Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NHTM CP VIETBANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.73 KB, 17 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI
NHTM CP VIETBANK – PGD VẠN HẠNH
3.1. Giải pháp
3.1.1. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả HĐV
3.1.1.1. Chính sách lãi suất
Hiện nay, các NH đang cần vốn cho hoạt động cấp tín dụng rất cao, vì nhu cầu đầu
tư của nền KT tăng cùng với xu hướng phát triển KT chung. Do đó, mặt bằng lãi suất huy
động vốn trên thị trường phải tăng, tuy nhiên gần đây NHNN đã đưa ra trần lãi suất huy
động là 14%, điều này đáng lo ngại cho các NH. Tâm lý KH sẽ chọn gửi tiền tại nơi có lãi
suất huy động cao nhất vì KH cho rằng lãi suất cao thì lãi nhận được nhiều. Việc đưa ra
một chính sách lãi suất hấp dẫn và cạnh tranh được coi là một yếu tố quan trọng trong việc
thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền gửi hiện có, đặc biệt là trong tình hình hiện
nay. Như vậy, hoạch định một chính sách lãi suất linh hoạt, nhạy bén, phù hợp với từng kỳ
hạn, đảm bảo quyền lợi cho người gởi tiền và tạo điều kiện cho NH kinh doanh có hiệu quả
là điều cần được quan tâm.
Nguồn vốn huy động chủ yếu và tương đối ổn định tại các NH thường là các khoản
tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm. Những khoản tiền gửi này khá nhạy cảm với nền KT
làm cho cầu vốn tăng cao, do đó cái giá phải trả cho cung vốn cũng tăng theo. Thực hiện
“chính sách thận trọng” tại mỗi NH để gia tăng lãi suất huy động, các NH cần phải cân
nhắc phải làm sao đảm bảo kinh doanh có lãi, phải linh hoạt trong việc nâng cao lãi suất
huy động, vừa mềm dẻo, vừa tự nhiên, vừa lâu dài, không mang tính áp đặt hành chánh và
phải phù hợp với chuẩn mực pháp lệnh của nhà nước quy định, theo đúng chính sách và
đường lối của Đảng.
Hiện nay, mức lãi suất mà CN Vietbank Vạn Hạnh đang áp dụng cho các loại tiền
gửi được xem là kém cạnh tranh. CN nên xem xét trên cơ sở quán triệt tinh thần của chính
sách thận trọng, từ đó nâng mức lãi suất huy động lên cao hơn, sao cho vừa có thể hấp dẫn
được nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, vừa có thể đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt
động của CN.
3.1.1.2. Đào tạo đội ngũ nhân sự
Các NH ngày nay đều hiểu rằng chất lượng đội ngũ nhân viên quyết định chất
lượng dịch vụ NH. Đây là đội ngũ nhân viên thường xuyên tiếp xúc với KH, là bộ mặt của


NH nên cần có kiến thức tổng quát về NH để có thể giải thích, tư vấn cho KH những thủ
tục, hình thức thanh toán sao cho KH có lợi nhất.
 Thái độ của nhân viên
Những KH mới đến giao dịch lần đầu tại NH thường mang tâm trạng ngại ngùng,
bỡ ngỡ và không hiểu hết được các hoạt động của NH. Do đó, cần phải có bộ phận hướng
dẫn KH ngay từ bước đầu tiên KH vào NH, nhưng không phải chỉ có bộ phận hướng dẫn
mà thái độ của toàn bộ nhân viên đều phải ân cần, niềm nở, tận tình chỉ dẫn để KH có thể
hiểu và có sự lựa chọn sản phẩm NH một cách có lợi nhất.
 Trình độ chuyên môn của nhân viên
Thái độ là điều quan trọng nhưng yếu tố quyết định thái độ chính là trình độ chuyên
môn của nhân viên. Khi nhân viên không thể trả lời và giải đáp mọi câu trả lời của KH,
không nắm rõ các dịch vụ của NH cũng như quy trình làm việc của NH thì làm sao có thể
thuyết phục được KH đến giao dịch tại NH mình.
Do đó, tất cả cán bộ và nhân viên NH có quan hệ trực tiếp đến các KH phải được
đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật Marketing, chuyên môn nghiệp vụ, và nghệ thuật bán các
dịch vụ NH. Bởi vì, KH luôn mong muốn tiến hành các giao dịch với các nhân viên dễ
mến, duyên dáng và thạo việc. Và còn một lý do nữa là KH của NH thường có số lượng ổn
định, có quan hệ lâu dài với NH, sản phẩm NH phân phối trực tiếp đến KH. Vì thế, cần duy
trì mối quan hệ đối với KH. Muốn duy trì trước tiên phải xây dựng, xây dựng trên mối
quan hệ giữa người và người, phải biết và nắm bắt được những yêu cầu của KH là cần
được giải quyết công việc nhanh, chính xác, đầy đủ và bình đẳng. Nếu nhân viên NH đáp
ứng tốt được các yêu cầu trên thì sẽ ngăn chặn KH đến với NH khác, ngăn chặn KH thay
đổi NH khi đối thủ cạnh tranh đưa ra sản phẩm dịch vụ hấp dẫn hơn.
Vì vậy, NH cần quan tâm đến công tác tổ chức nguồn nhân lực, có chính sách về
tuyển dụng nhân viên phù hợp, và được đào tạo về chuyên môn để NH luôn có một đội ngũ
nhân sự đáp ứng được yêu cầu phát triển trong hoạt động NH. Đối với nhân viên đã công
tác tại NH, cần có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại một cách thường xuyên, tạo điều kiện
cho họ tham gia các cuộc tập huấn, hội thảo để họ có thể nắm bắt kịp thời và sử dụng thành
thạo các công nghệ NH mới được du nhập vào nước ta.
 Đạo đức nghề nghiệp

Đội ngũ nhân viên được đào tạo trở thành người không chỉ có trình độ về chuyên
môn mà còn phải có đạo đức và trách nhiệm trong công việc. Bởi vì NH kinh doanh loại
hàng hóa đặc biệt là “tiền”, tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, do đó, cần một đội ngũ nhân viên có
trách nhiệm và đạo đức cao.
3.1.1.3. Đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ cung cấp cho KH
Đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ cung cấp cho KH là một trong những biện pháp
cơ bản nhất để gia tăng nguồn vốn huy động. Biện pháp này thích hợp với NH trong tình
hình hiện nay vì cơ cấu sản phẩm vẫn còn đơn điệu, chưa có chính sách cho từng nhóm
KH riêng biệt và sản phẩm dịch vụ NH càng đa dạng thì cơ hội gia tăng nguồn HĐV càng
cao. Hiện nay, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu của họ cũng từ
đó mà ngày càng cao và đa dạng. Muốn thu hút và giữ vững KH, NH phải tạo ra những sản
phẩm và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của họ. Bên cạnh hình thức huy động truyền thống, NH
cần phát triển thêm hình thức huy động mới để thỏa mãn tối đa nhu cầu KH nhằm gia tăng
nguồn vốn huy động của NH. Về lâu dài, NH phải dần tiến tới mục tiêu: “Bất cứ một tổ
chức hay cá nhân nào có đồng vốn nhàn rỗi cũng có thể tìm được tại NH Vietbank Vạn
Hạnh một loại hình huy động nào đó phù hợp với nhu cầu của họ”. Hiện tại, các loại tiền
gửi tại NH dành cho đối tượng KH là DN cũng như KH là cá nhân vẫn còn hạn chế. Để đa
dạng hóa sản phẩm huy động, với lợi thế công nghệ tiên tiến hiện đại, phải nâng cao hơn
nữa những tiện ích của những sản phẩm huy động hiện có, NH nên tiếp tục đưa ra những
sản phẩm mới.
 Đối với KH là DN
Sự phát triển mạnh của nền KT, kéo theo sự ra đời của hàng loạt các DN lớn nhỏ,
nhu cầu vốn ngày càng tăng, trong khi nguồn cung vốn gần như không đổi. Việc kinh
doanh của các NH trong giai đọan này là phải làm sao thu hút được nguồn tiền gửi thật
nhiều để đáp ứng cho nhu cầu vốn của các DN. Sự cạnh tranh trong việc chạy đua tìm
kiếm nguồn vốn buộc các NH phải làm sao để có thể duy trì được KH hiện có và mở rộng
KH tiềm năng. Do đó, NH Vietbank Vạn Hạnh nên bổ sung thêm các dịch vụ khấu trừ tự
động, dịch vụ chi lương, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ thuê mua sẽ tạo điều kiện tốt để gia
tăng việc thu hút tiền gửi.
Đối với tiền gửi được mở dưới dạng tài khoản thanh toán, nhằm mục đích sử dụng

các dịch vụ tiện ích thanh toán qua NH. Điều này đòi hỏi phải có một dịch vụ thanh toán
thật tiện lợi cho các DN, làm sao để các DN không cần phải mất nhiều thời gian và công
sức để thực hiện việc chi trả tiền lẫn nhau. Những dịch vụ tiện ích từ tài khoản tiền gửi
thanh toán sẽ giúp các DN thực hiện được điều đó một cách dễ dàng thông qua các phương
tiện thanh toán như chuyển tiền, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán…Tuy nhiên,
NH cần phải cải tiến các phương tiện, trang thiết bị hiện đại, thủ tục thanh toán sao cho
nhanh, gọn, chính xác, đảm bảo thanh toán cho KH kịp thời, giúp họ quay vòng được
nguồn vốn một cách nhanh chóng. Ngoài ra, vấn đề còn ở việc thu phí dịch vụ, cần phải
làm sao để các DN được hưởng những dịch vụ thanh toán một cách thuận tiện nhất cùng
với mức phí phải trả thấp nhất. Để có thể động viên thêm ngày càng nhiều đối tượng KH
này, NH nên có một chính sách ưu đãi hơn đối với những dịch vụ thanh toán lẫn nhau mà
cả hai KH đều có tài khoản tại NH mình, chẳng hạn như: giảm phí dịch vụ cho mỗi lần
thanh toán, giảm phí tối đa cho những DN chuyển tiền nhiều lần với giá trị lớn, giảm phí
tối thiểu cho những DN chuyển tiền thường xuyên với giá trị nhỏ, ưu tiên thực hiện giao
dịch trước đối với những DN thường xuyên mua bán với nhau và cùng có tài khoản tại NH
Vietbank… Chính sự tiện lợi khi cả hai bên đều có tài khoản tại NH Vietbank này, các DN
sẽ tích cực hơn trong việc kêu gọi đối tác của mình đến NH Vietbank để mở tài khoản vì
khi đó họ sẽ được giảm phí dịch vụ và được ưu tiên hơn trong các giao dịch tại NH. Như
vậy, vô hình chung nguồn vốn của NH chỉ chảy vào vì việc thanh toán giữa các KH chỉ
được thực hiện bằng các bút toán ghi có và ghi nợ đối ứng ở hai tài khoản. Như vậy, NH có
thể hoàn toàn yên tâm sử dụng nguồn vốn này để thực hiện đầu tư và cấp tín dụng thời gian
dài, đem lại lợi nhuận ngày càng cao, gia tăng hiệu quả hoạt động NH.
Đối với tiền gửi có kỳ hạn, thường được các DN gửi vào nhằm mục đích hưởng lãi
là chủ yếu. Muốn huy động nguồn vốn này được nhiều, đòi hỏi NH phải đưa ra mức lãi
suất hấp dẫn hơn. Một số DN rất ngại rủi ro trong những dự án đầu tư, nếu xét thấy lãi suất
NH không quá thấp so với nhuận đầu tư, họ sẽ đem tiền gửi vào NH, để có được sự an toàn
và mức lợi nhuận chấp nhận được. Về phía NH, khi đã tăng mức lãi suất huy động lên,
đồng nghĩa với việc tìm kiếm được hướng đầu tư và cho vay thích hợp khi đó, đảm bảo
được việc trang trải chi phí lãi cho khoản vốn đã huy động,
mặt khác, đem lại một phần lợi nhuận cho chính NH vì NH đã sử dụng nguồn vốn này

để đầu tư và cho vay đối với những dự án có thời gian dài hơn.
 Đối với KH là cá nhân
Với KH là cá nhân, nhu cầu chủ yếu của họ là an toàn, sinh lợi, tiết kiệm để sử dụng
những tiện ích trong các dịch vụ thanh toán của NH. Đa dạng hóa tiền gửi của dân cư
không chỉ dừng lại việc chỉ có tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn theo kiểu truyền
thống… mà còn có những sửa đổi theo hướng linh hoạt về thời hạn; KH có thể chọn bầt kỳ
một kỳ hạn nào (theo tuần, tháng, năm); linh hoạt về mục đích gửi tiền,…; đồng thời gia
tăng cho các tiện ích cho dịch vụ tài khoản cá nhân.
Bên cạnh các hình thức huy động hiện có, NH cần hoàn thiện và bổ sung các loại
hình huy động sau:
 Phát triển dịch vụ tài khoản cá nhân: Thời gian qua NH đã rất quan tâm phát triển dịch vụ
tài khoản cá nhân. Tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhóm KH này, NH
nên thực hiện :
− Đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của KH thông qua việc chuyển tiền từ tài khoản của cá nhân
sang tài khoản của các đơn vị, tổ chức cung ứng dịch vụ khi KH ra lệnh thanh toán.
− Gia tăng tiện ích rút tiền tự động (ATM) như: cho phép KH có thể gửi tiền vào tài khoản
thông qua máy ATM; KH có thể thanh toán chuyển khoản trực tiếp tại các máy ATM mà
không cần phải vào quầy giao dịch.
 Đổi mới, phát triển các hình thức HĐV có kỳ hạn, đặc biệt là vốn trung dài hạn:
− Đa dạng hóa kỳ hạn đối với loại tiền gửi tiết kiệm hiện có: NH có thể áp dụng hình thức
tiền gửi tiết kiệm trung dài hạn linh hoạt. Theo hình thức này, NH có thể đưa ra các loại
tiền gửi có kỳ hạn hai, ba, bốn, năm hay thậm chí đến năm, mười năm với nhiều hình thức
trả lãi linh hoạt. Chẳng hạn như trả lãi một lần vào cuối kỳ (được hưởng lãi suất cao nhất);
trả lãi nhiều kỳ, vốn giữ nguyên (được hưởng lãi suất có kỳ hạn tương đương với thời gian
đã gửi tính đến thời điểm rút lãi); gửi nhiều lần góp thành số tiền lớn mới rút một lần; gửi
một lần dài hạn nhưng rút vốn nhiều kỳ và lãi được tính theo kỳ hạn tương đương… Một
trong sự lo lắng của người gửi tiền dài hạn là sự biến động của lãi suất; nếu lãi suất tăng họ
sẽ bị thiệt hại hơn so với gửi ngắn hạn. Vì vậy, để khuyến khích KH, NH có thể quy định
lãi suất sẽ được linh hoạt. Điều đó có nghĩa là lãi suất sẽ được cố định trong một khoảng
thời gian nhất định ban đầu và sau đó, cứ sau mỗi kỳ trả lãi, lãi suất sẽ biến đổi linh hoạt

theo thị trường. KH sẽ yên tâm hơn khi gửi dài hạn vào NH.
Hiện nay, KH gửi tiền tiết kiệm chỉ được lựa chọn kỳ hạn gửi trong số các kỳ hạn
đã được NH ấn định trước. Điều này có thể gây ra bất tiện cho một số KH khi họ chỉ có thể
gửi vào kỳ hạn không phù hợp với kỳ hạn mà NH đưa ra. Trong trường hợp cần gửi để
đảm bảo an toàn họ phải chọn gửi không kỳ hạn, hoặc chọn kỳ hạn dài hơn so với nhu cầu
của mình và sau đó rút trước hạn. Dù là cách nào thì phần lãi của KH cũng rất thấp và NH
cũng không chủ động được trong việc sử dụng vốn. Nên NH huy động tiết kiệm với nhiều
loại kỳ hạn như theo tuần, tháng, năm hoặc NH thực hiện việc gửi tiền với kỳ hạn do KH
đề nghị, nhưng để đôi bên cùng có lợi, NH buộc KH phải cam kết không rút tiền trước kỳ
hạn. Trong khoảng thời gian cam kết này, NH hoàn toàn yên tâm sử dụng khoản tiền gửi
nhàn rỗi của KH, tạo nên nguồn vốn ổn định cho NH. KH ngoài việc gửi tiền theo đúng kỳ
hạn mình muốn còn được hưởng lãi suất tốt hơn, chắc chắn NH sẽ thu hút thêm nhiều KH.
− Đa dạng hóa các hình thức HĐV từ cá nhân: HĐV bằng trái phiếu dài hạn có đảm bảo
bằng USD hoặc vàng: NH trên cơ sở đầu tư trung dài hạn có thể phát hành trái phiếu dài
hạn (1 năm, 2 năm, 3 năm, 5 năm…) theo kỳ hạn hàng năm, căn cứ vào nhu cầu đầu tư.
Tiền gửi này sẽ được đảm bảo bằng USD hoặc vàng; có nghĩa là sau mỗi kỳ hạn gửi, ngoài
phần lãi được nhận, tiền gốc được đảm bảo theo giá trị USD hoặc vàng tại thời điểm họ
gửi tiền. Theo hình thức huy động này sẽ giải tỏa được tâm lý lo sợ rủi ro mất giá đồng nội
tệ của một số bộ phận dân cư.
3.1.1.4. Cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ

×