Thực trạng hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình
I - Đặc điểm kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình
1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Thái Bình
1.1. Vị trí địa lý
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, nằm ở phía nam châu thổ sông
Hồng với diện tích 1.647,7km
2
. Phía bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và
thành phố Hải Phòng; phía tây và tây nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam; phía
đông giáp vịnh Bắc Bộ; và là một tỉnh đồng bằng có địa hình tương đối bằng
phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1%. Toàn tỉnh có 01 thành phố, 7 huyện, trong đó có
284 xã, phường, thị trấn.
Thái Bình nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng :
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Đây là một thuận lợi lớn trong việc giao lưu
kinh tế với các trung tâm kinh tế lớn của nước.
Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa : mùa nóng, mưa nhiều từ
tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm
sau. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23 – 24
0
C (thấp nhất là 4
0
C và cao nhất là
39
0
C). Lượng mưa trung bình từ 1.500mm – 1.900mm. Độ ẩm trung bình hàng
năm vào khoảng 85 – 90%. Thời tiết vào mùa nóng luôn có những ngày dịu mát
do ảnh hưởng của khí hậu biển. Điều kiện khí hậu thích hợp với cây nhiệt đới
vốn rất đa dạng, vào mùa đông cho phép phát triển nhiều loại rau màu có giá trị
kinh tế cao.
Ngoài ra, tỉnh nằm ở hạ lưu sông Hồng,có đường biển và hệ thống sông
ngòi thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thuỷ. Thái Bình được bao bọc
bởi hệ thống sông biển khép kín, có bờ biển dài trên 50 km và có 4 sông lớn
chảy qua địa phận của tỉnh : sông Hoá, sông Luộc, hạ lưu của sông Hồng, sông
Trà Lý .
1.2. Dân số và nguồn nhân lực
Thái Bình là một tỉnh đông dân, là một trong những tỉnh có mật độ dân số
cao nhất trong cả nước nhưng đại đa số là sống ở nông thôn. Năm 2005, dân số
trung bình của Thái Bình là 1.850 ngàn người, chiếm 9,85% so với dân số vùng
đồng bằng sông Hồng và khoảng 2,23% so với dân số của cả nước. Mật độ dân
số trung bình là 1.196,7 người/km
2
, gấp 1,32 lần so với đồng bằng sông Hồng
và 3,6 lần so với cả nước, bình quân nhân khẩu là 3,75 người/hộ; tỷ lệ phát triển
dân số tự nhiên là 1,02%.
Do dân số Thái Bình vẫn còn tăng ở mức cao so với yêu cầu của phát
triển kinh tế - xã hội, nên nguồn lao động của Thái Bình hàng năm cũng được
bổ sung và tăng lên khá nhanh (khoảng 19.000 người) từ các nguồn: bộ đội hết
nghĩa vụ, học sinh tốt nghiệp phổ thông không đủ điều kiện học tiếp vào đại
học, trung học chuyên nghiệp, số học sinh học nghề, cao đẳng, đại học tổt
nghiệp về tỉnh làm việc.
Bảng : Số người trong độ tuổi lao động ở Thái Bình qua các năm
Đơn vị : nghìn người
Năm 2000 2002 2005
Số người trong độ tuổi lao
động 1.045 1.073 1.107
Tổng dân số 1.756 1.827 1.85
Năm 2000, tổng số người trong độ tuổi lao động có khoảng 1.045 nghìn
người. Thời kỳ 2001- 2005, bình quân mỗi năm tăng khoảng 6 – 7 ngàn người,
đây là một lực lượng lao động rất lớn. Lao động qua đào tạo ở Thái Bình chiếm
tỷ lệ nhỏ trong tổng số lao động, lao động chủ yếu vẫn là lao động thủ công,
trình độ dân trí của lao động chưa cao.
Bảng : Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động qua các
năm
Đơn vị : %
Năm 2000 2004 2005
Lao động đã qua đào tạo 23,5 28 30
Lao động chưa qua đào tạo 86,5 82 70
Tổng 100 100 100
Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình
Năm 2005, lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân chiếm
khoảng 94% số người trong độ tuổi lao động, trong đó lao động khu vực quốc
doanh chiếm tỷ trọng 4,73%; lao động ngoài quốc doanh chiếm 95,27%. Tỷ lệ
lao động được đào tạo đã tăng qua các năm, năm 2005 đạt 30%.
Theo các kết quả điều tra thống kê thì số lao động được giải quyết việc
làm bình quân trong giai đoạn 2001 – 2005 khoảng 22.400 người/năm; tỷ lệ lao
động chưa có việc làm đến năm 2005 khoảng 5%.
Như vậy, Thái Bình là một tỉnh đông dân,lượng lao động dồi dào,hàng
năm lại được bổ sung thêm một lượng lớn lao động, đây là một thuận lợi nhưng
cũng gây nên áp lực rất lớn về giải quyết việc làm. Trình độ của lao động chưa
cao nên ưu tiên phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động thủ công.
1.3. Tài nguyên thiên nhiên
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, trong lòng đất vùng ven biển
có nguồn tài nguyên khí đốt. Mỏ khí Tiền Hải khai thác từ năm 1981 với sản
lượng bình quân cung cấp mỗi năm hàng chục triệu m
3
khí thiên nhiên. Lượng
khí này khai thác chủ yếu phục vụ cho phát triển công nghiệp sản xuất đồ sứ
tráng men, vật liệu xây dựng ở khu công nghiệp Tiền Hải.
Mỏ nước khoáng Tiền Hải với sản lượng khai thác hàng năm khoảng hơn
10 triệu lít đã được thị trường trong và ngoài nước biết đến với nhãn hiệu nước
khoáng Vital, nước khoáng Tiền Hải.
Ở huyện Hưng Hà đã thăm dò và phát hiện mỏ nước nóng 57
0
C ở độ sâu
50m và nước nóng 72
0
C ở độ sâu 178m, bước đầu đã khai thác phục vụ sản xuất
cá giống.
Trong lòng đất tỉnh Thái Bình còn có than nâu thuộc bể than nâu vùng
đồng bằng sông Hồng, được đánh giá có trữ lượng rất lớn (hơn 30 tỷ tấn) và đầu
năm 2009 đã ký kết khai thác với tổng công ty than Việt Nam.
1.4. Đất đai và cơ sở hạ tầng
Đất đai của Thái Bình chủ yếu là đất bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng nên
nhìn chung tốt, thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp toàn diện, với cơ cấu
cây trồng vật nuôi phong phú đa dạng. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh năm
2005 là 164.770 ha, đã khai thác và sử dụng như sau :
Bảng : Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Thái Bình năm 2005
ST
T Chỉ tiêu Diện tích (ha)
Cơ
cấu (%)
Tổng diện tích đất tự nhiên 164770 100
I Đất nông, lâm, ngư nghiệp 106.811 64,8
Trong đó : Đất lâm nghiệp 2.028 1,2
II Đất phi nông nghiệp 45.206 27,4
1 Đất ở 12.484 7,6
-Đất ở đô thị 515 0,3
-Đất ở nông thôn 11.969 7,3
2 Đất chuyên dùng 23.519 14,3
-Đất trụ sở cơ quan 416 0,3
-Đất quốc phòng an ninh 139 0,1
-Đất sản xuất phi nông nghiệp 731,2 0,4
Đất khu công nghiệp 306,5 0,2
Đất cho hoạt động khoáng sản 312,3 0,2
Đất sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ 112,4 0,1
-Đất có mục đích công cộng 22.232,8 13,5
Trong đó : Đất giao thông 7.962,4 4,8
Đất thuỷ lợi 13.090,8 7,9
3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 436 0,3
4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 1.587 1,0
5 Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 7.157 4,3
6 Đất phi nông nghiệp khác 23 0,0
III Đất chưa sử dụng 2.576 1,6
IV Đất có mặt nước ven biển 10.177 6,2
1 Đất có mặt nước ven biển nuôi trồng thuỷ sản 621 0,4
2 Đất có rừng ngập mặn 2.026 1,2
3 Đất mặt nước ven biển mục đích khác 7530 4,6
Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình
Tỉnh đã quy hoạch và xây dựng 7 khu công nghiệp, 18 cụm công nghiệp
trên địa bàn toàn tỉnh, xây dựng đường vào tới chân rào của các khu công
nghiệp, rất thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc vận chuyển hàng hoá.
Giao thông ở Thái Bình thuận lợi đi các tỉnh trong vùng và với cả nước.
Đường giao thông với các trục đường chính : quốc lộ 10 Nam Định - Hải
Phòng, quốc lộ 39 Thái Bình – Hưng Yên, quốc lộ
Hệ thống thông tin liên lạc cũng đã rất phát triển. Trong tỉnh có 99,9% số
hộ sử dụng điện, tất cả các xã, huyện, thành phố đều có trạm thu phát sóng điện
thoại.
1.5. Tiềm năng phát triển kinh tế của tỉnh
Thái Bình là một tỉnh đông dân, có lực lượng lao động dồi dào, hàng năm
lại được bổ sung một lượng lớn lao động nên có thể ưu tiên phát triển các ngành
sử dụng nhiều lao động như dệt may, giầy da, …
Là một tỉnh với nền nông nghiệp truyền thống, các sản phẩm nông nghiệp
đa dạng, các sản phẩm của thuỷ sản cũng phong phú (gồm thuỷ sản nước mặn,
thuỷ sản nước lợ, thuỷ sản nước ngọt) nên việc phát triển các ngành công
nghiệp chế biến là hoàn toàn hợp lý.
Với đa dạng nguồn tài nguyên thiên nhiên, việc phát triển công nghiệp
khai thác tài nguyên của tỉnh đã và đang được thực hiện.
1.6. Những thuận lợi và khó khăn về phát triển kinh tế của tỉnh
1.6.1. Thuận lợi
Tình hình kinh tế trong nước sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã
đạt được những thành tựu to lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế của tỉnh
phát triển.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc Việt Nam tham gia vào các
tổ chức kinh tế của khu vực và thế giới như ASEAN, AFTA, và đặc biệt là tham
gia vào WTO đã tạo cơ hội cho kinh tế nước ta được giao lưu, mở rộng thị
trường.
Thái Bình nằm gần các trung tâm đô thị lớn, đặc biệt là thủ đô Hà Nội và
Hải Phòng, đó là những thị trường rộng lớn, là trung tâm hỗ trợ đầu tư, kỹ thuật,
kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ và cung cấp thông tin cho tỉnh, tác
động rất lớn tới hoạt động kinh tế của tỉnh, tới quá trình sản xuất hàng hóa và
tiêu thụ sản phẩm.
Với ưu thế về địa giới hành chính gọn, địa hình bằng phẳng, thông tin
liên lạc thuận tiện và kết cấu hạ tầng nông thôn tương đối phát triển; mạng lưới
giao thông đường bộ và hệ thống sông và các cửa biển; mạng lưới giao thông
đường thuỷ phát triển sẽ có tác động thúc đẩy sự giao lưu hàng hoá của tỉnh với
các tỉnh trong vùng, cả nước và quốc tế, nhất là với khu vực nam Trung Quốc và
các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Thái Bình có nguồn lao động dồi dào, có trình độ văn hoá, giá nhân công
rẻ, đó là lợi thế trong việc thu hút các dự án đầu tư, nhất là các dự án sản xuất
hàng công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động.
Hạ tầng kinh tế xã hội sau nhiều năm được đầu tư xây dựng là một trong
những điều kiện tương đối thuận lợi cho phát triển kinh tế.
1.6.2. Khó khăn
Thái Bình vốn là một tỉnh nông nghiệp, điểm xuất phát và tích luỹ nội bộ
thấp, mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng đầu tư phát triển. Nguồn vốn ngân
sách dành cho đầu tư phát triển còn hạn hẹp, lĩnh vực kinh tế đối ngoại (xuất
nhập khẩu, ODA, FDI) còn nhiều khó khăn, nguồn vốn đầu tư nước ngoài thu
hút chậm… sẽ làm cho tiến trình công nghiệp hoá, tạo công ăn việc làm, tăng
thu nhập cho người dân và tích luỹ cho nền kinh tế càng khó khăn hơn.
Hạ tầng cơ sở kỹ thuật tuy đã được quan tâm đầu tư cải thiện, nhưng
thiếu đồng bộ, chưa đủ đáp ứng cho một nền sản xuất hàng hoá và phát triển
dịch vụ trong điều kiện cạnh tranh gay gắt và chưa đủ sức hấp dẫn với các nhà
đầu tư trong nước cũng như ngoài nước.
Nền kinh tế hàng hoá còn yếu, chất lượng thấp, khối lượng hàng hóa nhỏ,
manh mún, sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và các nước trong khu vực
thấp.
Đất hẹp, người đông cùng với các khó khăn vốn có của nền kinh tế thuần
nông, sức ép về gia tăng dân số, giải quyết việc làm không chỉ là những hạn chế
trước mắt mà còn là vấn đề bức xúc cho phát triển kinh tế trong những năm tới
đối với Thái Bình.
Các chính sách kinh tế còn thiếu đồng bộ, nhất quán, môi trường đầu tư
chậm được cải thiện… làm hạn chế việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh
của các thành phần kinh tế.
Những bức xúc trong lĩnh vực xã hội, tình hình nông thôn chưa thực sự
ổn định, hạn chế một phần tính năng động sáng tạo vươn lên trong phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh.
Tập quán làm ăn nhỏ lẻ, trì trệ, ỷ lại, kém năng động của một tỉnh nông
nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới mở ra những
thuận lợi mới để tỉnh phát triển nhưng đồng thời cũng tạo sức ép cạnh tranh
quyết liệt.
2. Những thành tựu phát triển kinh tế của tỉnh
Trong những năm qua, kinh tế xã hội của tỉnh có bước phát triển rõ rệt.
Trong 5 năm 2001 – 2005 nền kinh tế tỉnh Thái Bình đã có bước phát
triển khá, đạt khoảng 7,21%/năm, vượt mục tiêu đại hội đề ra ( 7%), gần bằng
mức tăng bình quân của cả nước (7,5%). Phát triển tương đối toàn diện cả về
kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường.
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp và xây dựng tăng bình quân
16,02%/năm. Trong đó sản xuất công nghiệp tăng bình quân 17.82%/năm. Khu
vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 37,8% GDP tăng thêm trong giai đoạn
2001 – 2005. Ngành dịch vụ tăng trưởng bình quân 9,65%/năm. Khu vực dịch
vụ đóng góp 33,5% GDP tăng thêm trong giai đoạn 2001 – 2005.
Bảng 2. Nhịp độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1996 – 2005
Đơn vị : %
Nhịp độ tăng trưởng
1996 - 2000 2001 - 2005 19996 - 2005
Tổng GDP (giá so sánh 1994) 4,45 7,21 5,82
Nông, lâm, ngư nghiệp 2,7 3,23 2,97
Công nghiệp và xây dựng 5,4 17,1 11,08
Dịch vụ 8,3 9,2 8,75
Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình, 11/2005
Tổng sản phẩm nội tỉnh ( GDP – giá cố định 1994 ) năm 2008 ước đạt
7.146,7 tỷ đồng, tăng 10,56% so với năm 2007. Trong đó khu vực nông, lâm,
thuỷ sản đạt 3.274,8 tỷ đồng, tăng 4,09%; khu vực công nghiệp – xây dựng đạt
1.654,5 tỷ đồng, tăng 22,5%; khu vực dịch vụ đạt 2.217,4 tỷ đồng tăng 12,7%.
Bảng 3. Cơ cấu kinh tế giai đoạn 1995 – 2008
Đơn vị : %
1995 2000 2005 2008
Tổng GDP 100,
0
100,
0
100,
0
100,0
Nông, lâm, ngư nghiệp 61,7 53,7 42,27 39,9
Công nghiệp-xây dựng 13,0
1
14,7
5
22,86 25,6
Dịch vụ 25,2
9
31,5
5
34,87 34,5
Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình, 11/2005
Kinh tế Thái Bình với nền kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt là sự phát
triển của kinh tế tư nhân đã thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Kinh tế tư nhân
trên địa bàn tỉnh có xu hướng phát triển nhanh, ngành nghề sản xuất kinh doanh
đa dạng, mở rộng thị trường tiêu thụ, đã có sản phẩm xuất khẩu, tạo được nhiều
công ăn việc làm cho người lao động, đóng góp đáng kể vào quá trình tăng
trưởng kinh tế và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 2001 – 2005 đạt 344,33 triệu USD, tốc
độ tăng nhanh, bình quân giai đoạn 2001 – 2005 là 23,6%/năm. Kim ngạch xuất
khẩu năm 2008 : 130 triệu USD, tăng 28,7%, kim ngạch nhập khẩu : 115 triệu
USD, tăng 14,6% so với năm 2007, chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng nông sản,
hang công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Một số mặt hàng có kim ngạch
nhập khẩu cao như vải, phụ liệu hàng dệt may,…