Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐÓNG TÀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.3 KB, 69 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐÓNG TÀU,
VẬN TẢI BIỂN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN CHI NHÁNH THỦ ĐÔ
I. Giới thiệu về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi
nhánh Thủ Đô
1.1. Giới thiệu chung về chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Chi Nhánh Thủ Đô
1.1.1. Bối cảnh ra đời
Với mục tiêu phát triển bền vững, từng bước củng cố nâng cao vị thế và vai
trò của NHNo & PTNT Việt Nam đối với sự nghiệp hiện đại hoá công nghiệp hoá
đất nước. Từ đầu năm 2000, NHNo & PTNT Việt Nam có những bước chuyển biến
rất rõ nét trong việc xác định chiến lược kinh doanh, xác định thị trường, thị phần.
Quá trình xây dựng và thực thi chiến lược kinh doanh tại các đô thị loại I nhằm thu
hút nguồn vốn, hiện đại hoá công nghệ, triển khai ứng dụng các dịch vụ ngân hàng
hiện đại đã cho thấy với định hướng đúng, giải pháp phù hợp, NHNo & PTNT Việt
Nam đã thu được những kết quả khả quan, tạo nên sức mạnh mới, vị thế mới trong
hoạt động ngân hàng trong nước và quốc tế. Trong khi đó, khu vực phía Chi Nhánh
Thủ Đô là nơi phát triển các khu công nghiệp, thu hút nhiều doanh nghiệp có tiềm
năng lớn như: Tổng công ty vật tư nông nghiệp, Tổng công ty cà phê, Công ty xây
dựng số 3…Ngoài ra còn có các doanh nghiệp làm kinh tế của Quân đội đang
chiếm tỷ lệ đáng kể trên địa bàn. Nhìn chung các nhà máy, xí nghiệp đang có xu
hướng chuyển dần sang khu vực ven đô phía tây. Để đáp ứng cho yêu cầu phát
triển kinh tế của thủ đô nói chung và nhu cầu phát triển kinh doanh của các thành
phần kinh tế trên địa bàn nói riêng, đòi hỏi hoạt động của các Ngân hàng thương
mại phải đa dạng, phong phú cả về vốn và các dịch vụ tiên tiến của ngân hàng hiện
đại. Trong bối cảnh đó NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô được thành lập và đưa
vào hoạt động để khai thác tiềm năng kinh tế tại chỗ, thực hiện chức năng trung
gian tín dụng, cung cấp các dịch vụ tiên tiến hiện đại cho các thành phần kinh tế xã
hội trong khu vực nói riêng và Hà Nội nói chung.
Ngày 24/12/2007 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh
Thủ đô được nâng cấp và phát triển từ chi nhánh cấp II Bùi Thị Xuân thành chi


nhánh cấp I theo Quyết định số 1377/QĐ/HĐQT-TCCB của Chủ Tịch Hội Đồng
Quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Việt Nam.
Ngân hàng NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô là Chi nhánh cấp I trực thuộc
Ngân hàng NHNo & PTNT Việt Nam. Một Ngân hàng thương mại hàng đầu có
vốn điều lệ lớn nhất, hệ thống mạng lưới rộng khắp Việt Nam.
1.1.2. Chức năng nhiệm vụ của Chi nhánh NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ
Đô
Theo Pháp lệnh Ngân hàng Nhà Nước và điều lệ hoạt động của NHNo &
PTNT Việt Nam, NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô có những chức năng và
nhiệm vụ chủ yếu sau: Huy động vốn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ với nhiều
hình thức: mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, kì phiếu, trái
phiếu…Đầu tư vốn tín dụng bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các thành
phần kinh tế. Làm đại lý và dịch vụ uỷ thác cho các tổ chức Tài chính, Tín dụng và
cá nhân trong và ngoài nước như tiếp nhận và triển khai các dự án, dịch vụ giải
ngân cho các dự án, thanh toán thẻ Tín dụng, séc du lịch…Làm đại lý nhận lệnh
cho Công ty chứng khoán - Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Thực hiện thanh toán
bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ như: Chuyển tiền điện tử trong nước, thanh toán
quốc tế qua mạng SWIFT…Chi trả kiều hối, mua bán ngoại tệ, chiết khấu, cho vay
cầm cố các chứng từ có giá. Bảo lãnh bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ dưới nhiều
hình thức khác nhau trong và ngoài nước. Thực hiện các dịch vụ khác.
1.1.3. Cơ cấu tổ chức
Trong nhiều năm qua, cùng với sự mở rộng của hệ thống NHNo&PTNT Việt
Nam và sự phát triển của chi nhánh cũng kéo theo những thay đổi về cơ cấu tổ
chức theo hướng mở rộng hơn, nhiều phòng ban mới, số lượng cán bộ công nhân
viên vì thế mà cũng tăng lên để đáp ứng được yêu cầu mới.
Trong công tác xây dựng, ổn định mô hình tổ chức, chi nhánh Chi Nhánh Thủ
Đô luôn coi trọng đội ngũ cán bộ, luôn bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực
chuyên môn, năng lực quản lý điều hành và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu
Tại hội sở, Phòng tín dụng có nhiệm vụ
Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng

và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm, mở rộng theo
hướng đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín
dụng sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Phân tích kinh tế theo ngành, nghề kinh tế
kỹ thuật, danh mục khách hàng lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả
cao. Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng trung hạn và dài hạn theo
phân cấp uỷ quyền. Thẩm định các dự án, hoàn thiện hồ sơ trình NHNo & PTNT
cấp trên theo phân cấp uỷ quyền. Tiếp nhận thực hiện các chương trình, dự án
thuộc nguồn vốn trong nước, nước ngoài. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguồn vốn
thuộc Chính phủ, Bộ, Ngành khác và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài
nước. Xây dựng và thực hiện các mô hình tín dụng thí điểm, thử nghiệm trong địa
bàn và ngoài địa bàn đồng thời theo dõi, đánh giá, sơ kết, tổng kết; đề xuất Tổng
giám đốc cho phép nhân rộng và thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng ngoài
địa bàn. Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và
đề xuất hướng khắc phục. Giúp Giám đốc chi nhánh chỉ đạo, kiểm tra hoạt động tín
dụng của các chi nhánh NHNo & PTNT trực thuộc trên địa bàn.
1.1.4. Mô hình tổ chức màng lưới
Từ việc xây dựng hướng đi, mặc dù hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
nhưng Ngân hàng đang có xu hướng phát triển lấy các Doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh vừa và nhỏ, các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm đối tượng phục vụ
nhất là lấy khách hàng là mục tiêu phục vụ chủ yếu.
Mỗi thành công mà NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô đạt được cần phải kể
đến vai trò của Bộ máy quản lý Ngân hàng trong việc bố trí người lao động để phát
huy tối đa năng lực của từng người.
Khi mới thành lập, Chi nhánh chỉ có 39 cán bộ và 04 phòng nghiệp vụ, Ban
giám đốc. Cho đến nay Chi nhánh đã có 186 cán bộ (116 cán bộ trong biên chế và
70 cán bộ hợp đồng) với 184 cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. Hiện nay
Chi nhánh có 07 phòng giao dịch. Phòng giao dịch Nhân Chính, Phòng giao dịch
Trường Chinh, Phòng giao dịch Hàng Trống, Phòng giao dịch Hàng Lược, Phòng
giao dịch Hoàng Văn Thái, Phòng giao dịch số 08, Phòng giao dịch Nguyễn An
Ninh.

Cho đến nay các Phòng giao dịch hoạt động kinh doanh bước đầu đã có hiệu
quả. Đồng thời các phòng đều có qui định chức năng nhiệm vụ, qui chế hoạt động
rõ ràng, bổ nhiệm các chức danh điều hành gồm các Giám đốc phòng giao dịch,
Phó giám đốc phòng giao dịch phù hợp với trình độ nghiệp vụ và khả năng đáp
ứng công việc của từng người, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành công việc
chung trong toàn Chi nhánh NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô.
1.1.5. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo& PTNT Chi
Nhánh Thủ Đô
1.1.5.1. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
+ Những thuận lợi
- Nền kinh tế Việt Nam nói chung và nền kinh tế thủ đô trước thời điểm và
khi gia nhập WTO vẫn đang trên đà tiếp tục phát triển và ổn định, các thành phần
kinh tế trên địa bàn thủ đô đang tự khẳng định mình trong cơ chế thị trường… Do
đó nhu cầu sử dụng dịch vụ Ngân hàng tăng lên rất lớn, đông đảo người dân làm
quen và sử dụng tiện ích dịch vụ Ngân hàng. Kết hợp với một số chính sách của
Nhà nước và của Thành phố đã thông thoáng hơn có tác dụng tích cực thúc đẩy các
thành phần kinh tế phát triển, tạo môi trường thuận lợi cho Ngân hàng hoạt động
phát triển các loại hình dịch vụ như: Mở tài khoản, gửi tiền, thanh toán, cho vay.....
- Trong lĩnh vực Ngân hàng: Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước có nhiều chủ
trương, chính sách mới theo hướng mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho
các ngân hàng thương mại.
- Ngân hàng NHNo & PTNT Việt Nam đã đưa ra nhiều hình thức huy động
dự thưởng có lãi suất hấp dẫn đã tạo thuận lợi cho các Chi nhánh huy động tốt
nguồn tiền gửi từ dân cư.
- Có sự quan tâm chỉ đạo của Ban lãnh đạo Ngân hàng NHNo & PTNT Việt
Nam, một số cơ chế, qui chế đã ban hành hoặc bổ sung, sửa đổi phù hợp với hoạt
động kinh doanh, tạo sự chủ động cho các Chi nhánh trong hệ thống.
- Sự đoàn kết nhất trí trong Chi bộ và Ban Giám đốc NHNo & PTNT Chi
Nhánh Thủ Đô cùng với sự cố gắng, nỗ lực của tập thể Cán bộ công nhân viên toàn
Chi nhánh.

+ Những khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên, Chi nhánh NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô
cũng gặp không ít những khó khăn, đó là:
- Về môi trường kinh doanh: Trên địa bàn có nhiều các NHTM hoạt động,
cạnh tranh gay gắt trên các mặt như lãi suất huy động vốn, cho vay, phí dịch vụ….,
khách hàng có uy tín đều có quan hệ chặt chẽ với một tổ chức tín dụng nào đó. Do
đó, Chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm và tiếp cận khách hàng.
- Giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng cao, giá vàng tăng đột biến vào dịp cuối
năm, thị trường bất động sản đóng băng đã tác động mạnh đến tâm lý người dân,
ảnh hưởng không nhỏ đến việc huy động vốn của Ngân hàng.
- Một số chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng như: Tiến
độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sắp xếp lại các Doanh nghiệp, cổ
phần hóa triển khai còn chậm đã làm hạn chế hoạt động của Ngân hàng.
- Việc huy động vốn vào Ngân hàng gặp khó khăn do xuất hiện các kênh thu
hút vốn với lãi suất hấp dẫn, kỳ vọng lợi ích lớn như: Thị trường chứng khoán, cổ
phần hóa doanh nghiệp, trái phiếu công trình, giá vàng có sự biến động lớn….
- Là Chi nhánh mới thành lập nên cơ cấu nguồn chưa hợp lý, vốn dài hạn
chiếm tỷ trọng thấp, lãi suất đầu vào còn cao, không ổn định. Đây là một khó khăn
lớn nhất của Chi nhánh.
Trụ sở làm việc của Chi nhánh phần lớn phải đi thuê, chưa mang tính ổn
định lâu dài, thiếu đồng bộ, chi phí cao, không có lợi thế trong hoạt động kinh
doanh.
1.1.5.2. Tình hình hoạt động kinh doanh
Với sự đoàn kết, nhất trí từ Ban Giám Đốc, Ban chấp hành công đoàn và toàn
thể cán bộ công nhân viên và có sự giúp đỡ của NHNo&PTNT Việt Nam. Trên cơ
sở nhận thức sâu sắc những khó khăn và khai thác những thuận lợi một cách có
hiệu quả, mặc dù mới đi vào hoạt động từ năm 2003 cho đến nay, NHNo&PTNT
Chi Nhánh Thủ Đô bước đầu đạt được một số kết quả như sau:
+ Tình hình huy động vốn
Do Chi nhánh mới thành lập nên mục tiêu của Chi nhánh đề ra trước mắt là

“Huy động vốn để cho vay” nên công tác huy động vốn được Chi nhánh quan tâm
hàng đầu.
Tình hình huy động vốn của Chi nhánh NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô thể
hiện ở bảng 2.1:
Bảng 2.1: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2004 2005
200
6
200
7
2005 so với
2004
2006 so với
2005
2007 so
với 2006
+/- % +/- %
+/-
%
Tổng nguồn vốn 2464 2673 2751 3540 209 8,48 78 2,91
789 29
Nguồn vốn nội tệ 1789 1996 2244 3193 207 11,57 248 12,42
949 42
Nguồn vốn ngoại tệ 675 677 507 347 2 0.29 -170 -25,11
-160 -32
(Nguồn: Phòng Tín dụng NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ
Đô)
Theo số liệu phía Ngân hàng cung cấp, khi mới thành lập năm 2003 tổng

nguồn vốn của Ngân hàng mới chỉ đạt 852 tỷ đồng chủ yếu huy động từ vốn được
giao từ Trung ương. Tuy nhiên từ năm 2004 đến 2007 lượng vốn huy động đã tăng
lên đáng kể từ nhiều nguồn. Năm 2004, tổng nguồn vốn của Ngân hàng đạt 2.464
tỷ đồng, tăng 1.612 tỷ đồng tương ứng 189,2% so với năm 2003. Sang năm 2005,
tiếp tục có sự tăng trưởng tổng nguồn vốn đạt 2.673 tỷ, tăng 209 tỷ tương đương
8,48% so với năm 2004. Năm 2006, vẫn có sự tăng trưởng tuy nhiên tăng nhẹ so
với các năm trước, tổng nguồn vốn đạt 2.751 tỷ, tăng 78% tỷ tương đương 2,91%
so với năm 2005. Xem xét về cơ cấu vốn qua các năm ta thấy vốn nội tệ tăng rõ rệt
qua các năm, cụ thể năm 2005, tăng 207 tỷ, tăng tương ứng 11,57% so với năm
2004. Năm 2006, vốn nội tệ tiếp tục tăng mạnh so với năm 2005 là 248 tỷ tương
đương 12,42%. Tuy nhiên, nguồn vốn ngoại tệ năm 2005 tăng 2 tỷ so với năm
2004 tương đương 0,29%. Sang năm 2006, có sự sụt giảm mạnh so với năm 2005,
thậm chí sụt giảm mạnh so với năm 2004. Cụ thể, so với năm 2005 giảm 170 tỷ
tương đương 25,11%. Đánh giá chung về kết quả Ngân hàng đạt được, thấy rằng
tổng nguồn vốn của Ngân hàng tăng, đây là một thuận lợi cho Ngân hàng trong
thực hiện nghiệp vụ cho vay, mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Bên cạnh đó, việc
vốn nội tệ tăng rõ rệt trong khi vốn ngoại tệ giảm mạnh điều này cũng dễ hiểu bởi
sự mất giá của VND với USD, của USD với EURO, của USD với vàng. Đây là
khó khăn không chỉ của riêng Chi nhánh NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô, mà
của cả các Ngân hàng khác trong và ngoài hệ thống.
+ Tình hình dư nợ
Tình hình dư nợ của Chi nhánh thể hiện ở bảng 2.2:
Bảng 2.2. TÌNH HÌNH DƯ NỢ
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007
1. Dư nợ theo thời gian 966 1,270 1,497 1.908
-Dư nợ ngắn hạn 533 573 813 1.247
-Dư nợ trung hạn 215 444 297 353
-Dư nợ dài hạn 218 253 387 308
2. Dư nợ theo TPKT 966 1,270 1,497 1.908

- Doanh nghiệp nhà nước 495 473 666 348
- Doanh nghiệp ngoài QD 354 661 688 1.359
- Dư nợ hợp tác xã 2 2 1
- Kinh tế cá thể 115 134 141 201
Tổng dư nợ năm 966 1,270 1,497 1.908
(Nguồn: Phòng Tín dụng NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô)
Từ khi mới thành lập cho đến nay doanh số cho vay của NHNo&PTNT Chi
Nhánh Thủ Đô không ngừng tăng lên, dư nợ tăng trưởng từng bước ổn định. Tính
đến thời điểm 31/12/2006, tổng dư nợ là 1.497 tỷ đồng (kể cả cho vay ủy thác đầu
tư và cho vay theo chỉ định) vượt 19% so với kế hoạch năm 2006, so với năm 2005
tăng 227 tỷ đồng bằng 118% so với năm 2005. Trong đó cho vay trung, dài hạn
682 tỷ đồng (bao gồm cả cho vay ủy thác đầu tư và cho vay theo chỉ định là 262
tỷ). Nếu loại trừ khoản cho vay này thì dư nợ: 1.230 tỷ đồng đạt 98% so kế hoạch
năm 2006.
Năm 2004 khi NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô đã chính thức đi vào hoạt
động tổng dư nợ đạt 966 tỷ đồng, bao gồm cả dư nợ ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn, trong đó dư nợ ngắn hạn chiếm chủ yếu. Các đối tượng được cấp tín dụng đã
được mở rộng trên tất cả các thành phần kinh tế, đăc biệt là sự tăng nhanh ở khu
vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh - một thành phần kinh
tế rất quan trọng ở nước ta đặc biệt là từng giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế như
hiện nay. Tổng dư nợ tiếp tục tăng trong năm 2005 và tăng đều trên cả dư nợ ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực kinh tế cá
thể được ngân hàng cấp tín dụng tiếp tục tăng trưởng đều, đây là một tín hiệu đáng
mừng trong hoạt động cung cấp tín dụng cho nền kinh tế của ngân hàng. Sự giảm
dư nợ đối với Doanh nghiệp Nhà Nước và tăng dư nợ đối với Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, hộ kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phần nào đáp ứng
được định hướng mục tiêu năm 2005 là chuyển đổi cơ cấu đầu tư của Ngân hàng
về công tác cho vay. Sang năm 2006 kết quả mà Ngân hàng thu được khá tốt, dư
nợ tiếp tục tăng so với 2005 và tăng gấp 1,5 lần so với năm 2004. Cơ cấu nợ đã có
sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng tích cực, dư nợ ngắn hạn và dư nợ đối với

doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm chủ yếu trong tổng dư nợ.
+ Tình hình nguồn vốn và dư nợ
Tình dư nợ so với nguồn vốn thể hiện ở bảng 2.3
Bảng 2.3: TÌNH HÌNH NGUỒN VỐN VÀ DƯ NỢ
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm
Nguồn vốn Dư nợ
Tỷ trọng dư nợ so nguồn
vốn
2004 2,464 966 39%
2005 2,673 1,270 48%
2006 2,751 1,497 54%
2007 3,540 1,908 54%
(Nguồn: Phòng Tín dụng NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô)
Nhìn vào bảng 2.3 ta thấy rằng, tỷ trọng dư nợ so với tổng nguồn tăng lên.
Năm 2004 tổng nguồn 2.464 tỷ đồng và dư nợ là 966 tỷ đồng chiếm 39%. Đến
ngày 31/12/2006, tổng nguồn huy động được là 2.751 tỷ đồng. Trong khi đó, tổng
dư nợ là 1.497 tỷ đồng, chiếm 54,4% tổng nguồn vốn huy động được. Sang thời
điểm 31/12/2007, tổng dư nợ đạt: 1.908 tỷ đồng (không kể cho vay uỷ thác đầu tư
và cho vay theo chỉ định) đạt 93% so với kế hoạch năm 2007, so với năm 2006
tăng 411 tỷ đồng tương đương 134% so với năm 2006. Như vậy, đến thời điểm
31/12/2007 thì tổng dư nợ so với tổng nguồn vốn chiếm 54%. Kết quả đạt được
cho thấy so với năm 2005 có tốt hơn, cụ thể năm 2005 chỉ là 48%, so với năm
2006 thì năm 2007 thấp hơn nhưng không đáng kể. Tuy nhiên hiện tại thu nhập chủ
yếu của Ngân hàng vẫn là từ chênh lệch lãi suất huy động và cho vay. Bởi vậy đòi
hỏi Ngân hàng cần có chính sách, biện pháp thích hợp để có thể tăng cho vay, tận
dụng tối đa nguồn vốn của mình, nhằm tăng lợi nhuận.
+ Tình hình nợ quá hạn
Sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng được đánh giá qua việc mở rộng và

nâng cao tín dụng được cấp, doanh số cho vay gia tăng làm cho dư nợ cũng tăng
theo. Nợ quá hạn là một chỉ tiêu phản ánh rõ nét nhất chất lượng tín dụng và cơ sở
để mở rộng tín dụng của Ngân hàng. Tình hình nợ quá hạn của Chi nhánh được thể
hiện ở bảng 2.4:
Bảng 2.4: TÌNH HÌNH NỢ QUÁ HẠN NĂM 2007
Đơn vị: Triệu VNĐ
TT Chỉ
Tổng số
n


x

u
Tỷ lệ
(%)
Phân loại Theo nhóm
Nhóm
Nhóm 4 Nhóm 5
1
Doanh nghiệp Nhà nước 0 0
Ngắn hạn 0 0
Trung, dài hạn 0 0
2
Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
12.163 0,6 12.163
Ngắn hạn 9.366 0,46 9.366
Trung, dài hạn 2.797 0,13 2.797
3

Hợp tác xã 0
Ngắn hạn 0
Trung, dài hạn 0
4
Hộ gia đình cá thể 2.191 0,10 2.191
Ngắn hạn 1.832 0,09 1.832
Trung, dài hạn 359 0,02 359
Tổng cộng 14.354 0,7 14.354
TĐ: Ngoại tệ quy đổi VND
(Nguồn: Phòng Tín dụng NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô)
Tính đến thời điểm 31/12/2007, tổng nợ xấu là 14,4 tỷ đồng chiếm 0.7% tổng
dư nợ. Nguyên nhân ở đây là do xác định đối tượng đầu tư chưa phù hợp, việc
quản lý, đôn đốc thu hồi nợ chưa được chặt chẽ. Để khắc phục tình trạng này cần
chấn chỉnh Công tác tín dụng, nâng cao trình độ cũng như kỹ năng cho Cán bộ tín
dụng và Cán bộ thẩm định, đặc biệt coi trọng Công tác phân tích, đánh giá, xếp
loại khách hàng, thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay thông qua đó
để có hướng đầu tư chuẩn xác và hiệu quả cao.
+ Kết quả tài chính
Tình hình hoạt động kinh doanh thể hiện ở bảng 2.5:
Bảng 2.5: KẾT QUẢ TÀI CHÍNH
Đơn vị: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu Năm 2005 2006 2007
2005 so
2006
2006 so
2007
+/- % +/- %
Tổng thu 207 232 281 25 12 49 21
Thu lãi 205 292 27 87 42 -265 -91
Thu dịch vụ 2.3 2.2 5 0 -4 2.8 127

Tổng chi 179 199 244 20 11 45 23
Chi trả lãi 152 162 175 10 7 13 8
Chi khác 69 2 69
Chênh lệch thu nhập – Chi phí 28 33 37 5 18 4 12
(Nguồn: Chi nhánh NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô)
Qua bảng 2.5 ta thấy, tính đến 31/12/2006 tổng thu đạt được là 232 tỷ, tăng so
với 31/12/2005 là 25 tỷ, trong đó thu lãi là 292 tỷ; thu dịch vụ là 2.2 tỷ. Tuy nhiên
tổng chi 199 tỷ, so với 31/12/2005 là 20 tỷ, trong đó chi trả lãi 162 tỷ, chiếm
81.5% trong tổng chi. Lợi nhuận để lại sẽ là 33 tỷ, tăng so với 31/12/2005 là 5 tỷ,
đạt 133% kế hoạch năm 2006. So với tổng thu, tổng chi tương đối lớn do lãi suất
huy động vốn tăng cao. Để khắc phục cần thiết phải điều chỉnh lại phí điều hòa
vốn, tránh cho các đơn vị thừa vốn chịu lỗ.
1.2. Tổng quan về Dự án và Thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng
Thương mại.
1.2.1 Tổng quan về dự án đầu tư
1.2.1.1. Khái niệm về dự án đầu tư
Dự án và đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đầu tư phát triển là nguồn
gốc ra đời của các dự án. Ngược lại, việc xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư
sẽ kiểm nghiệm tính đúng đắn và hiệu quả của quyết định đầu tư.
Hiện nay chưa có định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về dự án đầu tư được mọi
người chấp nhận. Tuy nhiên, dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ.
Theo luật đầu tư của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số
59/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 thì dự án đầu tư được định nghĩa như
sau: Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các
hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định.
Ngân hàng thế giới xem xét dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi
phí liên quan với nhau được hoạch định nhằm đặt được những mục tiêu nhất định
trong thời gian nhất định.
Về mặt hình thức đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và
có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả

và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Trên góc độ quản lý dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn,
vật tư, lao động để tạo ra kết quả tài chính, kinh tế - xã hội trong một thời gian dài.
Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi
tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát tiển kinh tế xã hội, làm
tiền đề cho quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động riêng biệt
nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung.
Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động có liên quan với
nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết
quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác
định.
Dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì dự án đầu tư cũng bao gồm các thành
phần chính như sau:
- Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án. Cụ thể là khi thực hiện dự án
sẽ mang lại những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho bản thân chủ đầu tư nói
riêng. Những mục tiêu này cần được biểu hiện bằng kết quả cụ thể như tạo nguồn
thu cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động, mang lại lợi nhuận cho
chủ đầu tư…
- Các hoạt động của dự án: Dự án phải nêu rõ những hành động cụ thể phải
thực hiện, địa điểm diễn ra các hoạt động của dự án, thời gian cần thiết để hoàn
thành và các bộ phận có trách nhiệm thực hiện những hành động đó.
- Các nguồn lực: hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các
nguồn lực về vật chất, tài chính, con người…Vì vậy, phải nêu rõ các nguồn lực cần
thiết cho dự án, tổng hợp các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án.
Tóm lại, dự án đầu tư là tập hợp kết quả nghiên cứu các nội dụng có liên
quan, ảnh hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu tư.
1.2.1.2. Phân loại dự án đầu tư
Để thuận tiện cho việc theo dõi quản lý và đề ra các biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của hoạt động đầu tư cần tiến hành phân loại dự án đầu tư.
Có thể phân loại các dự án đầu tư theo các tiêu thức sau:

a. Theo cơ cấu tái sản xuất
Phân loại theo hình thức này dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư theo
chiều rộng và dự án đầu tư theo chiều sâu.
Dự án đầu tư theo chiều rộng yêu cầu cần có vốn lớn, thời gian thực hiện đầu
tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ
mạo hiểm cao.
Ngược lại, dự án đầu tư theo chiều sâu thì đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời
gian thực hiện không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với dự án đầu tư theo chiều
rộng.
b. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của dự án đầu tư
Theo hình thức này có thể phân chia thành dự án đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng…Hoạt động của các dự án đầu tư
này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học
kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh đạt hiệu quả cao, còn các dự án đầu tư phát triển kinh doanh đến lượt
mình lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ
tầng và các dự án đầu tư khác.
c. Theo giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trình tái sản xuất
xã hội
Theo cách thức này thì dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có thể chia ra thành
dự án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất.
Dự án đầu tư thương mại là loại dự án đầu tư có thời gian thực hiện đầu tư
và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, tính chất bất định
không cao lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Nhìn trên giác độ xã
hội thì loại dự án này không tạo ra của cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những
giá trị tăng thêm do hoạt động của dự án đầu tư này đem lại chỉ là sự phân phối lại
thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án đầu tư có thời hạn hoạt động dài hạn (từ 5,
20 năm hoặc lâu hơn), với vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư
lâu, độ mạo hiểm cao, tính chất kỹ thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố

bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được (về nhu
cầu, giá cả đầu vào, đầu ra, cơ chế chính sách…). Thực hiện loại dự án này cần
phải chuẩn bị kỹ, cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả
của hoạt động đầu tư trong tương lai xa, phải xem xét các biện pháp xử lý khi các
yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi khi hoạt động của dự án
đầu tư kết thúc.
d. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra
Theo hình thức này có thể phân chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư ngắn
hạn (như dự án đầu tư thương mại) và dự án đầu tư dài hạn (các dự án đầu tư sản
xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng…)
e. Theo phân cấp quản lý
Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo nghị định 52/1999/NĐ - CP
ngày 08/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ phân chia dự án thành 3 nhóm A, B, C
tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án. Trong đó nhóm A do thủ tướng Chính phủ
quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực
thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh (và thành phố trực thuộc trung ương) quyết định.
f. Theo nguồn vốn
Dựa vào nguồn vốn, dự án đầu tư có thể được phân chia thành: Dự án đầu tư
có vốn huy động trong nước (vốn tích luỹ của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền
tiết kiệm của dân cư). Dự án đầu tư có vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư
trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp).
Việc phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò
của mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa
phương và toàn bộ nền kinh tế.
g. Theo vùng lãnh thổ (theo tỉnh, theo vùng kinh tế của đất nước)
Cách phân loại này cho thấy tình hình đầu tư của từng tỉnh, địa phương, vùng
kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa
phương.
Trong thực tế người ta có thể phân loại dự án đầu tư theo nhiều tiêu thức khác
nhau để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế.

1.2.1.3 Cơ cấu dự án đầu tư
Các loại dự án khác nhau thì có cơ cấu khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung một
dự án đầu tư gồm các phần sau:
Một là, chủ đầu tư dự án: Trong phần này giới thiệu chung về chủ dự án đầu
tư, địa chỉ, người đại diện chức vụ. Giới thiệu về năng lực và khả năng thực hiện
dự án của chủ đầu tư.
Hai là, những căn cứ, cơ sở xác định sự cần thiết phải đầu tư
Ở phần này nêu ra cơ sở căn cứ pháp lý của dự án, nguồn gốc các tài liệu sử
dụng. Phân tích các kết qủa điều tra về điều kiện tự nhiên tài nguyên, chính sách
kinh tế chính trị xã hội liên quan đến việc phát triển ngành, các lợi ích của dự án sẽ
đem lại cho vùng, lãnh thổ nơi thực hiện dự án đầu tư. Đồng thời cũng đưa ra các
mục tiêu của dự án đầu tư (tiêu dùng trong nước, xuất khẩu, thay thế nhập khẩu...).
Phân tích tình hình thị trường, đánh giá kết luận về nhu cầu hiện tại, dự báo nhu
cầu tương lai (khu vực, trong nước, ngoài nước nếu có dự kiến xuất khẩu) về cả số
lượng, chất lượng, giá cả... các nguồn đáp ứng nhu cầu hiện tại. Dự báo mức độ gia
tăng cung cấp cho tương lai, sự thiếu hụt so với nhu cầu thị trường. Các căn cứ về
khả năng phát triển về năng lực sản xuất. Quy mô năng lực hiện tại của ngành và
năng lực huy động. Đánh giá tình trạng hoạt động hiện tại và nhịp độ tăng trưởng
tương lai... Dự báo số lượng, giá cả hàng hoá bán ra, khả năng cạnh tranh với các
nhà sản xuất trong và ngoài nước, khả năng xâm nhập thị trường, hướng lựa chọn
thị trường.
Ba là, lựa chọn hình thức đầu tư, công suất
Phân tích các điều kiện và lợi ích của việc huy động năng lực hiện tại, đầu tư
chiều sâu, mở rộng các cơ sở đã có, so với đầu tư mới từ đó lựa chọn phương thức
đầu tư.
Phân tích các điều kiện, yếu tố để lựa chọn hình thức đầu tư (Công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp quốc doanh...).
Phân tích lựa chọn công suất thích hợp. Nêu các phương án và chọn công suất
tối ưu, khả thi.
Bốn là, chương trình sản xuất và các yêu cầu đáp ứng . Trong phần này nêu

nên cơ cấu sản xuất: số lượng sản phẩm hàng năm, chất lượng giá cả. Số hàng bán
dự kiến. Lượng lưu kho trung bình. Lịch trình sản xuất như thế nào (vận hành,
chạy thử, chạy hết công suất ...). Bán thành phẩm, phế liệu. Các nhu cầu đầu vào
và các giải pháp đảm bảo. Phải xác định được nhu cầu đầu vào cho từng loại sản
phẩm và toàn bộ nhu cầu sản xuất hàng năm: Nhu cầu và đặc điểm nguyên vật liệu
(vật liệu thô, các hoá phẩm, vật liệu đã qua chế biến, các sản phẩm nhập khẩu, vật
liệu phụ...). Tình trạng cung ứng, yêu cầu dự trữ nguyên vật liệu.
Chương trình cung cấp nguyên vật liệu sản xuất: các giải pháp về nguồn cung
cấp (trong nước, nhập khẩu) phương thức cung ứng (quy hoạch sản xuất, mua theo
hợp đồng, vận tải, nếu nhập khẩu cần xác định nguồn cung cấp hình thức nhập,
điều kiện giao hàng, giá cả), phân tích các thuận lợi hạn chế, các ảnh hưởng bất lợi,
hướng khắc phục. Lịch trình cung cấp, các chi phí cho từng lịch trình cung cấp.
Các giải pháp đảm bảo kết cấu hạ tầng và phục vụ sản xuất. Các nhu cầu cung cấp
điện, nước, hơi cho sản xuất, giao thông nội bộ và bên ngoài, kho bãi, thông tin,
khả năng về nguồn, giải pháp cung cấp.
Năm là, các phương án về khu vực địa điểm và địa điểm cụ thể (hoặc tuyến
công trình).
Mỗi dự án thường có ít nhất 2 phương án địa điểm. Phương án địa điểm phải thu
thập đầy đủ các tài liệu điều tra cơ bản, tài liệu khảo sát đủ độ tin cậy.
Mỗi phương án địa điểm cần phân tích các mặt như điều kiện cơ bản về tự
nhiên khí tượng, thuỷ văn, đất nước...và điều kiện xã hội kỹ thuật như tình hình
dân cư, phong thủy tập quán, các chính sách khu vực. Hoạt động kinh tế, trình độ
kỹ thuật...Các điều kiện về quy hoạch vùng, nhu cầu sử dụng đất. Ngoài ra phương
án còn phân tích kinh tế địa điểm, phân tích các lợi ích và ảnh hưởng xã hội của địa
điểm, những ảnh hưởng đến đời sống dân cư khi có thiên tai dịch hoạ, đến phong
tục tập quán...
Sáu là, phần công nghệ kỹ thuật của dự án, bao gồm: (1) Công nghệ: Các
phương án công nghệ sản xuất chủ yếu, quy trình sản xuất có thể chấp nhận, mô tả,
phân tích, đánh giá mức độ hiện đại, tính thích hợp, kinh tế, những điểm ưu việt và
hạn chế của công nghệ lựa chọn (thông qua so sánh một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật

như quy cách, chất lượng năng suất...). Nội dung chuyển giao công nghệ và sự cần
thiết phải chuyển giao, phương thức thanh toán, điều kiện tiếp nhận. Những vấn đề
môi trường sinh thái liên quan đến công nghệ, khả năng mức độ gây ô nhiễm hoặc
làm biến đổi môi trường do việc hình thành công trình (nước, không khí, đất đai,
tiếng ồn, phóng xạ, bụi do nguyên vật liệu...) và hậu quả có thể có. Đưa ra các giải
pháp chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, các phương án xử lý chất thải...
Các phương án trong lĩnh vực khác: Lựa chọn quy mô và phương án cung cấp
nước, thoát nước cho dự án. Lựa chọn các phương án cung cấp điện, khí cho sản
xuất.... (2) Thiết bị: Nêu các phương án về thiết bị. Danh mục thiết bị sản xuất
chính, phụ, hỗ trợ, các phương tiện khác, phụ tùng thay thế, dụng cụ thiết bị văn
phòng... Các phương án mua sắm thiết bị, so sánh, lựa chọn.
Bẩy là, phần xây dựng và tổ chức thi công xây lắp. Về mặt xây dựng nêu được
các phương án thi công xây dựng, xác định tiêu chuẩn cấp công trình, các giải pháp
kiến trúc, phối cảnh, các phương án kết cấu của các hạng mục công trình, yêu cầu
kỹ thuật, thiết bị xây lắp đáp ứng kết cấu được chọn. Các phương án xây dựng
công trình bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm, khối lượng các hạng mục công trình,
nhu cầu, điều kiện về nguyên vật liệu xây dựng...Về mặt tổ chức thi công xây lắp
và tổng tiến độ dự án: Nêu được các điều kiện tổ chức thi công, lựa chọn phương
án thi công, các yêu cầu về thiết bị thi công...
Tám là, tổ chức quản lý sản xuất và bố trí lao động
Xác định được nhu cầu nhân lực cách bố trí nhân lực, sơ đồ quản lý tổ chức
sản xuất. Xác định các chi phí: Chi phí quản lý, chi phí nhân công, chi phí phân
xưởng, chi phí hành chính, chi phí đào tạo, chi phí bảo hiểm...
Chín là, phân tích tài chính – kinh tế.
Đây là phần khá quan trọng đối với mội dự án đầu tư. Phần này phản ánh tính
hiệu quả của dự án về mặt kinh tế.
Khi phân tích tài chính của dự án: phải nêu được các chỉ tiêu thành phần vốn
của dự án (vốn cố định, vốn lưu động, vốn dự phòng...). Nguồn vốn (vốn của đơn
vị, vốn vay, ...). Các hình thức góp vốn, tiến độ thực hiện chi phí vốn...
Tính toán hiệu quả tài chính của dự án: phải nêu ra được tổng chi phí dự án,

doanh thu của dự án, lợi nhuận của dự án. Sau khi có các thông số lập biểu tính
toán hiệu quả của dự án, tính điểm hoàn vốn, thời gian hoàn vốn, độ nhậy của dự
án. Từ đó đưa ra các kết luận về mặt tài chính của dự án.
Về mặt kinh tế - xã hội: dự án đã đem lại cho xã hội những lợi ích gì. Giá trị
sản phẩm hàng hoá ra tăng. Tính đa dạng hoá sản phẩm của nền kinh tế, dự án đem
lại việc làm và thu nhập cho người lao động, đóng góp vào ngân sách quốc gia, thu
hút nguồn ngoại tệ.
Mười là, kết luận và kiến nghị
Trong phần này, đưa ra các kết luận kiến nghị các chính sách và chế độ ưu
đãi.
1.2.2 Thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm, vai trò và nội dung thẩm định dự án đầu tư
a. Khái niệm thẩm định dự án đầu tư
Hoạt động đầu tư đã đóng một vai trò không nhỏ vào việc xây dựng và phát
triển ổn định kinh tế xã hội. Để phát huy được mặt tích cực của các dự án đầu tư và
hạn chế được những mặt tiêu cực của nó thì khi chấp thuận việc thực hiện một dự
án, người ta thường phân tích đánh giá, xem xét dự án về các mặt tài chính, kinh tế
xã hội… Để có được một quyết định đúng đắn khi đưa dự án vào thực hiện. Những
hoạt động xem xét, đánh giá dự án nhằm những mục tiêu nói trên được gọi là
“thẩm định dự án”.
Vậy thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan có
khoa học toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của
một dự án. Từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc
lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự án đã tạo ra cơ sở vững
chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ quá trình thẩm định là
cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu tư và cho
phép đầu tư.
Đứng trên góc độ ngân hàng, thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét,
phân tích một cách khách quan toàn diện, độc lập những nội dung cơ bản của dự án

đầu tư đồng thời đánh giá chính xác những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tính
khả thi của dự án nhằm đưa ra quyết định cho vay đảm bảo hiệu qủa an toàn.
b. Vai trò của thẩm định dự án đầu tư
Đối với chủ đầu tư: Ngân hàng với kinh nghiệm của mình trong thẩm định
dự án đầu tư có thể tư vấn cho doanh nghiệp phương án đầu tư có hiệu quả mà bản
thân doanh nghiệp do thiếu khả năng phân tích tổng hợp, thiếu thông tin không thể
lựa chọn được.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Thẩm định dự án đầu tư giúp các cơ
quan quản lý nhà nước đánh giá được sự cần thiết và tính phù hợp của dự án đối
với quy hoạch phát triển chung của ngành, địa phương và cả nước trên các mặt:
mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả.
Đối với nền kinh tế: Thẩm định dự án đầu tư giúp xác định được sự lợi hại
của dự án khi đi vào hoạt động trên khía cạnh: cộng nghệ, vốn, ô nhiễm môi trường
và các lợi ích kinh tế - xã hội khác. Nền kinh tế đang cần các dự án đầu tư phát
triển phục vụ cho sự pháp triển đất nước song đó là các dự án có hiệu quả kinh tế
xã hội và lợi ích nhiều mặt khác. Đầu tư kém hiệu quả, sai mục đích có thể đem
đến những nguy hại. Hơn nữa với điều kiện hạn chế về vốn đầu tư của mình, ngân
hàng đã giúp nền kinh tế có những dự án thực sự tốt, đem lại hiệu quả đầu tư như
mong muốn.
Đối với ngân hàng: Nếu ngân hàng làm tốt công tác thẩm định dự án đầu tư
sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi cả vốn lẫn lãi đúng hạn, tạo điều kiện cho vốn tín
dụng luân chuyển nhanh, an toàn và hiệu quả. Bởi vậy thẩm định dự án đầu tư là
việc hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, thể hiện: (1) Rút
ra các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế của phương án hoặc dự
án vay vốn, khả năng trả nợ, những rủi ro có thể xẩy ra để quyết định cho vay hoặc
từ chối cho vay một cách đúng đắn và chính xác nhất. (2) Tham gia góp ý cho chủ
đầu tư về phương án sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề để đảm bảo hiệu quả cho vay,
thu được nợ gốc và lãi đúng hạn và hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất. (3) Xác định
khả năng và ý muốn của người cho vay trong việc trả nợ vay (cả gốc lẫn lãi) phù
hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng. (4) Là cơ sở để xác định mức rủi ro

có thể chấp nhận, xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý,
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. (5) Rút ra kinh
nghiệm và bài học để thực hiện các dự án sau được tốt hơn.
Vì vậy, trong công tác thẩm định dự án đầu tư, phải rất thận trọng để đem
lại sự an toàn cần thiết cho ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng đồng thời
không bỏ lỡ cơ hội đầu tư có lãi, phục vụ khách hàng đầu tư có hiệu quả.
c. Nội dung của thẩm định
Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu và cũng là nguồn thu chủ yếu của
các ngân hàng thương mại. Để đánh giá đúng và đem lại hiệu quả trong hoạt động
kinh doanh ngân hàng thì việc thẩm định món vay là cần thiết đối với ngân hàng.
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng việc đầu tư các dự án cũng đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng. Vậy đứng trên góc độ một nhà đầu tư thì ngân hàng phải
xem xét đến các khía cạnh của dự án và đi đến kết luận cuối cùng dự án có khả thi
hay không. Để làm được điều này các cán bộ tín dụng của ngân hàng cần thẩm
định các nội dung sau của dự án đầu tư:
* Thẩm định hồ sơ pháp lý của dự án
Khi thẩm định hồ sơ pháp lý của dự án thì cần phải xem xét xem dự án có phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, địa phương. Phù hợp với
quy hoạch phát triển ngành, địa phương có liên quan.
Dự án có thuộc đối tượng sản xuất kinh doanh trong đăng ký kinh doanh
không. Mỗi dự án bao giờ cũng có bộ hồ sơ pháp lý. Hồ sơ pháp lý của dự án bao
gồm các giấy phép, quyết định liên quan đến dự án mà chủ đầu tư đang thực hiện
như: Báo cáo nghiên cứu khả thi, quyết định phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật
của cấp có thẩm quyền phê duyệt, giấy phép xây dựng hoặc giấy chứng nhận đầu
tư của cấp có thẩm quyền phê duyệt, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc hợp
đồng thuê đất, các văn bản pháp lý khác có liên quan đến dự án đầu tư...
*Thẩm định sự cần thiết của dự án
Khi tiến hành thẩm định dự án, trước hết ngân hàng phải xem xét đến các mục
tiêu, định hướng của dự án bởi vì dự án được thực hiện sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống nhân dân, đến toàn bộ nền kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến cung cầu

hàng hoá, hoạt động xuất nhập khẩu trong nước, môi trường tự nhiên... Như vậy,
cần phải thẩm định đánh giá xem xét dự án có thật sự cần thiết trong tình hình hiện
nay không, có phù hợp với xu hướng phát triển ngành của vùng, đất nước không,
có tuân thủ đúng quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng phát triển của bộ ngành...
Muốn vậy, ngân hàng cần đối chiếu mục tiêu và phương hướng phát triển của dự
án với mục tiêu, định hướng chung của ngành, địa phương và những quyết định
của nhà nước trong tương lai. Tuỳ theo từng dự án theo đuổi mục tiêu nào mà ngân
hàng sẽ chú trọng đến mục tiêu đó. Song điều quan trọng là dự án đã đem lại lợi
ích cho chủ đầu tư, ngân hàng và xã hội.
*Thẩm định phương diện thị trường
Thị trường là một nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của
dự án. Một dự án ngày càng có vị thế và chỗ đứng trên thị trường thì khả năng thu
hồi vốn của ngân hàng ngày càng trở lên chắc chắn hơn.
Thẩm định phương diện thị trường của dự án là để xác định các yếu tố: Thị
trường cung cầu sản phẩm hoặc dịch vụ mà dự án sẽ mang lại tại thời điểm hiện
tại, tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai các yếu tố kinh tế và phi
kinh tế tác động đến nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ mà dự án mang lại như thế
nào. Các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm
hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ của dự án được thuận lợi. Khả năng canh
tranh của các sản phẩm cùng loại có sẵn hoặc các sản phẩm sẽ được sản xuất sau
này.
Thẩm định môi trường của dự án cán bộ thẩm định phải thẩm địch các nội
dung sau:
+ Xem xét mức tiêu thụ hiện tại và trong quá khứ
Đánh giá nhu cầu thị trường đối với loại sản phẩm của dự án là một vấn đề tối
cần thiết với các nhà sản xuất. Nó có tính chất quyết định đến sự thành bại của một
doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là một vấn đề rất phức tạm mang nặng tính lý
thuyết, vận dụng vào thực tế gặp nhiều khó khăn. Do vậy việc dự đoán, dự báo
thường sai lệch so với thực tế và được điều chỉnh trong quá trình thực hiện dự án.
Để xác định được nhu cầu sản phẩm thì phải phân loại thị trường và để xác định

được mức tiêu hao sản phẩm thì cần có các thông số để đo lường cụ thể như: khối
lượng sản xuất trong năm, mức tồn kho cuối năm của sản phẩm, giá cả của sản
phẩm...Các số liệu này có thể lấy từ các cơ quan thống kê hoặc tự doanh nghiệp

×