 đến 24
tháng 11 năm 2009. Mười hai nghiên cứu viên của Viện Nghiên
cứu Gia đình và Giới được tập huấn cơ bản về phương pháp và
các công cụ để tham gia thu thập dữ liệu thực địa. Ngoài ra, còn
sáu nghiên viên khác tham gia nhóm để giúp tiến hành quá trình
thu thập số liệu thực địa.
Ba thành viên của nhóm chuyên gia quốc tế chịu trách
nhiệm đảm bảo về chất lượng đối với các nhóm nghiên cứu thực
địa bằng cách phân công một thành viên phụ trách hai nhóm chịu
trách nhiệm đối với các tỉnh miền Nam, một phụ trách các nhóm
chịu trách nhiệm đối với các tỉnh miền Bắc và hai phụ trách các
nhóm chịu trách nhiệm đối với các cơ quan Trung ương và Hà
Nội. Đôi khi, tất cả bốn nhóm nghiên cứu cùng đồng thời tiến
hành công việc, ngăn cản việc giám sát kỹ thuật lên tất cả các
công việc thực địa.
18


Vào cuối thời gian thực địa ở mỗi một tỉnh đều thực hiện các
phiên phản hồi. Các phỏng vấn sâu đã được tiến hành với một
đại diện từ các cơ quan chủ chốt quan trọng nhất trong thực hiện
hai luật. Ở cấp trung ương có 7 cơ quan, gồm: Bộ Y tế, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Bộ Tư pháp, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, một số tổ chức về
cộng đồng (CBOs) và Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ
(NCFAW). Ở cấp tỉnh có tám cơ quan: Sở Lao động – Thương
binh và Xã hội (DOLISA), Sở Kế hoạch và Đầu tư (DPI), Ban vì
sự tiến bộ của phụ nữ (CFAWs), Hội phụ nữ, Sở Văn hóa, Thể

thao và Du lịch, Sở Y tế, Sở Tư pháp và Sở Nội vụ.
c) Các phiên báo cáo tóm tắt
Các nhóm nghiên cứu thu thập số liệu thực địa đã thực hiện
hai phiên báo cáo tóm tắt với chuyên gia tư vấn quốc tế về những
hạn chế phải đối mặt trong quá trình ở thực địa và trình bày
những phát hiện chính có được trong các Bảng kiểm cuối cùng ở
các tỉnh (xem Mẫu 13, Phụ lục 1).
d) Phân tích và tổng hợp số liệu
Phân tích ban đầu các số liệu được các nhóm nghiên cứu của
Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới thực hiện và trình bày với
Chuyên gia quốc tế thông qua các phiên báo cáo thảo luận tóm
tắt và qua các bản báo cáo. Chuyên gia quốc tế tổng hợp các
phân tích từ các nhóm nghiên cứu. Chuyên gia quốc tế đã thực
hiện một phân tích ở phạm vi rộng hơn đối với toàn bộ tập hợp
cơ sở dữ liệu thu được. Sau đó Chuyên gia quốc tế tổng hợp
những phát hiện cho báo cáo về những khoảng trống cụ thể trong
năng lực của tổ chức ở cấp trung ương và cấp tỉnh.
e) Trình bày và thông qua các kết quả
Các mục tiêu của hoạt động đánh giá năng lực, phương pháp
luận, những phát hiện và các khuyến nghị chính đã được trình
bày tại một Hội thảo tổ chức ở Hà Nội, tháng 12 năm 2009 để
xem xét và thông qua những phát hiện và các khuyến nghị chính.

19


2.3. Phương pháp luận và các công cụ để thu thập và
phân tích số liệu
Nghiên cứu này đã sử dụng thảo luận nhóm trọng tâm và các
phỏng vấn sâu để thu thập số liệu.

Chắc chắn xác định được cấp độ của năng lực hiện có thông
qua các công cụ định tính và định lượng. Các số liệu mà các
công cụ thu thập được được phân tích hàng ngày ở thực địa theo
một mẫu hướng dẫn nghiệp vụ cho các nghiên cứu viên. Những
phát hiện này giúp đưa ra bất kỳ điều chỉnh cần thiết nào đối với
những câu hỏi đánh giá của ngày tiếp theo và của kế hoạch thực
địa. Những phân tích được hoàn thành sẽ được tổng hợp cho báo
cáo về những khoảng trống cụ thể trong năng lực của tổ chức và
là đầu vào cho một phân tích ở phạm vi rộng hơn và mang tính
chiến lược hơn do Chuyên gia quốc tế thực hiện. Các công cụ
thu thập và phân tích số liệu bao gồm:
1) Các hồ sơ mô tả tổ chức.
Hình thức nội dung của các hồ sơ này được mô tả chi tiết
trong Điều khoản tham chiếu đối với Viện Nghiên cứu Gia đình
và Giới (TOR) và được biên soạn từ báo cáo rà soát tài liệu và từ
việc gặp gỡ với các tổ chức. Các hồ sơ mô tả tổ chức bao gồm:
 Những môi trường điều chỉnh chính sách trong đó những
cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện hoạt động;
 Những nhiệm vụ, chức năng và chiến lược của những cơ
quan chịu trách nhiệm thực hiện;
 Cơ cấu và văn hóa tổ chức của các cơ quan chịu trách
nhiệm thực hiện: các yếu tố bên ngoài, sự liên kết/mối
quan hệ với các tổ chức khác, các quan điểm của nhóm
khách hàng/người sử dụng, văn hóa và phong cách quản lý,
cơ cấu tổ chức, hoạch định và ra quyết định chính sách;
 Những hệ thống và tiến trình của những cơ quan chịu
trách nhiệm thực hiện, bao gồm quản lý tài chính và trách
nhiệm giải trình;
 Nguồn nhân lực của những cơ quan chịu trách nhiệm thực
20



hiện (đội ngũ nhân viên, quản lý nhân sự, năng lực, khen
thưởng/tiền công, v.v).
Các hồ sơ mô tả tổ chức được coi là một nguồn đầu vào
quan trọng trong thiết kế những công cụ đánh giá khác và lựa
chọn các câu hỏi đánh giá. Các hồ sơ mô tả tổ chức cũng được
coi là một nguồn quan trọng của những thông tin cơ bản của tổ
chức. Một phân tích SWOT đối với mỗi một hồ sơ mô tả tổ chức
đã được thực hiện ở những giai đoạn khác nhau trong Báo cáo
Đánh giá Năng lực và các kết quả được thể hiện theo một mẫu
(xem Mẫu 1 trong Phụ lục 1 về mẫu). Phân tích SWOT đánh
giá những Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội và Thách thức liên
quan đến việc thông qua hai luật - những yếu tố bên trong và bên
ngoài thuận lợi và bất lợi - và nhận biết những phạm vi để tiếp
tục phát triển.
2) Các câu hỏi đánh giá.
Một tập hợp các câu hỏi đánh giá chung và chi tiết đã được
xây dựng để hướng dẫn các nhóm đánh giá năng lực để bao trùm
những vấn đề cốt lõi và những năng lực theo chức năng (Phụ lục
1). Những câu hỏi chung đã hướng dẫn các nhóm trong vòng
thăm dò đầu tiên của họ, nghĩa là: việc rà soát đánh giá của họ
đối với tài liệu, các nghị định, các luật, hồ sơ và các báo cáo).
Những câu hỏi chi tiết đã hướng dẫn các nhóm trong thu thập số
liệu tại các thảo luận nhóm trọng tâm và các phỏng vấn sâu.
3) Các kỹ thuật có sự tham gia.
Các nghiên cứu viên đã được khuyến khích sử dụng một loạt
các công cụ, theo một cách thức nhạy cảm giới, để điều hành các
thảo luận nhóm trọng tâm, bao gồm phân tích đối tác/sơ đồ Venn,
phân tích lịch sử/các dấu mốc lịch sử và các kỹ thuật thẻ/động

não (xem danh mục các công cụ và tập hợp các câu hỏi trong
Mẫu 1, Phụ lục 1).
4) Các mẫu phỏng vấn.
Mẫu phỏng vấn (Phụ lục 1) đã được thiết kế có sử dụng 5
câu hỏi chính để rút ra kết quả được dự định của Đánh giá Năng

21


lực - 5 câu hỏi chính đã được điều chỉnh đối với mỗi một cơ
quan tùy theo những vai trò và trách nhiệm chính của họ.
5) Các bảng kiểm dành cho tổ chức và các bảng kiểm dành
cho tỉnh/thành phố.
(Mẫu 13, Phụ lục 1)3. Đối với mỗi một tổ chức được phỏng
vấn ở cấp trung ương và cấp tỉnh (với tổng số 41: 35 cấp tỉnh và
6 ở cấp trung ương), một bảng kiểm dành cho tổ chức đã được
hoàn thành cho mỗi một luật. Từ các bảng kiểm dành cho tổ
chức, một bảng kiểm dành cho tỉnh/thành phố (với tổng số 5) đối
với mỗi một luật đã được hoàn thành. Mục đích của các bảng
kiểm là đánh giá liệu 11 yếu tố chính, được biết là quan trọng đối
với việc thực hiện luật thành công, có hiện diện hoặc không hiện
diện trong một tổ chức. Mức độ theo đó các yếu tố tồn tại là một
phần quan trọng của việc đánh giá năng lực thực hiện, giám sát,
đánh giá và báo cáo về hai luật.
2.4. Những người cung cấp thông tin chính
15 tổ chức và 5 tỉnh đã được chọn trước đối với đánh giá
dựa trên các tỉnh và các tổ chức mục tiêu trong Chương trình
chung (JPGE). Năm tỉnh đó là: Thủ đô Hà Nội, Thái Bình và Hà
Nam (các tỉnh miền Bắc) và Đồng Nai và Bình Dương (các tỉnh
miền Nam). Các tổ chức đã được đánh giá đó là: Ban Tuyên giáo

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Vụ các Vấn đề Xã hội),
Ủy ban các Vấn đề Xã hội của Quốc hội; các tổ chức của Chính
phủ, gồm: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông,
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn;
các tổ chức quần chúng: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam,
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
3

3. Được điều chỉnh cho phù hợp từ Phụ lục 2 một chuỗi Bảng kiểm
Giới của Hướng dẫn Lồng ghép Giới trong hoạch định và thực hiện chính
sách quốc gia - Hướng tới bình đẳng giới ở Việt Nam thông qua Hoạch định
và Chính sách quốc gia có trách nhiệm giới. NCFAW, Hà Nội, 2008.

22


Nam; và các tổ chức phi chính phủ sau đây: DOVIPNET, NEW,
GENCOMNET.
Tổng số 25 nhân viên của 15 Bộ, Vụ hoặc Ban đã được
phỏng vấn để biên tập các hồ sơ mô tả tổ chức và các thảo luận
nhóm trọng tâm và phỏng vấn sâu sau đây đã được thực hiện:
 Cấp trung ương: 5 thảo luận nhóm trọng tâm, 6 phỏng vấn
sâu.
 Hà Nội: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 3 phỏng vấn sâu.
 Hà Nam: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.
 Thái Bình: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.
 Đồng Nai: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.

Bình Dương: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.
3. BỐI CẢNH
Phần này mô tả bối cảnh xây dựng và thông qua Luật Bình
đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
3.1. Luật Bình đẳng giới
“Mặc dầu với những căn nguyên và sự đa dạng trong mô
hình, hầu hết các luật bình đẳng giới đều nổi lên từ năm 2000 và
đã trở thành sự đáp ứng phổ biến ngày càng tăng đối với bình
đẳng giới và là những nghĩa vụ do CEDAW tạo nên”4.
Luật Bình đẳng giới (GEL) ở Việt Nam có căn nguyên từ
Hội Liên hiệp Phụ nữ (WU). Hội Liên hiệp Phụ nữ đã đệ trình
dự thảo đầu tiên của luật lên Quốc hội vào năm 2005 với một
thực tiễn là rất nhiều đại biểu Quốc hội tin rằng bình đẳng giới
đã được phản ánh đầy đủ trong tất cả các luật khác, vì vậy việc
đưa ra một Luật Bình đẳng giới riêng là không cần thiết. Một
dự thảo luật do Hội Liên hiệp Phụ nữ đệ trình không phải là
thông lệ.
4

4. Những Luật Bình đẳng giới, thực tiễn điển hình trên toàn cầu và một
Đánh giá về năm (5) Quốc gia Đông Nam Á, tháng 3 năm 2009.

23


Quá trình xây dựng dự thảo đầu tiên của luật có sự hỗ trợ
của một chuyên gia tư vấn của Ngân hàng Phát triển châu Á cho
Hội Liên hiệp Phụ nữ. Ban Soạn thảo bao gồm Bộ Tư pháp, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế và Nội vụ và Hội Liên hiệp Phụ nữ
chủ trì. UNIFEM đảm bảo luật gắn kết chặt chẽ với Công ước

CEDAW đến mức có thể. Rất nhiều đại biểu Quốc hội đã được
tập huấn trong thời gian Luật được dự thảo .
Năm 2006, Luật đã được Quốc hội xem xét và Ủy ban các
vấn đề xã hội đã phải thuyết phục Quốc hội là cần thiết có một
luật riêng. Giới là một khái niệm tương đối mới ở Việt Nam và
các tổ chức của Liên hợp quốc đã đóng một vai trò đặc biệt trong
việc giới thiệu các khái niệm này.
Cuối cùng, tháng 11 năm 2006, tất cả các đại biểu Quốc hội
đã thông qua Luật. Theo đó, Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội được giao nhiệm vụ là cơ quan quản lý nhà nước về bình
đẳng giới.
3.2. Môi trường điều chỉnh chính sách - Luật Bình đẳng giới
Luật Bình đẳng giới là một khung pháp lý và là một tập hợp
các nguyên tắc. Các văn bản quy phạm pháp luật khác đã được
xây dựng để hướng dẫn thực hiện luật. Ban đầu, Ủy ban Dân số,
Gia đình và Trẻ em được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ
xây dựng các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật 5. Tuy nhiên
nhiệm vụ này đã được chuyển sang cho Bộ Tư pháp do Ủy ban
Dân số Gia đình và Trẻ em đã được giải thể theo Nghị quyết của
Quốc Hội tại kỳ họp lần thứ nhất Quốc hội Khóa XII. Cùng với
sự phối hợp của Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội, các đơn vị chức năng của Bộ Tư pháp
đã đã tích cực tiến hành việc xây dựng các dự thảo Nghị định,
bao gồm:

5

5. Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg ngày 03 tháng 5 năm 2007 về việc triển
khai thi hành Luật Bình đẳng giới.


24


- Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Bình đẳng giới về trách nhiệm quản lý nhà nước về bình đẳng
giới và phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới;
- Nghị định quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng
giới;
- Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình
đẳng giới.
Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bình đẳng
giới cho đến nay bao gồm:
 Luật Bình đẳng giới (GEL).
 Chỉ thị số 10/2007/CTG ngày 3 tháng 5 năm 2007 của
Thủ tướng Chính phủ để triển khai thực hiện Luật Bình
đẳng giới.
 Nghị định số 70/2008NĐ-CP ngày 4 tháng 6 năm 2008
hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Bình đẳng giới.
 Nghị định số 48/2009NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2009
về các biện pháp đảm bảo bình đẳng giới.
 Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009
về xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm Luật
Bình đẳng giới.
 Thông tư số 191/2009/TT-BTC ngày 1 tháng 10 năm
2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn sử dụng và quản lý
nguồn kinh phí phân bổ cho các hoạt động bình đẳng giới
và vì sự tiến bộ phụ nữ.
Giới được ghi nhận như một ưu tiên phát triển trong Kế
hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2006 - 2010. Chiến

lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn 2006 - 2010 đưa
ra những mục tiêu cụ thể để thúc đẩy bình đẳng giới. Chiến lược
này và Kế hoạch hành động 5 năm có từ trước khi luật được ban
hành và vẫn tiếp tục có giá trị hiệu lực. Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội chịu trách nhiệm đối với Chiến lược quốc gia, với
Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ hoạt động như một cơ
quan tham mưu và các Bộ có liên quan khác như các cơ quan
25


×