Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.91 KB, 15 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Khái niệm – ý nghĩa – nhiệm vụ - nội dung của phân tích hiệu quả hoạt động
kinh doanh.
1.1.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động kinh doanh:
Hiệu quả hoạt động kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh như nguồn lực, tư liệu kinh doanh, đối tượng
lao động nên có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí
thấp nhất.
Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh là quá trình nghiên cứu để đánh giá toàn
bộ quá trình và hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp nhằm làm rõ chất lượng
hoạt động kinh doanh và các nguồn tiềm năng cần khai thác, từ đó đề ra các phương án và
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
1.1.2. Ý nghĩa hiệu quả hoạt động kinh doanh:
Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh:
Là cơ sở để ra các quyết định kinh doanh.
Là công cụ quan trọng trong những chức năng quản trị có hiệu quả ở doanh
nghiệp.
Là điều hết sức cần thiết đối với mọi doanh nghiệp. Nó gắn liền với hiệu quả
hoạt động kinh doanh chỉ ra hướng phát triển của các doanh nghiệp
Là biện pháp quan trọng để phòng ngừa rủi ro.
1.1.3 Nhiệm vụ - Nội dung hiệu quả hoạt động kinh doanh:
1.13.1 Nhiệm vụ:
Đánh giá kết quả thực hiện được so với kế hoạch hoặc so với tình hình thực hiện
kỳ trước, các doanh nghiệp tiêu biểu cùng ngành hoặc chỉ tiêu bình quân nội ngành và các
thông số thị trường.
Phân tích những nhân tố nội tại và khách quan đã ảnh hưởng tình hình thực hiện
kế hoạch.
Phân tích hiệu quả các phương án kinh doanh hiện tại và các dự án đầu tư dài hạn.
Xây dựng kế hoạch dựa trên kết quả phân tích.
1.1.3.2 Nội dung:


Nội dung của phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh là đánh giá quá trình
hướng đến kết quả hoạt động kinh doanh với sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng, được
biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế. Nó không chỉ đánh giá biến động mà còn phân tích các
nhân tố phụ thuộc vào mối quan hệ cụ thể của nhân tố với chỉ tiêu phân tích.
Vậy trước hết phải xây dựng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế cùng với việc xác định
mối quan hệ phụ thuộc của các nhân tố tác động đến chỉ tiêu. Xây dựng mối liên hệ giữa
các chỉ tiêu khác nhau để phản ánh được tính phức tạp đa dạng của nội dung phân tích.
Phân tích dự báo, phân tích chính sách và phân tích rủi ro trên các mặt hoạt động
của doanh nghiệp.
Lập báo cáo kết quả phân tích, thuyết minh và đề xuất kế toán quản trị.
1.2 Hoạt động kinh doanh của ngân hàng :
Ngân hàng Thương mại được xem như một doanh nghiệp họat động trên lĩnh vực
kinh doanh tiền tệ, với chức năng là trung gian tín dụng, các Ngân hàng Thương mại vừa là
người đi vay vừa là người cho vay, từ đó nghiệp vụ hoạt động chủ yếu của Ngân hàng bao
gổm 3 lĩnh vực: Huy động vốn, cho vay, môi giới trung gian.
1.2.1 Hoạt động huy động vốn:
Hoạt động huy động vốn là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng
Thương mại. Vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của Ngân
hàng Thương mại. Vì vậy, nếu huy động được nhiều vốn thì có thể mang lại lợi nhuận cao
cho Ngân hàng cũng như có thể mở rộng hoạt động và cung cấp vốn cho hoạt động kinh tế.
Trên thị trường có rất nhiều loại khách hàng khác nhau, trong đó gồm có hai loại
chính: Khách hàng là cá nhân và khách hàng là đơn vị kinh tế, doanh nghiệp Nhà nước,
công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Vì thế các hình thức hoạt động vốn
cũng rất đa dạng để thích hợp với từng loại khách hàng. Hiện nay tại các Ngân hàng
Thương mại các nước có những hình thức huy động vốn như sau:
1.2.1.1 Tiền gửi thanh toán:
Ngân hàng thương mại từ khi mở cửa hoạt động thì không ngừng động viên khuyến
khích khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng. Tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi mà
người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào mà cũng không cần báo trước cho Ngân hàng và
Ngân hàng phải đáp ứng được yêu cầu đó của khách hàng

Tài khoản được sử dụng cho tiền gửi thanh toán được coi là tài khoản giao dịch hay
gọi là tài khoản Sec. Tài khoản Sec ngày nay chia ra hai loại: Tài khoản thanh toán dùng
cho các tổ chức kinh tế và tài khoản thanh toán dùng cho cá nhân.
Đặc điểm nổi bật của loại tiền gửi này là khách hàng gửi tiền vào ngân hàng đã hình
thành một khế ước mặc nhiên, trong đó ngân hàng phải thỏa mãn nhu cầu chi trả của khách
hàng bất cứ lúc nào. Nếu vi phạm Ngân hàng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật
Mục đích của loại tiền gửi này nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các
khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong tiêu dùng, tiện lợi trong việc
thanh toán bằng tiền mặt. Đối với ngân hàng loại tiền gửi thanh toán thường có sự dao
động lớn, do đó Ngân hàng chỉ áp dụng một tỉ lệ nhất định để cho vay nên Ngân hàng
thường áp dụng với lãi suất thấp.
Trong việc sử dụng tiền gửi thanh toán, khách hàng thường dùng các công cụ thanh
toán để chi trả như: séc, lệnh chuyển tiền…. trong đó séc được coi là công cụ thanh toán
chủ yếu vì sử dụng séc một mặt bảo đảm an toàn về ngân quỹ mặt khác séc là hình thức chi
trả đơn giản và tiện lợi.
1.2.1.2 Tiền gửi có kỳ hạn:
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và cá nhân sau khi thu được lợi nhuận
mà tạm thời chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định nào đó có thể ký thác vào
Ngân hàng một cách có kỳ hạn. Đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền chỉ được rút ra khi
đáo hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh tranh, các Ngân hàng cho phép khách hàng
rút tiền trước hạn với điều kiện là người gửi tiền không được trả lãi hoặc chịu một mức lãi
suất thấp hơn lãi suất trả cho tiển gửi có kỳ hạn, điều kiện tuỳ thuộc vào chính sách huy
động của Ngân hàng và loại tiền gửi định kỳ.
Tiền gửi định kỳ có nhiều loại khác nhau, thông thường có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng,
12 tháng. Khác với tiền gửi thanh toán tiền gửi định kỳ là tiền gửi tạm thời chưa sử dụng
hoặc tiền gửi để dành của các nhân. Vì vậy, mục đích gửi tiền vào Ngân hàng là nhằm
kiếm lợi tức. Do đó thường dùng biện pháp lãi suất để huy động nguồn vốn này chủ là yếu.
Hiện nay, các Ngân hàng Thương mại đang áp dụng hai loại tiền gửi định kỳ: tiền
gửi định kỳ theo tài khoản và tiền gửi định kỳ với hình thức phát hành kỳ phiếu. Nguồn
tiền gửi định kỳ là nguồn tiền gửi có tính chất ổn định ở Ngân hàng Thương mại. Do vậy,

nó có thể dùng để cho vay trung và dài hạn với lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán
không kỳ hạn. Ngân hàng áp dụng nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao.
1.2.1.3 Tiền gửi tiết kiệm:
Ở Việt Nam, tiền gửi tiết kiệm hết sức đa dạng và phong phú được chia ra làm
nhiều loại:
1.2.1.3.1 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi không có thời gian đáo
hạn, khi nào người gửi muốn rút tiền thì phải thông báo cho Ngân hàng một thời gian, tuy
nhiên ngày nay Ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền ra không cần thông báo trước.
Đây là hình thức hoạt kỳ mà đối tượng gửi chủ yếu là người tiết kiệm, dành dụm hầu trang
trãi những chi tiêu cần thiết đồng thời có một khoản lãi góp phần vào việc chi tiêu hàng
tháng. Ngoài ra, đối tượng gửi tiền có thể là những người thừa tiền nhàn rỗi muốn gởi vào
Ngân hàng để thu hoạch lợi tức đồng thời đảm bảo an toàn hơn tiển gửi ở nhà.
Loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn lãi suất thấp do Ngân hàng không chủ động
được nguồn vốn và lãi luôn được nhập vốn và thường tính lãi theo nhóm ngày gửi tiền.
Còn đối với tiền gửi thanh toán thì lãi nhập vốn vào cuối tháng.
1.2.1.3.2 Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: người ký thác tiền ở ngân hàng nhằm
mục đích nhất định như để mua sắm nhà cửa, trang trải chi phí học tập cho con cái… đối
với những người gửi tiền loại này ngân hàng thường cấp thêm tín dụng để bù đắp phần
thiếu hụt khi sử dụng theo mục đích của người gửi tiền.
Tiền gửi tiết kiệm định kỳ hiện nay được phân thành 2 loại: tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn dưới 12 tháng và tiền gửi tiết kiệm từ 12 tháng trở lên
Khách hàng gửi tiết kiệm định kỳ thì được ngân hàng cấp cho một bản kê lúc gửi
tiền đầu tiên và theo định kỳ hàng tháng để phản ánh tất cả số phát sinh, khách hàng quản
lý và mang theo bên người khi đến ngân hàng giao dịch.
Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút vốn khi đến hạn. Nếu rút trước hạn phải
được sự đồng ý của Ngân hàng và chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn hoặc không được hưởng lãi nếu gửi có kỳ hạn mà rút ra chưa được 1 tháng.
1.2.1.4 Kỳ phiếu ngân hàng có mục đích:là công cụ để huy động vốn tiết kiệm do
ngân hàng phát hành nhằm mục đích kinh doanh trong từng thời kỳ nhất định.
1.2.1.5 Trái phiếu ngân hàng:là công cụ huy động vốn trung gian và dài hạn vào

ngân hàng và đây là một loại chứng khoán có thể mua bán trên thị trường chứng khoán.
Thời hạn trái phiếu thường một năm.
1.2.2 Hoạt động tín dụng:
Khái niệm tín dụng:
- Tín dụng là quan hệ kinh tế được biểu hiện dưới dạng tiền tệ hay vật chất mà trong
đó người đi vay phải trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi trong thời gian nhất định
- Đối với ngân hàng thương mại, thì tín dụng có nghĩa là sự cho vay hay ứng trước
tiền do ngân hàng thực hiện, giá cả do ngân hàng ấn định đối với khách hàng đi vay mà
chúng ta thường gọi là lãi suất hay những khoản tiền hoa hồng mà người vay phải trả trong
suốt thời gian sử dụng các khoản ứng trước của ngân hàng.
* Phân loại tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường, thì hiện nay có rất nhiều hình thức tín dụng trong hoạt
động của ngân hàng như cho vay đối với doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế, cho vay
tiêu dùng, cho vay sản xuất….Tín dụng được phân ra làm hai loại: Tín dụng ngắn hạn và
tín dụng dài hạn.
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời gian cho vay dưới 12 tháng. Thông
thường là 6 tháng chiếm chủ yếu. Mục đích của loại tiền gửi này là cho vay bổ sung thiếu
hụt tạm thời vốn lưu động, đồng thời cho vay phục vụ nhu cầu cá nhân.
+ Tín dụng trung và dài hạn:
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời gian cho vay từ 1 năm đến 5
năm.Loại tín dụng này cấp cho khách hàng cần vốn để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải
tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng xây dựng các công trình có quy mô nhỏ. Thường loại tín
dụng này không nằm trong kế hoạch của nhà nước.
Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời gian cho vay trên 3 năm nằm trong kế
hoạch của nhà nước. Loại tín dụng này cho vay để đầu tư cơ bản, cải tiến và mở rộng sản
xuất đối với công trình có quy mô lớn. Loại này có nhiều rủi ro nên chiếm 1 tỷ lệ rất ít.
Nguyên tắc tín dụng:
Sử dụng vốn vay phải đúng theo mục đích ghi trên hợp đồng.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính hiệu quả của vốn vay tạo điều kiện thực hiện
việc hoàn trả nợ của đơn vị vay. Để thực hiện nguyên tắc này, mỗi lần đi vay khách hàng

phải làm đơn xin vay, trong đơn phải thể hiện rõ mục đích vay và kèm theo phương án sản
xuất kinh doanh có hiệu quả. Đơn vị vay có trách nhiệm sử dụng vốn vay có mục đích nếu
ngân hàng phát hiện khách hàng vi phạm thì ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn
Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi:
Phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là nguồn vốn đi vay. Do đó ngân hàng yêu cầu
khách hàng vay vốn phải trả cho khách hàng cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Để
thực hiện được nguyên tắc này tất cả các khoản vay của ngân hàng đều có định kỳ hạn nợ.
Khi đáo hạn thì khách hàng chủ động lập giấy trả nợ cho ngân hàng, nếu không ngân hàng
tự động trích tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu hồi nợ, nếu tài khoản tiền gửi của
khách hàng không đủ số dư thì ngân hàng sẽ chuyển sang nợ đáo hạn và tính lãi suất nợ
quá hạn.
Tiền vay phải có vật tư, tài sản tương đương làm đảm bảo
Nguyên tắc này xuất phát từ nhu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ nhằm làm cho sự
vận động của tiền tệ gắn với sự vận động của vật tư hàng hoá để đảm bảo sức mua của
đồng tiền. Để thực hiện được nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ khi đi vay và trong suốt quá
trình sử dụng vốn vay khách hàng phải có một lượng giá trị vật tư hàng hoá tương đương
làm đảm bảo có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau

×