Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.75 KB, 21 trang )

THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO
TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT
NAM – CN CẦN THƠ
I. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội và hoạt động ngân hàng của
TP.Cần Thơ trong thời gian qua:
Thành phố Cần Thơ nằm ở phía nam tả ngạn hạ lưu Sông Hậu, trên quốc lộ
1A, quốc lộ 91, với hệ thống giao thông thủy, bộ rất thuận tiện cho việc giao lưu
từ TP.Hồ Chí Minh tới các tỉnh Nam Sông Hậu và ngược lại. Với những điều
kiện thuận lợi về tự nhiên, kinh tế, xã hội, TP.Cần Thơ cịn được xem là trung
tâm kinh tế, văn hóa, đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên
vận quốc tế của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và của cả nước. Mặc dù nằm
trong vùng ngập lũ hàng năm vào mùa mưa, song vì là vùng đất nông nghiệp hạ
lưu, điều kiện về đất đai, lao động, thời tiết, khí hậu, độ ẩm của Cần Thơ rất
thuận lợi cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp, mở rộng ngành nghề, và các
hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch của
thành phố.
Đầu năm 2004, thực hiện Nghị Quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính Trị về
“Xây dựng và phát triển TP.Cần Thơ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước”, Tỉnh Cần Thơ đã được chia tách thành Tỉnh Hậu Giang và
TP.Cần Thơ trực thuộc Trung Ương. Đây là một Nghị quyết quan trọng mở ra
một thời kỳ mới cho sự phát triển của TP.Cần Thơ.
Một số thành tựu nổi bật về tình hình kinh tế - xã hội, và riêng về hoạt
động ngân hàng TP.Cần Thơ đạt được sau thời gian triển khai Nghị quyết:
Năm 2005:
Sau hai năm chuyển đổi lên thành phố trực thuộc Trung Ương, kinh tế TP.
Cần Thơ có bước phát triển khá tồn diện, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều hoàn
thành vượt mức kế hoạch. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15,7%, với cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp-xây dựng (tỷ trọng 43,14%), dịch vụthương mại (tỷ trọng 39,59%), nông nghiệp (tỷ trọng 17,37%). Đời sống nhân
dân không ngừng được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người đạt 11,6 triệu
đồng/người/năm (chỉ tiêu đề ra 8,4 triệu) tăng gấp 1,84 lần so với năm 2000.


33


Giá trị sản xuất cơng nghiệp tiếp tục duy trì ở mức cao đạt 8.013 tỷ đồng,
tăng 21,57% so với thực hiện năm 2004. Trong đó, khu vực cơng nghiệp ngồi
quốc doanh có mức tăng trưởng cao nhất (52,8%), cơng nghiệp quốc doanh địa
phương giảm 10%. Tổng mức hàng hóa bán ra, doanh thu dịch vụ đạt được
25.500 tỷ đồng, tăng 31,88% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất nhập khẩu toàn
thành phố đạt 624 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ (xuất khẩu đạt 372 triệu
USD, nhập khẩu đạt 252 triệu USD).Tình hình thu ngân sách cũng có bước tăng
trưởng, đạt 1.998 tỷ đồng, tăng 21,83%, chi ngân sách đạt 1.741 tỷ đồng, tăng
40% so với thực hiện năm 2004.
Tổng vốn huy động từ nền kinh tế trên địa bàn đạt 4.811 tỷ đồng, trong đó,
huy động bằng VND đạt 4.140 tỷ đồng, chiếm 86% và ngoại tệ quy VND đạt
671 tỷ đồng chiếm 14%. So với tổng vốn huy động, huy động từ các tổ chức
kinh tế đạt 1.690 tỷ đồng (chiếm 35%), huy động tiết kiệm đạt 3.121 tỷ đồng
(chiếm 65%). Tuy vốn huy động tăng khá nhưng chỉ chiếm 46,7% trên tổng dư
nợ, phần còn lại vẫn là vốn điều chuyển từ Trung Ương và vay các TCTD khác.
Tổng dư nợ nền kinh tế tại các TCTD trên địa bàn đạt 10.300 tỷ đồng,
trong đó, dư nợ ngắn hạn đạt 7.562 tỷ đồng, chiếm 73,42% tổng dư nợ; dư nợ
trung dài hạn đạt 2.738 tỷ đồng, chiếm 26,58% tổng dư nợ. Nợ quá hạn, nợ
khoanh, nợ chờ xử lý là 340 tỷ đồng, chiếm khoảng 3,3% tổng dư nợ.
Năm 2006:
Trong năm 2006, mặc dù sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn như
biến động giá vật tư, nguyên nhiên vật liệu, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, rầy
nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn là trên lúa, tuy nhiên, với quyết tâm, TP.Cần Thơ
đã tập trung mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, sắp xếp lại các DNNN nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố đạt 16,18% so với năm 2005. So
với cùng kỳ, các chỉ tiêu kinh tế thành phố đạt được lần lượt là: tổng giá trị sản

xuất công nghiệp đạt 9.983 tỷ đồng, tăng 21%; tổng mức hàng hóa bán ra đạt
26.554 tỷ đồng (tăng 25%), tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 748 triệu USD,
tăng 16% (trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 466 triệu USD và kim ngạch nhập
khẩu đạt 282 triệu USD). Tổng thu ngân sách toàn thành phố đạt 2.462 tỷ đồng,
tăng 11% so với năm 2005 và đạt 117% so với kế hoạch Trung Ương giao; chi
ngân sách đạt 2.090 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2005 và đạt 129% dự toán kế
hoạch năm 2006.

34


Tổng vốn huy động từ nền kinh tế năm 2006 là 5.880 tỷ đồng, trong đó,
huy động bằng VND đạt 5.070 tỷ đồng, chiếm 86%; huy động bằng ngoại tệ quy
VND đạt 810 tỷ đồng, chiếm 14%. Trong 5.880 tỷ đồng vốn huy động, vốn huy
động từ các tổ chức kinh tế đạt 1.880 tỷ đồng, chiếm 32%; vốn huy động tiết
kiệm đạt 3.500 tỷ đồng chiếm 59%, vốn huy động bằng hình thức phát hành kỳ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi đạt 500 tỷ đồng, chiếm 9%.
Tổng dư nợ nền kinh tế tại các TCTD trên địa bàn đạt 11.430 tỷ đồng,
trong đó, dư nợ VND đạt 9.480 tỷ đồng chiếm 82,95% tổng dư nợ; dư nợ ngoại
tệ quy VND đạt 1.950 tỷ đồng, chiếm 17,06% tổng dư nợ. Trong tổng dư nợ
11.040 tỷ đồng, thị phần của các NHTMNN chiếm 60%, tương đương 6.858 tỷ
đồng, các NHTMCP và liên doanh chiếm 40%, tương đương 4.572 tỷ đồng. Nợ
xấu trên địa bàn tính đến cuối năm là 316 tỷ đồng, chiếm 2,76% trên tổng dư nợ,
trong đó, nợ khoanh và nợ chờ xử lý là 13 tỷ đồng, chiếm 0,11% tổng dư nợ.
6 tháng đầu năm 2007 :
Trong 06 tháng đầu năm 2007, tình hình kinh tế, xã hội của TP.Cần Thơ
tiếp tục phát triển ổn định so với cùng kỳ năm 2006. Giá trị sản xuất công nghiệp
ước đạt 5.379 tỷ đồng, tăng 18%, trong đó, khu vực cơng nghiệp ngồi quốc
doanh địa phương và Trung ương giảm 19%. Tổng mức doanh thu bán lẻ ước
đạt 6.750 tỷ đồng, tăng 36%. Kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 333 triệu USD,

giảm 7% so với cùng kỳ (kim ngạch xuất khẩu đạt 198 triệu USD, kim ngạch
nhập khẩu đạt 135 triệu USD). So với cùng kỳ, tình hình thu ngân sách đạt 1.198
tỷ đồng, giảm 6%, chi ngân sách đạt 1.025 tỷ đồng, tăng 28%.
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn thành phố trong sáu tháng đầu năm
đạt 7.350 tỷ đồng, tăng 40% so với cùng kỳ, trong đó, huy động bằng VND đạt
6.321 tỷ đồng, chiếm 86%; huy động bằng ngoại tệ quy VND đạt 1.029 tỷ đồng,
chiếm 14%. Huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 2.058 tỷ đồng, chiếm 28%, huy
động tiết kiệm đạt 4.776 tỷ đồng, chiếm 65%, huy động bằng hình thức phát
hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi đạt 516 tỷ đồng, chiếm 7% trên
tổng vốn huy động.
Tổng dư nợ nền kinh tế tại các TCTD ước đạt 12.450 tỷ đồng, tăng 19% so
với cùng kỳ, trong đó dư nợ VND đạt 10.333 tỷ đồng, chiếm 83% tổng dư nợ,
dư nợ ngoại tệ quy VND đạt 2.117 tỷ đồng, chiếm 17% tổng dư nợ. Trong tổng
dư nợ 12.450 tỷ đồng, thị phần của các NHTMNN chiếm 57%, tương đương
7.096 tỷ đồng, các NHTMCP và liên doanh chiếm 43%, tương đương 5.354 tỷ
đồng. Nợ xấu trên địa bàn ước tính đến cuối tháng 06/2007 là 210 tỷ đồng,

35


chiếm 1,68% tổng dư nợ, trong đó, nợ khoanh và nợ chờ xử lý là 12 tỷ đồng,
chiếm 0,09% trên tổng dư nợ.
II. Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ:
NHNTVN–CNCT được thành lập theo quyết định số 16/NH-QĐ ngày
25/01/1989 trên cơ sở Phòng Ngoại Hối trực thuộc Chi nhánh NHNN Tỉnh Cần
Thơ. Chi nhánh chính thức đi vào hoạt động vào ngày 01/10/1989, và là chi
nhánh thứ 11 trực thuộc NHNTVN.
Từ khi mới thành lập, bộ máy hoạt động của Chi nhánh chỉ gồm có 04
phịng ban (Kế Tốn, Kế hoạch – Tín dụng, Phi mậu dịch, Ngân quỹ - hành
chính nhân sự) với 18 cán bộ. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, chi nhánh đã

thành lập được 13 phòng nghiệp vụ và phòng giao dịch (Phòng Quan hệ khách
hàng, Phòng Quản lý rủi ro, Phịng Quản lý nợ, Phịng Kế tốn, Phịng Thanh
tốn quốc tế, Phòng Kinh doanh dịch vụ, Phòng Ngân quỹ, Phòng Vốn, Phịng
Hành chính nhân sự, Phịng Kiểm tra nội bộ, Phịng Vi tính, và hai phịng giao
dịch) với số lượng cán bộ, nhân viên gần 200 người.
Với đội ngũ cán bộ khá khiêm tốn buổi ban đầu và từng bước được bổ
sung, trình độ chun mơn nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên chi nhánh hiện nay
đã có bước trưởng thành, đã phần nào đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình
hình nhiệm vụ mới. Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ có được như
ngày nay, trước hết là nhờ sự quan tâm của lãnh đạo các cấp, sự chỉ đạo, hướng
dẫn về nghiệp vụ chuyên môn của NHNTVN, NHNN CN Cần Thơ và sự nhiệt
tình giúp đỡ của các cơ quan ban ngành, đặc biệt là tinh thần quyết tâm cao của
toàn thể cán bộ, nhân viên chi nhánh đã đưa Chi nhánh Ngân hàng Ngoại
Thương Cần Thơ vượt qua khó khăn, thử thách và trưởng thành về nhiều mặt,
thực hiện tốt chức năng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, tín
dụng, nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm thanh toán quốc tế ở
các tỉnh phía Nam, phục vụ nhiệm vụ mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại,
chi phối các hoạt động tín dụng, thương mại và dịch vụ ngoại hối trong khu vực.
Hoạt động của NHNTVN-CNCT trong thời gian qua có tác dụng và ảnh
hưởng khơng nhỏ đối với nền kinh tế sản xuất hàng hóa, quan hệ thị trường
trong và ngoài nước của TP.Cần Thơ và các tỉnh trong khu vực, tích cực góp
phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển với tốc độ ngày càng cao. Đặc biệt trong
gần 20 năm, NHNTVN-CNCT ln hồn thành vượt mức các nhiệm vụ được
giao và lập được nhiều thành tích xuất sắc, đóng góp vào thành tích và thắng lợi
của hệ thống NHNTVN nói chung và NHNTVN-CNCT nói riêng.

36


III. Thực trạng công tác huy động và sử dụng vốn của Chi nhánh Ngân

hàng Ngoại Thương Cần Thơ trong thời gian qua:
1. Công tác nguồn vốn:
BẢNG 1: NGUỒN VỐN QUA 03 NĂM
ĐVT: Tỷ VND, %

Nguồn: Bảng cân đối kế toán NHNTVN - CN Cần Thơ

Qua bảng số liệu thống kê về tình hình nguồn vốn của Chi nhánh trong ba
năm 2004-2006, tác giả nhận thấy, tổng nguồn vốn năm 2005 so với năm 2004
tăng không đáng kể. Tuy nhiên, qua năm 2006, tổng nguồn vốn giảm đến 18%
so với cùng kỳ, giảm cả nguồn vốn huy động và vốn vay từ NHNTVN.
Nguyên nhân nguồn vốn trong năm 2006 giảm (cụ thể là nguồn vốn huy
động giảm 17%) do:
- Thực hiện Nghị Quyết số 54/NQ.NHNT.HĐQT ngày 26/04/2006 của
Hội đồng quản trị NHNTVN về phương án điều chỉnh, sắp xếp lại hoạt động của
chi nhánh cấp 2 theo tinh thần Quyết định 888/2005/QĐ.NHNN ngày
16/06/2005 của Thống đốc NHNNVN, ngày 10/12/2006, NHNTVN-CNCT đã
thực hiện thành công việc chuyển tách dữ liệu, một phần số dư huy động vốn của
Chi nhánh Cần Thơ đã được chuyển sang Chi nhánh Sóc Trăng khi Chi nhánh
Sóc Trăng từ chi nhánh cấp II được chuyển lên thành chi nhánh cấp I.
- Thu nhập bình quân của người dân TP.Cần Thơ đạt mức 15 triệu đồng
/năm hiện nay là rất thấp so với mặt bằng chung của cả nước, vốn ít người dân
CHỈ TIÊU
thường đầu tư trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh nên không gởi tiền vào ngân
2004
hàng, chính vì vậy nên khả năng huy động vốn tại NHNTVN-CNCT bị hạn chế,
2005
không thể so sánh 2006 các trung tâm lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh.
với
CHỈ TIÊU

Giá trị
(tỷ VND)
04/03
(%)

37


- Cuối năm 2006, trên địa bàn TP.Cần Thơ có đến 27 TCTD đang hoạt
động, mức độ cạnh tranh có thể nói khá gay gắt, nên đã ảnh hưởng khơng nhỏ
đến khả năng huy động vốn của NHNTVN-CNCT.
Xét về tỷ trong từng loại nguồn vốn trên tổng nguồn vốn, tác giả nhận
thấy, tỷ trong nguồn vốn VND qua từng năm có tăng lên, trong khi đó tỷ trọng
ngoại tệ giảm xuống. Cụ thể, cơ cấu ngoại tệ VND/USD qua ba năm 2004-20052006 lần lượt là 43/57 - 49/51 – 60/40. Nếu phân loại theo nguồn hình thành, tỷ
trọng nguồn vốn huy động có xu hướng ngày càng tăng trong khi tỷ trọng vốn
vay NHNTVN lại có chiều hướng giảm xuống. Điều này cho thấy NHNTVNCNCT đã có một sự cố gắng lớn trong công tác tự chủ nguồn vốn.
2. Công tác sử dụng vốn:
2.1. Tình hình sử dụng vốn qua 03 năm:
BẢNG 2: TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN VAY QUA 03 NĂM
ĐVT: Tỷ VND, %

Nguồn: NHNTVN - CN Cần Thơ

Hoạt động tín dụng của NHNTVN-CNCT trong 03 năm qua, ở cả ba chỉ
tiêu đều khơng có sự tăng trưởng đáng kể. Doanh số cho vay và dư nợ VND đến
thời điểm cuối mỗi năm tuy có tăng nhưng do doanh số cho vay và dư nợ ngoại
tệ giảm mạnh nên đã ảnh hưởng đến kết quả thực hiện cuối năm của mỗi chỉ
tiêu. Tuy nhiên, tình hình này lại phù hợp với tình hình huy động vốn của Chi
nhánh trong thời gian qua (tăng CHỈ TIÊU VND, giảm huy động ngoại tệ). Về chỉ
huy động

2004
tiêu doanh số thu nợ, tuy mức tăng trưởng qua từng năm thấp, nhưng nhìn chung
2005
NHNTVN-CNCT đã thực hiện khá tốt công tác cho vay và thu nợ.
2006
2005/2004
2006/2005
DOANH SỐ CHO VAY
14,768.19
14,776.38
15,314.96
0.06
3.64
- VND

38


Một số nguyên nhân dẫn đến dư nợ của NHNTVN-CNCT giảm mạnh
trong năm 2006:
- Thực hiện Nghị Quyết số 54/NQ.NHNT.HĐQT ngày 26/04/2006 của
Hội đồng quản trị NHNTVN về phương án điều chỉnh, sắp xếp lại hoạt động của
chi nhánh cấp 2 theo tinh thần Quyết định 888/2005/QĐ.NHNN ngày
16/06/2005 của Thống đốc NHNNVN, ngày 10/12/2006, NHNTVN-CNCT đã
thực hiện thành công việc chuyển tách dữ liệu, một phần dư nợ của Chi nhánh
Cần Thơ đã được chuyển sang Chi nhánh Sóc Trăng khi Chi nhánh Sóc Trăng từ
chi nhánh cấp II được chuyển lên thành chi nhánh cấp I. (Trong những khách
hàng của Chi nhánh Sóc Trăng có những doanh nghiệp chế biến thủy hải sản có
dư nợ khá lớn như CT TNHH Kim Anh, Stapimex, Sao Ta, Út Xi,...nên ảnh
hưởng giảm nhiều dư nợ của Chi nhánh Cần Thơ).

- Do đặc thù của vùng ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất của cả nước, sơng
ngịi kênh rạch chằng chịt nên khu vực có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh các mặt hàng lương thực, thực phẩm, phân bón, vật tư kỹ thuật
nông nghiệp và thủy sản. Các doanh nghiệp lớn kinh doanh những mặt hàng này
có thể kể ra như: CT CP TNTH & CBLT Thốt Nốt (Gentraco), CT Mekong Cần
Thơ, CT TNHH Trung An, CT TNHH ADC, CT Vật Tư Kỹ Thuật Nông Nghiệp
Cần Thơ, CT CP Thủy Sản Cafatex, CT TNHH Thủy Sản Việt Hải,...Chính vì
vậy, dư nợ chủ yếu của NHNTVN-CNCT phụ thuộc rất lớn vào những ngành
hàng này. Bên cạnh yếu tố thời vụ, yếu tố môi trường (thiên tai, hạn hán, bão lũ),
dịch bệnh, các yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xuất nhập khẩu (xuất khẩu gạo,
xuất khẩu thủy sản, nhập khẩu phân bón,...), sự biến động về tình hình giá cả thế
giới ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
từ đó ảnh hưởng khơng chỉ đến dư nợ của NHNTVN-CNCT, mà còn ảnh hưởng
đến các chỉ tiêu doanh số cho vay, doanh số thu nợ. Diễn biến giá cả thị trường
xuất khẩu liên quan đến những mặt hàng trên trong thời gian qua như sau:
* Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trong thời gian qua phải đối
mặt với những khó khăn về thị trường xuất khẩu, về thu mua nguyên liệu, về
ràng buộc chất lượng của nhà nhập khẩu,...làm cho sản lượng xuất khẩu sang các
thị trường truyền thống bị giảm, tiếp tục tìm kiếm các thị trường mới nhưng
bước đầu sản lượng xuất chưa nhiều nên dư nợ của nhóm khách hàng này giảm
mạnh qua các năm về lượng giá trị và cả tỷ trọng (so với cùng kỳ, dư nợ nhóm
ngành thủy sản năm 2005 giảm 11,46%, năm 2006 giảm 36,88%; tỷ trọng so với
tổng dư nợ từ 33,33% năm 2005 giảm xuống còn 25% năm 2006).

39


* Ngược lại với ngành thủy sản, thời gian qua xuất khẩu gạo Việt
Nam đạt được những kết quả rất khả quan. Trong năm 2005, mặc dù thiên tai
liên tiếp xảy ra, nhưng cả nước vẫn được vụ mùa lớn, đặc biệt là vụ lúa Đông

Xuân và Hè thu cả nước đều cho năng suất cao. Nguồn hàng trong nước dồi dào,
các doanh nghiệp đã chủ động hơn trong việc xuất khẩu và lựa chọn bạn hàng,
giá xuất khẩu gạo tăng mạnh. Cũng vì thế, dư nợ nhóm ngành hàng lương thực
thực phẩm năm 2005 tăng trên 14% so với cùng kỳ. Qua năm 2006, do tình hình
xuất khẩu gạo gặp một số khó khăn như chịu ảnh hưởng mạnh bởi dịch bệnh
vàng lùn, lùn xoắn là, thêm vào đó, Chính Phủ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo
để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực quốc gia nên dư nợ cho vay đối với nhóm
ngành hàng lương thực thực phẩm của NHNTVN-CNCT có giảm sút về tốc độ
tăng trưởng.
* Đối với mặt hàng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vật tư kỹ thuật
nông nghiệp: đây cũng là những mặt hàng ln chiếm tỷ trọng lớn (bình qn
khoảng 20%) trong tổng dư nợ mỗi năm của NHNTVN-CNCT. Tuy nhiên, giá
cả nhập khẩu các mặt hàng này trong thời gian qua cũng ln có sự biến động.
BẢNG 3: TÌNH HÌNH DƯ NỢ PHÂN THEO CÁC CHỈ TIÊU
ĐVT: Tỷ VND, %

CHỈ TIÊU
2004
2005
2006
2005/2004
2006/2005

Nguồn: NHNTVN - CN Cần Thơ

PHÂN THEO NGÀNH HÀNG
2,686.00
2.2. Tình hình phân loại nợ và trích lập dự phịng để xử lý rủi ro
2,711.40
trong 03 năm, 2,281.66 hợp và xử lý nợ xấu:

tổng
0.95
-15.85
+ Thủy sản
1,020.68
903.71
570.41
-11.46
-36.88

40


BẢNG 4: BÁO CÁO PHÂN LOẠI NỢ, TRÍCH LẬP DỰ PHỊNG ĐỂ XỬ LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
THEO CÔNG VĂN SỐ 493/CV-NHNT-QLTD NGÀY 22/04/2005
ĐẾN 31/12/2006-2005-2004
ĐVT: triệu VND

CHỈ TIÊU
GIÁ TRỊ CỦA CÁC KHOẢN NỢ
GIÁ TRỊ TÀI SẢN ĐẢM BẢO
SỐ TIỀN TRÍCH LẬP DỰ
PHỊNG
CHỈ TIÊU
2006
2005
2004
2006
2005
2004

2006
2005
2004
DỰ PHỊNG CHUNG + DỰ PHỊNG CỤ THỂ:
5,226,982
6,242,860
6,715,371
345,084
841,978
544,640
33,656
41,168
61,538
1. Dự phịng chung:
2,608,652
3,110,280
3,352,563
0
415,510

41


BẢNG 5: TỔNG HỢP NỢ XẤU
Báo cáo theo công văn số 416/CV-NHNT.CN ngày 09/04/2007
ĐVT: triệu đồng

Nguồn: NHNTVN - CN Cần Thơ

BẢNG 6: TÌNH HÌNH XỬ LÝ NỢ XẤU

Báo cáo theo công văn số 416/CV-NHNT.CN ngày 09/04/2007
ĐVT: triệu đồng

Nguồn: NHNTVN - CN Cần Thơ

Qua các bảng số liệu tổng hợp về tình hình nợ xấu và xử lý nợ xấu, tác
giả nhận thấy, nợ xấu phát sinh trong năm của NHNTVN-CNCT năm 2005
tăng rất cao, tăng gần 40% so với số nợ xấu phát sinh trong năm 2004. Số nợ
xấu phát sinh trong năm 2005 trên 23 tỷ đồng kết hợp với số nợ xấu cuối năm
2004 chuyển qua trên 10 tỷ đồng dẫn đến tổng số nợ xấu trên 33 tỷ đồng. Sau
khi được xử lý bằng nguồn dự phòng gần 9 tỷ đồng, nợ xấu cuối năm 2005 là
24,4 tỷ đồng. Đây là mức nợ xấu cao nhất trong 03 năm 2004-2006, dẫn đến tỷ
lệ nợ xấu trên tổng dư nợ khá cao 9% (năm 2004 chỉ 3.79%).
Tuy nhiên qua năm 2006, tình hình nợ xấu phát sinh trong năm giảm rõ
rệt, chỉ phát sinh 1,35 tỷ đồng. Số nợ xấu cuối năm 2006 là 12,16 tỷ đồng chủ
yếu do nợ xấu cuối năm 2005 chuyển qua 24,4 tỷ đồng, sau đó được xử lý dự
phịng 13,14 tỷ đồng. Với số nợ xấu phát sinh trong năm thấp nên tỷ lệ nợ xấu
trên tổng dư nợ của NHNTVN-CNCT đã giảm xuống chỉ cịn 5.33%. Ngồi ra,
nhìn vào bảng tổng hợp nợ xấu, tác giả nhận thấy chủ yếu là nợ xấu khơng có
STT
khả năng thu hồi, với tỷ lệ gần 90% ở cả 03 năm.
STT
CHỈ TIÊU
CHỈ TIÊU
DƯ NỢ
2004
2005

STT


2006
31/12/2004
31/12/2005

Nợ xấu đầu năm

31/12/2006

10,989.18

1

CHỈ TIÊU

42

1

10,193.98


Tóm lại:
Qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNTVN-CNCT,
cụ thể là phân tích tình hình sử dụng vốn và chất lượng tín dụng thơng qua tỷ lệ
nợ xấu trên tổng dư nợ, tác giả nhận thấy có nhiều ngun nhân chủ quan từ
phía chính NHNTVN-CNCT và ngun nhân khách quan từ phía nền kinh tế
nói chung, các cơ quan ban ngành có liên quan, và từ phía các khách hàng của
ngân hàng dẫn đến việc phát sinh rủi ro tín dụng. Việc nhận biết được nguyên
nhân dẫn đến rủi ro để có thể đưa ra những giải pháp phù hợp là công việc quan
trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng của NHNTVN

-CNCT.
IV. Phân tích các nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tín dụng tại NNTVN–
CNCT trong thời gian qua:
1. Nguyên nhân khách quan:
1.1. Môi trường tự nhiên:
ĐBSCL với đặc điểm là vựa lúa lớn nhất của cả nước, nên có rất nhiều
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thu mua lúa gạo phục vụ cho xuất
khẩu. Tuy nhiên, mỗi năm khu vực này lại phải hứng chịu nhiều đợt thiên tai
như hạn hán, mưa bão, lũ lụt. Vì là những rủi ro bất khả kháng nên hậu quả
mang đến sau những đợt thiên tai thường không thể lường trước được. Thêm
vào đó là các đợt dịch bệnh phá hoại mùa màng (như bệnh rầy nâu, bệnh vàng
lùn, lùn xoắn lá)... Với những rủi ro từ môi trường thiên nhiên, hàng năm các
doanh nghiệp thu mua lúa gạo thường phải gánh chịu hậu quả khi không thu
mua đủ lúa gạo để cung cấp cho các hợp đồng xuất khẩu đã ký, hoặc phải chấp
hành lệnh cấm xuất khẩu gạo từ Chính Phủ để đảm bảo vấn đề an lương thực
quốc gia. Khi đó, vừa phải bồi thường cho các hợp đồng xuất khẩu, vừa có thể
bị mất khách hàng, các doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng phá sản, không
trả được nợ cho ngân hàng đối với các khoản đã vay. Đối với NHNTVNCNCT, đây được xem là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến rủi
ro tín dụng khi phần lớn các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu
gạo là những khách hàng lớn của Chi nhánh.
1.2. Văn bản luật:
Hoạt động tín dụng của NHNTVN-CNCT trong thời gian qua chịu ảnh
hưởng không chỉ từ việc hệ thống luật và các văn bản dưới luật liên quan đến
hoạt động ngân hàng có sự chồng chéo, khơng rõ ràng, khơng hợp lý, thiếu tính
43


chặt chẽ mà ảnh hưởng rõ nét nhất là từ việc các chính sách về xuất nhập khẩu,
các quy định về vấn đề an ninh lương thực được Chính Phủ ban hành, thay đổi
khá đột ngột.

Như trong thời gian vừa qua, khi Chính Phủ ban hành các văn bản về tăng
thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng mà trước đó Chi nhánh đã mở L/C bảo
lãnh nhập khẩu hoặc cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, do thuế tăng nên
việc kinh doanh của một số khách hàng bị thua lỗ, từ đó dẫn đến việc khách
hàng chậm trả nợ hoặc không trả được nợ cho ngân hàng.
Hoặc như khi ngân hàng cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
lương thực vay vốn thu mua lúa gạo xuất khẩu (một trong những ngành hàng
chủ lực của khu vực ĐBSCL, và là một trong những lĩnh vực đầu tư chủ yếu
của NHNTVN-CNCT) các doanh nghiệp đều đã ký được nhiều đơn hàng xuất
khẩu gạo, tuy nhiên sau đó, do ảnh hưởng của dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá,
để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực quốc gia, Chính Phủ đột ngột ban hành
quyết định tạm dừng xuất khẩu gạo. Việc ban hành này đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến việc thực hiện đúng tiến độ các hợp đồng xuất khẩu gạo đã ký của
các doanh nghiệp, hậu quả là nhiều doanh nghiệp thu mua lúa gạo là khách
hàng lớn của Chi nhánh đã giảm dư nợ, và thực hiện gia hạn nợ.
Khi một chính sách bị thay đổi đột ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu
thụ trên thị trường của các doanh nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất,
kinh doanh không phù hợp, khơng chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt
cầu, hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, doanh nghiệp sẽ không đảm bảo
nguồn tiền trả nợ, khi đó rủi ro xảy ra đối với ngân hàng là điều khó tránh khỏi.
1.3. Thơng tin tín dụng:
Trung tâm thơng tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN tuy hoạt động đã
đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thơng
tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng CIC chưa phải là cơ quan định mức
tín nhiệm doanh nghiệp hoạt động một cách độc lập và hiệu quả. Thêm vào đó,
vai trị nối kết các NHTM của CIC còn lỏng lẻo, chưa thực sự mang lại kết quả
như mong muốn.
Trong thời gian qua, NHNTVN-CNCT trong một vài trường hợp trước
khi quyết định cấp tín dụng, có nhiều lần đăng ký hỏi tin CIC, tuy nhiên thơng

tin do CIC cung cấp cịn khá đơn điệu, chưa đảm bảo thông tin nhanh nhạy, kịp
thời, chất lượng thông tin chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu.
44


Các NHTM nói chung và NHNTVN-CNCT nói riêng hiện nay chưa nhận
được sự phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các cơ quan chức năng như cơ
quan thuế, chi cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản.
Khi tiến hành phân tích hồ sơ khách hàng, NHNTVN-CNCT cũng còn lệ
thuộc khá nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động
tìm kiếm thơng tin hay nói cách khác có tình trạng thơng tin bất cân xứng giữa
các ngân hàng và khách hàng vay .
2. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHNTVN–CNCT:
2.1. Cán bộ tín dụng:
Năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng tại
NHNTVN-CNCT hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu công việc. Mặc dù theo
kết quả khảo sát tất cả các cán bộ tín dụng đều có trình độ đại học, tốt nghiệp
đúng chuyên ngành, tuy nhiên do độ tuổi của đa số cán bộ tín dụng cịn khá trẻ,
phần lớn vừa được tuyển dụng, cịn ít kinh nghiệm nên cần phải có thêm thời
gian để được đào tạo thêm, và đúc kết nhiều kinh nghiệm.
Bên cạnh ngun nhân trên, vẫn cịn một số ít cán bộ chưa có ý thức tự
nâng cao nghiệp vụ chun mơn, ít chịu học hỏi kinh nghiệm, chỉ thực hiện
công việc một cách thụ động.
Thêm vào đó, cơng tác phân cơng cán bộ tín dụng quản lý khách hàng
của NHNTVN-CNCT hiện nay không theo từng ngành hàng, lĩnh vực kinh
doanh nên dẫn đến việc cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không
chuyên sâu vào một ngành nghề cụ thể nào nên khơng có nhiều kiến thức
chun ngành. Khách hàng khi cung cấp các dự án, có nhiều thơng số kỹ thuật
máy móc chun ngành hồn tồn xa lạ với cán bộ tín dụng. Th chun gia
đánh giá địi hỏi chi phí cao nên chủ yếu ngân hàng tự tìm hiểu thơng tin thơng

qua sách, báo, tạp chí chun ngành, qua mạng internet. Việc khơng có kiến
thức chun mơn về chuyên ngành cần thẩm định dễ đưa đến những đánh giá
sai, gây bức xúc cho khách hàng hoặc ngược lại, khách hàng thơng tin sai mà
cán bộ tín dụng khơng biết, từ đó có những quyết định sai lầm trong cho vay.
Ngồi ra, sự gắn bó, nổ lực trong cơng việc của một bộ phận cán bộ tín
dụng tại NHNTVN-CNCT hiện chưa được phát huy do chính sách tuyển dụng,
sử dụng, phân cơng, bố trí cơng việc và vấn đề đãi ngộ chưa đủ sức thu hút.

45


2.2. Thơng tin tín dụng:
Việc thu thập thơng tin của ngân hàng về khách hàng, về ngành nghề, về
môi trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động, về các văn bản mới được
ban hành, về tình hình diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt
là những cảnh báo về các ngành hàng ngân hàng đang và sẽ đầu tư chưa được
thực hiện một cách thường xun và có tính hệ thống.
2.3. Tài sản bảo dảm:
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNTVN-CNCT trong thời gian qua
liên quan đến TSBĐ có nhiều vấn đề cần được phân tích và làm rõ:
- Việc quản lý, phân loại, cảnh báo về danh mục các TSBĐ chưa được
các cán bộ tín dụng làm thường xuyên mà định kỳ hàng năm chỉ kiểm tra trên
hồ sơ pháp lý, đánh giá lại giá trị để điều chỉnh mức dư nợ cho vay nên xuất
hiện tình trạng giá trị thanh lý thấp hơn so với giá trị thẩm định ban đầu khiến
cho ngân hàng không thể thu hồi đủ nợ gốc và lãi vay
- Quá trình định giá trị TSBĐ được ngân hàng thực hiện theo cách các
bên tự thỏa thuận sau khi cán bộ tín dụng xác định giá trị tài sản trên cơ sở
tham khảo bảng giá đất quy định do UBND TP ban hành hàng năm. Do đa số
cán bộ tín dụng tại NHNTVN-CNCT cịn khá trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm
nên chưa được trang bị đầy đủ nghiệp vụ chuyên môn trong ngành thẩm định

giá cũng như sự thông thạo về tài sản cần thẩm định, nhất là trong lĩnh vực bất
động sản. Chính vì vậy, khi tiến hành định giá, phương pháp định giá đối với
từng loại tài sản chưa được các cán bộ tín dụng sử dụng một cách thích hợp,
dẫn đến việc nếu định giá thấp, khách hàng khơng hài lịng, nhưng nếu định giá
cao ngân hàng sẽ khó đảm bảo khả năng thu hồi nợ và lãi vay trong trường hợp
khách hàng mất khả năng thanh toán.
- Tâm lý chung của phần lớn các cán bộ tín dụng khi cấp tín dụng vẫn
chủ yếu dựa vào TSBĐ. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay
cần phải được trả bằng chính dịng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh
doanh chứ không phải bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng
khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tâm lý dựa
chủ yếu vào TSBĐ sẽ làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ khơng
đánh giá chính xác được hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc
cho vay những dự án rủi ro, khách hàng khơng uy tín.

46


- Do không thể nắm bắt được chuyên môn trong tất cả các lĩnh vực, nên
không tránh khỏi việc cán bộ tín dụng khơng thể đánh giá được chính xác hiện
trạng của tất cả các loại máy móc thiết bị, nhất là đối với những máy móc thiết
bị chuyên dụng. Thêm vào đó là tình trạng thơng tin bất cân xứng về giá trị
thực của TSBĐ giữa khách hàng và ngân hàng cũng là vấn đề cần được quan
tâm. Vì khi thế chấp, cầm cố tài sản chỉ có khách hàng biết rõ về hiện trạng của
tài sản. Chính vì vậy, khi xảy ra rủi ro, việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp
khơng ít khó khăn.
- Việc cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay hiện nay chưa rõ ràng và các
vấn đề liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây cản trở khơng ít
cho ngân hàng, cụ thể:
* Ngân hàng phải đối mặt với những khó khăn trong thời gian trước

khi bán đấu giá tài sản như khơng có đầy đủ kho để bảo quản, giá trị tài sản
giảm sút nhanh, nhất là trong giai đoạn công nghệ thông tin hiện nay, khi đó, để
có thể bán, khai thác hoặc cho thuê buộc ngân hàng phải sửa chữa, đầu tư thêm,
điều này làm cho chi phí tăng lên, trong khi giá trị thu hồi từ các tài sản chưa
chắc đã thu đủ nợ gốc, hoặc như vướng mắc về hồ sơ, thủ tục pháp lý,…nên giá
bán thực tế đôi khi thấp hơn rất nhiều so với giá bán dự kiến, và vấn đề sẽ càng
trở nên khó khăn hơn nhiều đối với những tài sản chuyên dùng. Đối với tài sản
là bất động sản, do giá trị tài sản quá lớn (có những tài sản trị giá vài chục tỉ
đồng hay thậm chí vài trăm tỉ đồng) gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu
hồi nợ, vì ít người có khả năng mua được. Hơn nữa, khi bỏ ra một số tiền quá
lớn để mua lại tài sản “vỡ nợ” thì sức ép tâm lý khơng phải dễ dàng vượt qua.
* Trong việc phát mãi TSBĐ, ngân hàng chưa có thực quyền trong
việc bán, quản lý và khai thác tài sản thuộc quyền tiếp quản. Để phát mãi
TSBĐ, ngân hàng phải xin được giải quyết quyền lợi bằng việc khởi kiện ra tịa
án, do đó, tốn kém rất nhiều thời gian và chi phí.
* Sự phối hợp giữa cơ quan cơng an, viện kiểm sốt, tịa án, các sở,
ban, ngành, chính quyền địa phương trong việc xử lý TSBĐ cịn nhiều hạn chế,
chưa đồng bộ, chặt chẽ và kịp thời.
* Ngân hàng gặp nhiều vướng mắc khi nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi
hành án.

47


2.4. Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng:
Sau gần một năm triển khai quy trình tín dụng mới theo tư vấn của dự án
Hỗ trợ kỹ thuật Hà Lan, có thể nói mơ hình tín dụng mới đã thay đổi một cách
căn bản cơ chế quản lý điều hành hoạt động tín dụng truyền thống tại ngân
hàng từ trước đến nay. Hai chức năng quan trọng trong hoạt động tín dụng là
chức năng quan hệ khách hàng (bộ phận quan hệ khách hàng) và chức năng

quản lý rủi ro (bộ phận quản lý rủi ro tín dụng và bộ phận quản lý nợ) được
thực hiện tách biệt với mục đích vừa nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín
dụng vừa chú trọng mở rộng phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, phạm vi điều
chỉnh của quy trình mới chỉ giới hạn đối với nhóm khách hàng là doanh nghiệp
lớn, chưa có cơ chế quản lý điều hành trong việc cấp tín dụng đến nhóm doanh
nghiệp vừa và nhỏ và nhóm khách hàng cá thể. Do mới đi vào hoạt động nên
quy trình tín dụng mới chưa thể phát huy hết tính hiệu quả, trong q trình thực
hiện ngân hàng vẫn vấp phải những vướng mắc cần có sự thống nhất toàn hệ
thống NHNT sau thời gian triển khai quy định. Rủi ro tín dụng sẽ dễ dàng xảy
ra nếu như q trình cấp tín dụng vẫn tiến hành theo cách thức vận dụng khá
“linh hoạt” quy trình tín dụng như ngân hàng đã thường thực hiện trước đây.
2.5. Công tác thẩm định:
Trong quy trình cấp tín dụng, thẩm định được xem là bước quan trọng và
ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả của khoản vay. Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra nếu
công tác thẩm định không được thực hiện tốt. Khi tiến hành thẩm định, cán bộ
tín dụng phải tiến hành thẩm định cả yêu tố uy tín, năng lực quản lý và năng
lực quản trị của khách hàng.
Tuy nhiên, hiện nay, cơng việc đánh giá uy tín của khách hàng đang là
vấn đề thật sự khó khăn khi nguồn thơng tin và khả năng phát tín hiệu của
khách hàng cịn hạn chế. Cán bộ tín dụng khi đánh giá chủ yếu dựa vào cảm
tính và chủ quan, như căn cứ vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay
trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, cịn đối với khách hàng mới
quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc
với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong khi đó đối
tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực
kinh tế tư nhân thì cịn q non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
chưa có danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây
dựng uy tín và thương hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai
trị của mình, chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp thành viên phát triển,


48


nhất là việc giới thiệu các thành viên cho thị trường nên đã dẫn đến việc thu
thập thông tin để đánh giá đối với khu vực kinh tế trên là rất khó khăn.
Về năng lực quản trị, mặc dù nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết
định sự thành bại của doanh nghiệp và cũng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả
đồng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn nhân lực, nhất là bộ
phận lãnh đạo của khách hàng hiện nay hồn tồn chưa có cơ sở, chủ yếu là liệt
kê bằng cấp và số năm công tác. Kết quả là việc đánh giá năng lực quản lý của
khách hàng chỉ mang tính hình thức, khơng đánh giá đúng thực chất.
Về năng lực tài chính, công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa
vào việc phân tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp.
Hiện nay do Việt Nam chưa có quy định về minh bạch thơng tin nên có thể nói
độ tin cậy của các báo cáo tài chính chưa thật sự cao, nhất là đối với các
DNTN. Ngân hàng dù biết kiểm tốn báo cáo tài chính là tốt nhưng cũng không
dám đề nghị khách hàng thực hiện vì sợ mất khách hàng. Từ những số liệu
chưa thực sự tin cậy nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ khơng phản ánh
đúng thực chất năng lực tài chính của khách hàng.
Đối với các dự án/phương án, thẩm định tính hiệu quả là khâu quan trọng,
ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Tuy nhiên do có
nhiều nhân tố chủ quan và khách quan tác động nên đã dẫn đến chất lượng
đánh giá phương án/dự án vay chưa thật sự hiệu quả:
- Khi nhận một dự án, cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định các khía
cạnh như yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả các yếu tố kinh tế, xã hội
của dự án. Tuy nhiên, việc thẩm định dự án trong một môi trường thiếu thông
tin như của Việt Nam là một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định. Trên
thị trường hiện nay, có rất ít doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu
thị trường. Do đó, khi đánh giá thị trường đối với sản phẩm của dự án, cán bộ
thẩm định chủ yếu phải dựa vào các nguồn thơng tin khơng chính thức, thu thập

qua báo chí, internet,…
- Thêm vào đó, trình độ xây dựng dự án/phương án sản xuất kinh
doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
cịn yếu.
- Ngồi ra, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà Nước
thường xuyên thay đổi, khơng có tính minh bạch và khơng có tính dự báo cũng
có thể gây ra nhiều rủi ro cho dự án, như: các chiến lược phát triển vùng,

49


ngành; các quy định liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về mơi
trường, …
- Một khó khăn khác trong cơng tác thẩm định dự án đó là xác định
một suất chiết khấu phù hợp mức độ rủi ro của dự án và doanh nghiệp vay vốn.
Ở Việt Nam, thị trường chứng khốn và các dịch vụ tài chính chưa phát triển
nên việc xác định suất chiết khấu dựa trên mơ hình CAPM khó có thể thực hiện
được. Các cán bộ tín dụng thường sử dụng lãi suất cho vay làm suất chiết khấu.
Suất chiết khấu được áp dụng cào bằng như nhau giữa các dự án có mức độ rủi
ro khác nhau có thể để lọt những dự án có độ rủi ro cao.
- Tiêu chuẩn thống nhất chung về mặt bằng đánh giá, xếp loại doanh
nghiệp giữa các ngân hàng chưa có sự thống nhất, chưa được tiến hành thường
xuyên, định kỳ, một số ngân hàng còn xem việc này chỉ mang tính hình thức.
Kết quả là việc đánh giá dự án khơng mang tính khả thi, nhất là trong
điều kiện trình độ cán bộ thẩm định còn chưa được chuyên sâu.
2.6. Nguyên nhân khác:
Do áp lực phải hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch hàng năm, chạy theo thành
tích muốn tăng nhanh dư nợ vào thời gian những tháng cuối năm, không chỉ
riêng NHNTVN-CNCT mà hầu hết các NHTM đều xảy ra tình trạng hạ thấp lãi
suất cho vay, hạ thấp điều kiện tín dụng để thu hút khách hàng, dẫn đến việc

cạnh tranh thiếu lành mạnh. Cơng tác thẩm định chỉ được thực hiện mang tính
hình thức, buông lỏng khâu kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay.
3. Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng vay vốn:
3.1. Đối với khách hàng là doanh nghiệp:
Trong thực tế hoạt động tín dụng tại NHNTVN-CNCT, rủi ro tín dụng
xuất phát từ phía khách hàng là doanh nghiệp thường do các nguyên nhân:
- Sau khi nhận được vốn vay, các doanh nghiệp thường có động cơ sử
dụng vốn vào các mục đích rủi ro với mức sinh lợi cao. Tuy nhiên, vấn đề các
doanh nghiệp sử dụng vốn vay khơng đúng mục đích khơng chỉ do ý chí chủ
quan của doanh nghiệp mà cịn xuất phát từ công tác giám sát khách hàng sau
khi cho vay của ngân hàng chưa thật sự chặt chẽ. Thêm vào đó, do Việt Nam
vẫn cịn thói quen sử dụng tiền mặt, trong khi khách hàng cùng một lúc quan hệ
với nhiều ngân hàng nên một số khoản vay rất khó kiểm soát, việc sử dụng vốn
vay chồng chéo giữa các ngân hàng là rất phổ biến mà ngân hàng rất khó có thể
50


phát hiện. Trong một số trường hợp do tâm lý ỷ lại là ít khi bị pháp luật trừng
trị khi vi phạm hợp đồng nên khách hàng đã sử dụng khoản tiền trả nợ cho
ngân hàng để dùng vào những mục đích khác, làm cho nợ vay khơng được trả
đúng hạn, thể hiện ở những khoản nợ quá hạn và gia hạn nợ.
- Khách hàng hiện nay của chi nhánh vẫn cịn khá đơng các DNNN.
Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình các DNNN chưa thật sự nỗ lực
trong việc sử dụng vốn vay có hiệu quả. Vì do doanh nghiệp ln có tâm lý ỷ
lại vào cơ chế xử lý của Nhà nước, nếu kinh doanh thua lỗ doanh nghiệp cũng
vẫn tồn tại, trả nợ vay không được Nhà nước sẽ có cơ chế xử lý. Chính vì tâm
lý này mà một số DNNN rất thiếu sự cẩn trọng trong việc quyết định đầu tư.
Chỉ cần có ý tưởng là đề xuất dự án vay vốn ngân hàng. Vì khơng có sự nghiêm
túc trong quyết định đầu tư nên quá trình triển khai thực hiện dự án gặp rất
nhiều vướng mắc, có khi dẫn đến dự án bị phá sản, toàn bộ nguồn vốn đã đầu

tư đều bị mất. Hành vi ỷ lại này thể hiện rất rõ trong quá trình triển khai thực
hiện dự án của các DNNN. Rất hiếm khi các doanh nghiệp đánh giá kết quả
thực hiện cho từng giai đoạn để thấy được những mặt làm được cũng như
những tồn tại cần khắc phục và dự báo những khó khăn, trở ngại phải đối mặt
trong thời gian tới để đảm bảo cho việc thực thi dự án thành cơng. Chính từ sự
thiếu trách nhiệm đã dẫn đến một số dự án bị thua lỗ.
- Hầu hết các hách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thơng
tin đầy đủ và chính xác để phục vụ cho việc cấp tín dụng: các báo cáo tài chính
thường thiếu sự minh bạch, trung thực, khơng được kiểm tốn hoặc một số
doanh nghiệp tuy có thực hiện kiểm toán nhưng chậm so với thời gian ngân
hàng cần có để sử dụng cho q trình phân tích.
- Cơng tác quản lý, điều hành của một số doanh nghiệp chưa hiệu quả.
Năng lực điều hành của Ban lãnh đạo còn nhiều hạn chế, chưa đủ kinh nghiệm
và tầm nhìn về lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh, trình độ, kiến thức về
quản lý kinh tế yếu kém thể hiện qua việc doanh nghiệp khơng có chiến lược
kinh doanh rõ ràng, cụ thể, khơng có kế hoạch kinh doanh được triển khai,
khơng chủ động trong việc tìm kiếm thông tin về sự biến động của giá cả thị
trường, ngành hàng, về tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác, đối thủ
cạnh tranh, từ đó doanh nghiệp khơng có khả năng thích ứng kịp thời với sự
biến động và sức ép cạnh tranh ngày càng tăng của thị trường và môi trường
kinh doanh, cũng như các sản phẩm làm ra khơng có sự gắn kết, khơng đáp ứng
được thị hiếu của người tiêu dùng... Đa phần các doanh nghiệp vay vốn nhằm
mục đích mở rộng quy mơ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Song hầu hết các
doanh nghiệp lại ít chịu mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ
51


máy điều hành, giám sát kinh doanh, tài chính, kế tốn theo đúng
chuẩn mực.
Quy mơ kinh doanh mở rộng q lớn so với tư duy quản lý là nguyên

nhân dẫn
đến sự phá sản của hầu hết các doanh nghiệp.
- Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên về trình độ chun mơn,
tay nghề,
kỷ thuật và kỹ luật lao động.
- Thói quen sản xuất, kinh doanh theo kiểu phong trào: thấy
lĩnh vực
nào có hiệu quả, các doanh nghiệp thường đổ xơ đầu tư mà khơng
xem xét đầy
đủ mọi khía cạnh.
- Cơng nghệ, quy trình sản xuất của doanh nghiệp khơng tạo
ra được
những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Nguyên nhân một mặt do Ban
lãnh đạo
chưa đủ tầm nhìn mặt khác do sự phát triển quá nhanh của các tiến bộ
khoa
học, kỹ thuật và công nghệ.
- Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường
pháp lý, môi
trường kinh tế - xã hội như sự thay đổi quan điểm và sở thích của
người tiêu
dùng, thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, khủng bố...
3.2. Đối với khách hàng là cá nhân:
Với các khách hàng là cá nhân, nguyên nhân dẫn đến rủi ro chó
NHNTVN-CNCT thường do:


- Hoạt động kinh doanh của khách hàng không gặp thuận lợi,
khả năng
quản lý tình hình tài chính yếu kém.

- Nguồn hồn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy
giảm do
mất việc, chuyển sang công việc kém hơn hoặc khơng cịn khả năng
lao động.
- Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống nên
phải sử
dụng một số tiền lớn do đó ảnh hưởng khả năng hồn trả nợ cho ngân
hàng.
- Đạo đức cá nhân không tốt: cố tình lừa đảo ngân hàng, sử
dụng vốn
sai mục đích...



×