TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI VÀ VẤN ĐỀ XÂM
NHẬP THỊ TRƯỜNG NƯỚC NGOÀI
I. Tổng quan về vấn đề xâm nhập thị trường nước ngoài
1. Khái niệm thị trường trong kinh tế học
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán một thứ hàng hóa nhất định nào
đó, với nghĩa này có thị trường gạo, thị trường cà phê, thị trường chứng khoán, thị trường
vốn, v.v... Ở một nghĩa hẹp khác, thị trường là một nơi nhất định mà tại đó diễn ra các hoạt
động mua bán hàng hóa và dịch vụ. Trong kinh tế học, thị trường được hiểu rộng hơn, đó
là nơi có các quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa vơ số những người bán và người
mua có quan hệ cạnh tranh với nhau, bất kể là ở địa điểm nào, thời gian nào. Thị trường
đảm nhiệm 03 chức năng chủ yếu, đó là:
- Thứ nhất, thừa nhận cơng dụng xã hội của hàng hóa (giá trị sử dụng xã hội) và lao
động đã chi phí để sản xuất ra nó, thơng qua việc hàng hóa đó có bán được hay không, bán
với giá thế nào.
- Thứ hai, cung cấp thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng thông qua
những biến động của nhu cầu xã hội về số lượng, chất lượng, chủng loại, cơ cấu của các
loại hàng hóa, giá cả, tình hình cung cầu về các loại hàng hóa.
- Thứ ba, kích thích hoặc hạn chế sản xuất và tiêu dùng.
Trong kinh tế học, thị trường được chia thành ba loại căn cứ theo chức năng: thị
trường hàng hóa - dịch vụ (cịn gọi là thị trường sản lượng), thị trường lao động, và thị
trường tiền tệ. Ngồi ra, thị trường cịn có thể phân loại theo phạm vi quốc gia: thị trường
nội địa (thị trường trong nước) và thị trường nước ngoài.
- Thị trường nội địa (thị trường trong nước) là thị trường giới hạn trong phạm vi
một quốc gia.
- Thị trường nước ngoài là thị trường ở ngoài biên giới một quốc gia, đây là thị
trường rộng lớn và đa dạng với nhiều đặc điểm khác nhau, thậm chí có cả những đặc điểm
đối nghịch về văn hóa, tập qn, sở thích, phương thức vận hành, lưu thông…
2. Khái niệm xâm nhập thị trường nước ngoài
Mở rộng thị trường là kết quả của chiến lược xâm nhập thị trường thành cơng, trong
đó đi kèm với nó là tăng thị phần, lợi nhuận và sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ. Khái
niệm “mở rộng thị trường” ở đây không chỉ là phát triển, khai thác thị trường mới theo bề
rộng mà còn đặc biệt quan tâm thị trường đã có theo chiều sâu. Điều này chỉ có thể đạt
được bằng cách ln ln có khả năng cung cấp cho khách hàng những sản phẩm và dịch
vụ có chất lượng cao.
Xâm nhập thị trường nước ngoài là những biện pháp hoặc chiến lược nhằm nâng
cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy tăng lợi nhuận,
sức ảnh hưởng và thị phần nắm giữ. Hoạt động xâm nhập thị trường được coi là một nội
dung trong hoạt động marketing quốc tế. Xâm nhập thị trường nước ngoài để mở rộng thị
trường là hệ quả của q trình tồn cầu hóa, quốc tế hóa nền kinh tế. Nói cách khác, xâm
nhập thị trường nước ngoài là nhu cầu tất yếu của các doanh nghiệp trong quá trình hội
nhập, nhu cầu này xuất hiện khi:
- Doanh nghiệp có khả năng cung cấp những sản phẩm hoặc dịch vụ có chất lượng
tốt hơn hoặc với giá rẻ hơn để phản công lại thị trường nội địa của đối thủ cạnh tranh nhằm
làm phân hóa nguồn lực của các đối thủ này
- Doanh nghiệp nhận thấy rằng có những thị trường nước ngồi mang lại lợi nhuận
cao hơn thị trường trong nước
- Doanh nghiệp có thể cần phát triển một hệ thống khách hàng lớn hơn để phục vụ
chiến lược quy mơ kinh tế của mình
- Doanh nghiệp có thể khơng muốn q phụ thuộc vào một thị trường đơn lẻ nào đó
mà muốn phân tán rủi ro
- Khách hàng của doanh nghiệp có hoạt động ở nước ngoài nên cần dịch vụ của
doanh nghiệp ở nước đó.
3. Các hình thức xâm nhập thị trường nước ngồi
Có năm hình thức xâm nhập thị trường nước ngồi chủ yếu, bao gồm:
3.1. Xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hóa là hình thức đầu tiên của q trình xâm nhập thị trường quốc tế
thơng qua hoạt động tiêu thụ những hàng hóa được sản xuất ở trong nước ra thị trường
nước ngồi. Phần lớn các cơng ty bắt đầu việc mở rộng ra thị trường thế giới với tư cách là
những nhà xuất khẩu và chỉ sau đó mới chuyển từ phương thức này sang phương thức khác
để phục vụ thị trường nước ngoài. Việc xuất khẩu có hai ưu điểm rõ nét: thứ nhất, tránh
được chi phí đầu tư cho các hoạt động sản xuất ở nước sở tại (các chi phí này thường là
đáng kể); thứ hai là có thể thực hiện được lợi thế chi phí và lợi thế vị trí. Bằng việc sản
xuất sản phẩm ở một địa điểm tập trung và sau đó xuất khẩu sang khác thị trường nước
ngồi khác, cơng ty có thể thực hiện được lợi thế quy mơ đáng kể qua khối lượng bán cho
thị trường tồn cầu của mình. Hiệu quả của chiến lược xuất khẩu là nhằm làm cho sản
phẩm hàng hóa thích ứng và thỏa mãn được nhu cầu của các khách hàng và sự ưa thích của
thị trường, đồng thời làm cho chính sách giá cả, phân phối và truyền thông liên kết chặt
chẽ trong một chiến lược marketing tổng thể. Tuy nhiên, xuất khẩu cũng có một số nhược
điểm. Thứ nhất, các sản phẩm xuất khẩu được sản xuất từ cơ sở của các cơng ty ở chính
quốc có thể khơng phù hợp với nhu cầu và điều kiện thị trường địa phương. Thứ hai, chi
phí vận chuyển cao có thể làm cho việc xuất khẩu trở nên không kinh tế, đặc biệt trong
trường hợp các sản phẩm cồng kềnh. Các hàng rào thuế quan cũng có thể làm cho việc xuất
khẩu giảm hiệu quả kinh tế. Cuối cùng, những rủi ro bắt nguồn từ nguyên nhân ít kinh
nghiệm xuất khẩu, ít am hiểu thị trường của các công ty mới bắt đầu xuất khẩu.
3.2. Nhượng quyền thương hiệu
Nhượng quyền thương hiệu là cách thức mà một doanh nghiệp cho phép một doanh
nghiệp khác nào đó được sử dụng tài sản vơ hình của mình như quy trình sản xuất, thương
hiệu, sáng chế, bí mật kinh doanh để thu về khoản phí sử dụng những tài sản vơ hình đó.
Thơng qua hình thức này, bên nhượng quyền thương hiệu có thể xâm nhập thị trường với ít
rủi ro trong khi bên nhận nhượng quyền nhận được những kỹ năng chuyên môn trong sản
xuất, một hàng hóa, dịch vụ hay một tên tuổi danh tiếng nào đó mà khơng cần phải bắt đầu
từ đầu. Nhượng quyền thương hiệu cũng có những hạn chế có thể xảy ra, ví dụ như doanh
nghiệp ít có khả năng kiểm soát hơn đối với bên nhận nhượng quyền khi bên nhận nhượng
quyền có thể tự xây dựng cơ sở vận hành riêng cho mình. Hơn nữa, nếu như bên nhận
nhượng quyền thương hiệu hoạt động thành cơng thì cũng có nghĩa là bên nhượng quyền
để mất đi lợi nhuận mình đáng có. Khi kết thúc hợp đồng nhượng quyền giữa hai bên, bên
nhượng quyền có thể sẽ nhận ra rằng mình đã tạo ra một đối thủ cạnh tranh.
3.3. Đầu tư trực tiếp
Đầu tư trực tiếp là hình thức sở hữu trực tiếp đối với nhà xưởng máy móc thiết bị
đầu tư tại một nước nào đó. Đầu tư trực tiếp liên quan đến việc chuyển giao tiền vốn, con
người và cơng nghệ. Đầu tư trực tiếp có thể được thực hiện qua hình thức mua lại một
doanh nghiệp đang có sẵn hoặc thành lập một doanh nghiệp mới. Hình thức sở hữu trực
tiếp đảm bảo mức độ kiểm soát hoạt động doanh nghiệp cao hơn cũng như khả năng nhận
biết về khách hàng cũng như môi trường hoạt động tốt hơn. Tuy nhiên, hình thức này địi
hỏi phải có nguồn lực nhiều hơn cũng như sự cam kết cao hơn đối với hoạt động của
doanh nghiệp.
3.4. Xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại là các biện pháp và nghệ thuật dùng để thơng tin về hàng hố,
tác động tới người mua, lơi kéo họ về phía mình và các biện pháp hỗ trợ cho bán hàng,
đồng thời thúc đẩy, khuyến khích phát triển thương mại. Trong hoạt động xúc tiến thương
mại có 03 chủ thể tham gia chủ yếu là: Chính phủ, các tổ chức hoạt động XTTM và các
doanh nghiệp. Xúc tiến thương mại gồm 3 nội dung chính là: quảng cáo, các hoạt động
yểm trợ và xúc tiến bán hàng. Nói cách khác, đó là các hoạt động nghiên cứu bàn giấy,
khảo sát và các dịch vụ liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới hành vi mua bán nhưng không
thuộc hành vi mua bán mà chỉ hỗ trợ nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Các biện pháp xúc
tiến thương mại có thể tác động hỗ trợ gián tiếp hay trực tiếp đến phát triển thương mại
như: hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu triển khai, hỗ trợ việc tăng khối lượng sản phẩm sản
xuất ra, hỗ trợ về mặt tài chính, kích thích nhu cầu tiêu dùng tăng lên thông qua việc ký kết
các Hiệp định thương mại, thông qua hội chợ triển lãm, thông qua mở rộng hệ thống phân
phối, thiết lập văn phịng đại diện ở nước ngồi.
3.5. Cung cấp vốn ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development
Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Các khoản đầu tư này thường là các
khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Mục tiêu danh nghĩa
của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư.
Ưu điểm của ODA là: Lãi suất thấp (dưới 3%, trung bình từ 1-2%/năm); thời gian
cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 810 năm); trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ khơng hồn lại, thấp nhất là
25% của tổng số vốn ODA.
Bất lợi khi nhận ODA: Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích
và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho mình, đảm bảo mục tiêu
về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, các nước này đều có
chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có lợi thế (những mục
tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong
nước, khu vực và trên thế giới). Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần
hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu
hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị
trường bảo hộ cho những danh mục hàng hố mới của nước tài trợ; u cầu có những ưu
đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực
hạn chế, có khả năng sinh lời cao. Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các
nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà khơng hồn
tồn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Nguồn vốn viện trợ
ODA còn gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm. Cụ thể
là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá,
dịch vụ do nước viện trợ sản xuất. Nước tiếp nhận ODA tuy có tồn quyền quản lý sử dụng
ODA nhưng thơng thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý
của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng nước viện trợ có thể tham gia
gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
4. Nguyên nhân và quá trình hình thành xu hướng xâm nhập thị trường nước ngoài
4.1. Nguyên nhân xuất hiện xu hướng xâm nhập thị trường nước ngoài
4.1.1. Nâng cao lợi ích kinh tế đối với bản thân các doanh nghiệp
Xu hướng thâm nhập thị trường nước ngoài ra đời để thỏa mãn nhu cầu mở rộng thị
trường, nâng cao lợi nhuận trong lĩnh vực sản xuất và trao đổi, bn bán hàng hóa, dịch vụ.
Khi thị trường nội địa đã được các doanh nghiệp khai thác triệt để và tận dụng tối đa mọi
ưu thế của thị trường về nguồn nhân lực, quy mô tiêu thụ, thị trường nội địa trở thành một
cơ sở vững chắc để các doanh nghiệp tìm hiểu và tận dụng thị trường lao động giá rẻ và thị
trường tiêu thụ đầy tiềm năng ở nước ngoài. Thị phần mở rộng tất yếu mang lại nguồn lợi
khổng lồ cho các doanh nghiệp về doanh thu, quảng bá hình ảnh và uy tín của doanh
nghiệp trên trường quốc tế, đồng thời còn tạo cho các nhà kinh doanh cơ hội cải thiện cơ
cấu sử dụng lao động, và giá thành sản phẩm. Cơ hội đầu tiên đối với các nhà kinh doanh
là tìm đến những thị trường có nguồn lao động rẻ, nguồn tài nguyên, nhiên liệu dồi dào,
đây là những điều kiện quan trọng giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất ra thị trường nước
ngoài, kiểm soát chặt chẽ và triệt để cũng như cân bằng tình hình sản xuất – kinh doanh
giữa hai khu vực thị trường nội địa và thị trường ngoại quốc. Học hỏi những kinh nghiệm
buôn bán quốc tế, đầu tư, quản lý và tiếp thu những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật
ứng dụng cho sản xuất và điều hành kinh tế ở quy mô quốc gia và quốc tế, nhanh chóng
hội nhập với xu thế tồn cầu hố là xu thế tất yếu và có lợi.
4.1.2. Nâng cao lợi ích kinh tế và thỏa mãn nhu cầu phát triển ngành của nền kinh tế quốc
gia
Đối với mỗi doanh nghiệp, lợi ích trong việc mở rộng thị phần ra nước ngồi là điều
khơng thể chối cãi. Tuy nhiên, điều cần chú ý là xu hướng hành động này của các doanh
nghiệp khơng chỉ được chính phủ trong nước tạo điều kiện hỗ trợ mạnh mẽ, mà hơn hết,
trở thành chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia. Sự đồng thuận này giữa các doanh
nghiệp và chính phủ, trước hết là bởi nguồn lợi kinh tế mang lại khi thị trường nước ngoài
được khai phá và tận dụng thành công: GDP tăng cao, nâng cao xuất khẩu cũng đồng nghĩa
với việc nâng cao ngân sách quốc gia, cải thiện cơ sở hạ tầng trong nước và mức sống của
người dân trong nước, phục vụ cho mục tiêu phát triển ngành, cơ cấu sản xuất và cán cân
xuất nhập khẩu. Mở rộng thị trường cho hàng hoá đẩy mạnh sản xuất trong nước phát triển
tạo công ăn việc làm và khuyến khích phát triển cơng nghệ thúc đẩy sản xuất. Xuất khẩu
hàng hố có lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối để mua lại những hàng hố khó sản xuất ở
trong nước, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng ngày càng tạo nhiều lợi
thế so sánh hơn (chuyển dịch cơ cấu ngành nghề); nhập khẩu và tiếp thu trực tiếp các cơng
nghệ tiên tiến đầu tay, hiện đại hố nền kinh tế và cải thiện tiêu dùng cho nhân dân, tăng
quy mơ thị trường.
Ngồi ra, trong q trình tồn cầu hóa kinh tế, xâm nhập và mở rộng thị trường
nước ngoài trở thành một nhu cầu tất yếu đối với rất nhiều quốc gia, đặc biệt là những nền
kinh tế cần nhiều tài nguyên, nguyên liệu và nhiên liệu thô phục vụ cho phát triển công
nghiệp. Xâm nhập vào thị trường nước ngoài là giải pháp tối ưu để tiến hành khai thác, tận
dụng, thậm chí tiến đến kiểm sốt nguồn tài nguyên, nguyên nhiên liệu dồi dào ở nhiều
nước đang và kém và phát triển. Thị trường nước ngoài khi đó khơng đơn thuần là “đầu
ra”- thị trường tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong nước, mà trở thành nguồn cung cấp “đầu
vào” thỏa mãn “cơn khát” năng lượng, tài nguyên của nền công nghiệp nội địa.
4.1.3. Nâng cao vị thế chính trị của quốc gia trên trường quốc tế
Trong kỷ ngun mới của tồn cầu hóa, mỗi quốc gia đều cần nhận thức được rõ
ràng vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Mặt trái của tồn cầu hóa là sự phân biệt
giàu nghèo, sức ảnh hưởng mang tính kiểm sốt của những thế lực lớn trong kinh tế thế
giới, và sự “lép vế” trong quan hệ ngoại giao, phân chia lợi ích kinh tế của các nước “tầm
vóc” kinh tế bé nhỏ hơn. Bởi thế, càng nâng cao sức ảnh hưởng trên thương trường, các
quốc gia càng có nhiều lợi thế để thúc đẩy tiếng nói của mình trên chính trường quốc tế,
đây là định hướng phát triển lâu dài mà quốc gia nào trên thế giới cũng khát khao hướng
đến. Xu hướng thâm nhập, mở rộng thị trường, đặt trong bối cảnh tồn cầu hóa, đặc biệt là
tồn cầu hóa kinh tế sâu rộng như hiện nay, trở thành một nhu cầu phát triển cực kỳ quan
trọng phục vụ cho mục đích chính trị của các nền kinh tế.
4.2. Quá trình hình thành và phát triển xu hướng xâm nhập và mở rộng thị trường
nước ngoài
Xâm nhập và mở rộng thị trường gắn liền với q trình tồn cầu hóa kinh tế, những
mục tiêu tồn cầu hóa kinh tế đặt ra có thế nói phần lớn đã được thực hiện hiệu quả thông
qua chiến lược xâm nhập và mở rộng thị trường. Trong lịch sử phát triển của xã hội lồi
người, q trình tồn cầu hóa kinh tế gắn liền với xâm nhập và mở rộng thị trường bắt
nguồn từ những giao lưu văn hóa, buôn bán, di dân; từ sự mở rộng các tôn giáo ra ngoài
biên giới các quốc gia, và cho đến nay là sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia, các
ngân hàng, các tổ chức quốc tế, sự trao đổi công nghệ, sự phát triển gắn với hiện đại hố.
Có thể nói, q trình này là kết quả của sự quốc tế hoá sản xuất cao độ và phân cơng quốc
tế, nó xuất hiện và phát triển cùng với thị trường thế giới.
4.2.1. Giai đoạn 1
Trong xã hội phong kiến, lực lượng sản xuất phát triển thấp, giao thông kém phát
triển, quy mô sản xuất và trao đổi nhỏ bé, thị trường khép kín, khơng có thị trường mang ý
nghĩa hiện đại. Khi nền sản xuất tư bản phát triển, thị trường thế giới mở rộng, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã viết: “Thay cho những nhu cầu cũ được thoả mãn bằng những sản phẩm
trong nước, thì nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thoả mãn bằng những sản
phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về. Thay cho tình trạng cơ lập trước kia của các
địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự
phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc”. Luận điểm này của C.Mác và Ph.Ăngghen cho thấy,
sự quốc tế hoá, tồn cầu hố đời sống kinh tế gắn liền với sự mở rộng thị trường đã được
bắt đầu từ khi chủ nghĩa tư bản mở rộng thị trường thế giới, khi phát hiện ra châu Mỹ cách
đây hơn 500 năm. Sự phát triển của quốc tế hoá đời sống kinh tế lúc đầu còn theo chiều
dọc, theo hệ thống thuộc địa của các nước đế quốc thực dân, trên cơ sở sự phân công quốc
tế và xuất khẩu tư bản xuất phát từ các chính quốc đến các nước thuộc địa, thơng qua bạo
lực và bóc lột kinh tế. Khi chủ nghĩa đế quốc xuất hiện, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt
giữa các thế lực đế quốc trong phân chia thuộc địa và thị trường thế giới, sự quốc tế hoá
đời sống kinh tế đã mở rộng cả theo chiều ngang. Khi các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
nhất và lần thứ hai nổ ra, quan hệ chính trị và kinh tế thế giới đảo lộn, khủng hoảng và biến
động, q trình quốc tế hố đời sống kinh tế bị đẩy lùi.
4.2.2. Giai đoạn 2
Sự xuất hiện nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới vào năm 1917 và hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới hình thành sau chiến tranh thế giới lần thứ hai tạo nên một
kiểu quan hệ mới giữa các quốc gia dân tộc. Kiểu quan hệ mới này bước đầu mở ra kiểu
quốc tế hoá đời sống kinh tế mới, dựa trên tính ưu việt của hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa, nhằm khắc phục sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế của chủ nghĩa tư bản, đặt
nền móng cho sự quốc tế hố chân chính. Song, do những thăng trầm của lịch sử, trong
những năm 90 của thế kỷ XX, Liên Xô sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, kiểu quan
hệ kinh tế quốc tế này đã kết thúc.Tuy nhiên, lực lượng sản xuất vẫn ngày càng phát triển.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức hình
thành, đời sống kinh tế quốc tế hố, tồn cầu hố; các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển
và trở thành lực lượng chi phối thế giới. Có thể nói, từ sau chiến tranh lạnh, tồn cầu hố
kinh tế đi liền với quá trình mở rộng và xâm nhập thị trường chủ yếu gắn liền với chủ
nghĩa tư bản. Mặc dù vậy, trên thực tế, hiện nay vẫn tồn tại một số nước xã hội chủ nghĩa,
hầu hết là nước đang phát triển. Do vậy, khi đề cập đến tồn cầu hóa kinh tế và quá trình
phát triển của xu hướng xâm nhập, mở rộng thị trường thì khơng thể bác bỏ một thực tiễn
lịch sử là quá trình này đang diễn ra trong bối cảnh hình thành cục diện kinh tế đa cực,
hình thành một trật tự kinh tế, chính trị quốc tế mới, trong đó có hình thức phát triển, hợp
tác, cạnh tranh và cùng nhau phồn vinh của các quốc gia dân tộc. Và khái niệm tồn cầu
hố hiện đại gắn liền với xâm nhập và mở rộng thị trường trở thành xu thế khách quan
đang diễn ra trong thời đại hiện nay. Lịch sử của quá trình quốc tế hố, tồn cầu hố kinh
tế rất lâu dài, và phải thấy rằng, cơ cấu của tồn cầu hố bắt đầu từ sự hình thành nhà nước,
quốc gia dân tộc và tư nhân hoá - những cỗ xe đi đến hiện đại. Kết quả tất yếu là sự mở
rộng thị trường thế giới. Mở rộng thị trường thế giới gắn với việc phát triển lực lượng sản
xuất của chủ nghĩa tư bản và cả quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Sự hiện đại hoá lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản dẫn tới tồn cầu hố. Nó đi trước
và quyết định q trình tồn cầu hóa. Song, cho đến nay, tồn cầu hóa lại là một trong
những điều kiện để hiện đại hóa thế giới, bất chấp ý muốn của ai. Sự phát triển của phương
Tây thúc đẩy hiện đại hóa, tồn cầu hóa. Bởi vậy, việc hiện đại hóa của thế giới, trong đó
có các nước đang phát triển ở phương Đông không thể bỏ qua một thực tế là phải hiện đại
hóa theo những kinh nghiệm của phương Tây trên nền văn hóa của phương Đơng. Các nền
kinh tế của các quốc gia gắn bó và tùy thuộc vào nhau, dần dần hình thành một thể thống
nhất, xóa dần đi những ngăn trở và khoảng cách về nhiều phương diện. Nền sản xuất và thị
trường tiêu thụ thế giới mang tính tồn cầu. Phân cơng lao động quốc tế đã đạt tới trình độ
rất cao, khơng chỉ giới hạn ở chun mơn hố sản phẩm mà đã là chun mơn hóa các chi
tiết sản phẩm. Với phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các
nước làm phân xưởng của mình, các nước có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao
động và thị trường của nước khác, từ đó thúc đẩy quốc tế hố sản xuất phát triển nhanh
chóng, đồng thời khuyếch đại thị trường tiêu thụ sản phẩm trên toàn cầu. Các cơng ty
xun quốc gia phát triển chưa từng có trong lịch sử và đóng vai trị hết sức quan trọng, nó
thúc đẩy xu thế tồn cầu hố và khu vực hóa. Theo thống kê của Liên hợp quốc, năm 1996,
thế giới có 44.000 cơng ty xun quốc gia, trong đó 28.000 cơng ty con có tổng giá trị sản
xuất chiếm 40% GDP thế giới, chiếm 50% giá trị thương mại của thế giới. Tổng kim ngạch
tài sản năm 1996 của các công ty xuyên quốc gia này lên tới 3.200 tỷ USD. Hàng năm đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của chúng chiếm 90% đầu tư trực tiếp của thế giới. Năm 1998,
các vụ sáp nhập đã lên đến 2.500 tỷ USD. Năm 1999, riêng 10 vụ sáp nhập các công ty lớn
trên thế giới đã lên tới 1.500 tỷ USD. Vụ sáp nhập 3 ngân hàng lớn ở Nhật Bản vào tháng
8/1999 với 1.200 tỷ USD, đã bằng tổng giá trị 7.700 vụ sáp nhập năm 1998. Năm 2000,
các cuộc cạnh tranh và sáp nhập các tập đoàn lớn lại diễn ra gay gắt, quyết liệt với quy mô
lớn chưa từng thấy. Trong q trình tồn cầu hố và khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết
kinh tế, dẫn đến sự ra đời các tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực.
Đó là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB), Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Liên
minh các nước Đông Nam Á (ASEAN), Thị trường tự do Nam Mỹ Mercosur, Khối cộng
đồng kinh tế Tây Phi, và hàng chục tổ chức kinh tế khác ở khắp các châu lục.Thông qua
các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế này, quy mơ lưu thông vốn quốc tế lớn
chưa từng thấy, tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế;
các lĩnh vực hợp tác trong toàn cầu hoá kinh tế và xâm nhập, mở rộng thị trường không
ngừng phát triển.
II. Tổng quan về thị trường Châu Phi
1. Giới thiệu khái quát về Châu Phi - lục địa đen của thế giới
1.1. Điều kiện tự nhiên
Nguồn tài nguyên dồi dào đã khiến Châu Phi được xem là châu lục có kho tàng
khoáng sản đáng chú ý nhất trên trên thế giới. Cho đến nửa thế kỷ trước, những cuộc thăm
dò cho thấy trữ lượng khống sản hầu như vơ tận ở châu lục này.Ở vùng Trung Phi, vàng
nằm cả ở vùng ven biển lẫn trong nội địa. Nhưng trữ lượng vàng lớn nhất lại nằm ở phía
nam, ở Mađagatxca và nhất là Transvaal. Miền trung Châu Phi có vàng, granit, thiếc với
trữ lượng cũng rất lớn. ở Senegan và Sudan có than đá, quặng sắt, titan, trong đó có rất
nhiều mỏ chưa được khai phá. Vùng đất Angieri được biết đến với trữ lượng lớn chì, kẽm,
thủy ngân, sắt. Vùng Maroc là dầu hỏa, vùng Rif là bạc, rất nhiều muối và phốt phát.
Nhưng vùng giàu khoáng sản nhất là phía nam Châu Phi với : vàng (từ đầu thế kỷ trước đã
chiếm 3/5 sản lượng vàng thế giới), kim cương được tìm thấy trong cả đất phù sa, thậm chí
cả trong các bờ biển ở vùng đơng nam Châu Phi. Nam Phi cịn có cả quặng sắt, bạch kim,
than đá.
Cho đến nay, Châu Phi vẫn được xem là một kho tàng ngầm đáng thèm muốn nhất
của nhân loại. Trong 50 khoáng sản chủ yếu của nền kinh tế thế giới, Châu Phi đứng đầu
về trữ lượng của 17 loại: kim cương chiếm 90% của thế giới, côban – 87%, vàng – 67 %,
phốt phát – 70%, crôm – 50 %, mănggan – 70%, uranium – 37%, đồng và bôxit – 21%.
Đặc biệt, giá trị kho tàng ngầm của Châu Phi đã tăng vượt bậc khi những mỏ dầu và khí
đốt được phát hiện và khai thác ở Angiêri, Nigiêria, Angola, Libi, Gabơng, Cộng hịa
Cơnggơ1…Chính tiềm năng về khống sản này đã làm cho một số nước Châu Phi, mặc dầu
có trình độ phát triển kinh tế và hiện đại hóa cịn thấp kém, vẫn có một vị trí đáng kể và
một tiếng nói nhất định trên trường quốc tế. Ngồi ra, Châu Phi cịn có tiềm năng rất lớn
trong lĩnh vực thủy điện, theo số liệu báo cáo mới nhất thì tiềm năng thủy điện của Châu
Phi chiếm 35,4% tiềm năng chung của Thế giới.
1.2. Đặc điểm về con người, dân cư và nguồn nhân lực
1 Báo cáo trữ lượng khoáng sản của Châu Phi năm 2007
Kết quả của những nghiên cứu khảo cổ phát hiện ra rằng miền Bắc Châu Phi từng
có người da trắng cư trú mà phần lớn là gốc người Berbere và người Guanches. Ở phía
Nam của lục địa này, các nhà khảo cổ cũng gặp dấu vết của một giống người nguyên thủy
được coi là hậu duệ của một loài đười ươi cao cấp. Trên toàn bộ lục địa đen, kể cả Ai Cập,
nơi hơn 3000 năm trước đây đã có một nền văn minh rực rỡ, thì những cư dân cổ xưa đều
được biết đến từ thời kỳ đồ đá. Tại nhiều vùng, những cuộc xâm thực đã dẫn đến những
yếu tố dân cư mới với sự có mặt của người Tamagu, người Phơlixi, người La Mã, người Ai
Cập lai với người Berbere. Ngoài ra, người da đen lập nên những vương quốc lớn, tiến
hành những cuộc viễn chinh mở rộng phạm vi của mình và rồi pha lẫn với mọi giống
người trên lục địa. Có thể nói rằng, sự lai tạp nòi giống này đã biến Châu Phi thành một lục
địa có cư dân hỗn hợp khó mà tách bạch hồn tồn. Đó cũng được xem là yếu tố quan
trọng hình thành nên những đặc điểm nổi bật của cư dân châu lục này.
Thứ nhất, tính chất phức tạp của cư dân Châu Phi với những yêu cầu, thói quen
khác biệt trong mua bán, tiêu dùng là điều mà nhiều nhà nghiên cứu và kinh doanh quan
tâm khi tìm hiểu thị trường Châu Phi. Trước hết, phải kể đến người Sarrasin vẫn giữ lại
trong mình dịng máu Bắc Phi. Đặc biệt, ở vùng cận Sahara, những đám người du mục vẫn
giữ được dịng máu ngun thủy. Tại phía đơng là nhóm người Ethiopien đang lan rộng tới
các vùng khác như Senegan, vùng hồ Tchad. Ngoài vùng Ethiopia và vùng phía nam, tất cả
Châu Phi là của người da đen: Sudan, Maouas (phía đơng), Haoussas (phía tây),
Mandigoes (vùng thượng Senegan, Niger), Ouolofs (vùng hạ Senegan), người So So,
Timaney (vùng Ghinê), Dahomeen (miền nam Ghinê), Bantous (phía nam vùng xích đạo),
Boschiman (sa mạc Calahali).
Thứ hai, sự dịch chuyển dễ dàng và thường xuyên trong phạm vi lãnh thổ của các
cộng đồng người, của các nhóm người thuộc sắc tộc khác nhau, có trình độ sản xuất thấp
kém, là do cơ cấu quốc gia, bộ lạc, sắc tộc, thậm chí, sự lỏng lẻo trong kỷ cương của các
chính quyền đã tạo điều kiện cho sự dịch chuyển này.
Thứ ba, tỷ lệ dân số tăng cao, cho dù tỷ lệ tử vong, đặc biệt là trẻ em được xếp hàng
đầu trên thế giới. Trong khoảng từ năm 1980 đến năm 2000, tỷ lệ tăng dân số hàng năm
của Châu Phi là 2,6%, trong khi của Thế giới là 1,6%. Từ năm 2000 đến năm 2005, tình
hính có được cải thiện nhưng khơng đáng kể, vẫn ở mức 2,2% (so với mức 1,2% của Thế
giới). Với tỷ lệ tăng dân số cao như vậy, dân số Châu Phi năm 2005 là 906 triệu, tăng gần
hai lần trong 25 năm (năm 1980 mới có 470 triệu), quá lớn so với mức tăng của Thế giới
trong thời gian tương ứng là 1,3 lần. Đến năm 2010, dự báo dân số Châu Phi sẽ đạt khoảng
1 tỷ người2.
Thứ tư, phân bố dân cư của Châu Phi rất không đồng đều. Có mật độ dân số lớn
nhất là Nigiêria, Ethiopia, thung lũng sông Nin và quanh những vùng hồ lớn Victoria và
Tanganyica. Những thủ đô và hải cảng lớn là nơi tập trung một số lượng đáng kể dân cư ở
Châu Phi. Trong số đơng người nghèo, có một bộ phận người quá nghèo đến mức đói khát
quanh năm. Châu Phi cũng là lục địa duy nhất thường xuyên xảy ra nạn đói và cũng cần
đến sự viện trợ thường xuyên của cộng đồng quốc tế. Sự yếu kém về kinh tế tất yếu kéo
theo sự yếu kém về trình độ văn hóa. Thất học là tính trạng khá phổ biến ở nhiều vùng quê
Châu Phi. Đặc biệt, nước có tỷ lệ mù chữ cao nhất là Burkina: trong số 13,2 triệu dân, tỷ lệ
mù chữ của nam giới là 81,5% và nữ giới là 91,9%.3
Châu Phi còn là lục địa của các dịch bệnh như sốt rét, bệnh đường ruột, đặc biệt là
bệnh AIDS. Từ khi AIDS xuất hiện tới nay, Châu phi vẫn đứng đầu Thế giới về số người
nhiễm HIV, số người chết vì bệnh AIDS, và dĩ nhiên, đứng hàng chót Thế giới về những
điều kiện và nỗ lực ngăn ngừa căn bệnh thế kỷ này. Báo cáo của Hội nghị Quốc tế lần thứ
XVI về bệnh AIDS được tổ chức tháng 8/2006 cho thấy, chỉ tính riêng châu Phi cận Sahara
đã có tới 23.8 triệu người trong số 38,6 triệu người có HIV dương tính trên toàn Thế giới.
Cũng theo thống kê năm 2005, thế giới có 4,1 triệu bệnh nhân AIDS thì có 3,2 triệu là ở
Châu Phi; trong số 2,8 triệu người bị chết vì căn bệnh này, thì có tới 2,4 triệu người là
người Châu Phi. Điều đáng lưu ý là trên tồn châu lục đen, căn bệnh này lan rộng khơng
tính đến trình độ phát triển kinh tế. Ví dụ điển hình là tại Cộng hịa Nam Phi, mỗi ngày có
600 người bị bệnh AIDS quật ngã, và cũng vì căn bệnh này, tuổi thọ trung bình đã giảm
trong thập kỷ gần đây, từ 62 xuống còn 47 tuổi; tỷ lệ tử vong của lứa tuổi 15 – 49 tăng
62%. Tỷ lệ này còn tăng tới 129% đối với phụ nữ trong độ tuổi 30 -39. Với sự hỗ trợ của
2 Báo cáo Châu Phi của hiệp đoàn các nước Châu Phi năm 2007
3 Báo cáo Châu Phi của hiệp đoàn các nước Châu Phi năm 2007
Liên Hợp Quốc, khoảng 5 năm trở lại đây, ở một số trọng điểm AIDS của Châu Phi như:
Kenya, Zimbabyuê, Bờ biển Ngà,... đã có những động thái nhất định để chống lại AIDS,
nhưng vẫn còn quá khiêm tốn so với yêu cầu đặt ra.
Chất lượng dân số thấp dẫn đến sự chênh lệch rất lớn giữa số lượng và chất lượng
của nguồn nhân lực Châu Phi. Nhiều cơng trình nghiên cứu cho thấy, năng suất lao động
bình quân ở Châu Phi thấp vào loại nhất Thế giới. Cùng với năng suất yếu kém, thu nhập
thực tế của người lao động cũng rất thấp. Từ năm 1978 đến năm 1994, nguồn nhân lực
tăng 3% mỗi năm, nhưng số người làm công ăn lương lại không tăng, trong khi tiền lương
và điều kiện sống ngày càng giảm sút. Chẳng hạn, tại vùng cận Sahara, chỉ có 1/10 nhân
lực được sử dụng trong cơng nghiệp hiện đại và dịch vụ có trả lương. Rất nhiều phụ nữ và
trẻ em phải tham gia lao động chân tay nặng nhọc, năng suất thấp, tiền cơng ít. Vùng cận
Sahara có tới 16 triệu lao động trẻ em từ 10 đến 14 tuổi.4
Đi đôi với mức tăng dân số là sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Đầu thiên niên kỷ này,
mức thất nghiệp đã lên đến 20% (tăng gấp đơi trong vịng 15 năm) và có thể lên đến 30%
vào cuối thập niên này, thậm chí có thể vượt q 50% nếu tính cả số thất nghiệp khơng
tun bố. Người ta dự đốn rằng, cho đến năm 2010, hàng năm thị trường lao động Châu
Phi sẽ phải tiếp nhận thêm 8,7 triệu người lao động cần có việc làm.
Như vậy, xét về phương diện nhân lực, Châu Phi là một thị trường lao động đông
đảo, dồi dào tiềm năng về sức vóc thể chất nhưng cịn rất thấp về trình độ và kỹ năng xét
theo u cầu của cơng cuộc hiện đại hóa. Nói một cách khác, nếu khối người này có thể
cung cấp một cường độ lao động chân tay rất lớn thì nó cũng địi hỏi một q trình đào tạo
vừa cấp bách, vừa lâu dài, với sự đầu tư to lớn để có thể trở thành một lực lượng lao động
tương xứng với yêu cầu sản xuất trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay. Xét về phương
diện tiêu dùng, thị trường này cũng đang cần một khối lượng rất lớn hàng hóa phổ thơng có
chất lượng vừa phải, kết hợp với nhu cầu của một số ít ỏi những người giàu có về hàng hóa
đặc biệt có chất lượng cao.
1.3. Điều kiện lịch sử
4 Báo cáo Châu Phi của hiệp đoàn các nước Châu Phi năm 2007
Cho dù có một nền văn minh lâu đời, đặc biệt là nền văn minh Ai Cập tồn tại từ
3.400 năm trước Cơng ngun, thì châu Phi từ 1500 năm sau Cơng ngun trở về trước gần
như cịn giữ ngun trạng cuộc sống nguyên thủy. Lịch sử châu Phi có bước ngoặt lớn nhất
là từ khi người châu Âu đặt chân lên vùng đất này. Người Bồ Đào Nha, sau đó là người Hà
Lan, rồi lần lượt là Anh, Pháp, Bỉ, Đức, Mỹ đến giành giật đất đai, kiếm lợi trên lục địa
đen bằng việc trao đổi hàng hố cơng nghiệp giá đắt lấy nguyên liệu giá rẻ và buôn nơ lệ
với quy mơ ngày càng lớn. Điều đó đã để lại cho châu Phi những hậu quả mang tính chính
trị, kinh tế, văn hố, xã hội sâu sắc. Nhiều giới chức trên thế giới vẫn cáo buộc chủ nghĩa
thực dân tội gây ra những xung đột, những va chạm, những thù hận giữa các cộng đồng
người Phi để đến nay vẫn chưa giải quyết được về cơ bản.
Thắng lợi của nhân dân châu Phi trong cuộc đấu tranh chống sự áp bức, bóc lột của
đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc trong những thập kỷ 1950, 1960, 1970, đặc biệt,
trong cuộc đấu tranh chống chế độ phân biệt chủng tộc ở Cộng hoà Nam Phi với sự nhậm
chức của Tổng thống người da đen đầu tiên Nelson Mandela, đã mở ra một kỷ nguyên
hoàn toàn mới cho số phận Châu Phi. Thắng lợi này có ý nghĩa lớn lao khơng chỉ về
phương diện chính trị hay lịch sử, mà cả về phương diện kinh tế - xã hội và văn hoá.
2. Những đặc điểm chính của nền kinh tế khu vực Châu Phi
2.1. Điều kiện kinh tế-xã hội của Châu Phi
Trong những thập kỷ qua, nền kinh tế thấp kém cộng thêm nạn đói xảy ra thường
xuyên là nguyên nhân dẫn đến tình trạng năng suất lao động cũng như GDP đầu người ở
châu lục này không mấy được cải thiện. Nợ nước ngồi vẫn ln là gánh nặng của nền
kinh tế Châu Phi: năm 2000 nợ 213,2 tỷ USD, năm 2003 là 227,1 tỷ USD và đến nay, cho
dù đã có những thoả thuận giảm nợ của các nước phát triển, tổng số nợ vẫn còn tới 227,9
tỷ USD. Tỷ lệ lạm phát ở Châu Phi cũng làm tăng thêm sự nghèo khó vốn có: năm 2002 là
12,2% trong khi mức của thế giới là 3,4%; năm 2003: 13,3% so với mức thế giới là 3,7%
và giai đoạn 2004-2005 có giảm đơi chút song vẫn cịn ở mức 9,1% so với 3,7% 5 của thế
giới. Vài năm trở lại đây, tăng trưởng kinh tế của Châu Phi cộng thêm nhu cầu ngày càng
tăng của thế giới về những sản phẩm quý hiếm mà châu lục này sở hữu đã phần nào thay
đổi được sự nhìn nhận của thế giới về vai trò của các nền kinh tế nơi đây. Theo thống kê
chính xác, tốc độ tăng GDP của Châu Phi năm 2002 đạt 3,6%, năm 2003: 4,2% và năm
2004: 5,1%. Một số nước có tốc độ tăng trưởng vượt bậc, đặc biệt là Ghinê xích đạo với
mức trung bình 26%/năm giai đoạn 1993-2003 và 34% năm 2004 (sau khi khám phá ra các
mỏ dầu). Châu Phi đạt những tiến bộ trên đây là do những nguyên nhân sau:
- Hầu hết các nước Châu Phi đều tiến hành cải cách kinh tế để thốt khỏi tình trạng
bế tắc và trì trệ quá lâu;
- Châu Phi có lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên gần như vô tận, bởi luôn có
những phát hiện mới. Riêng dầu mỏ, sản lượng khai thác hàng năm tăng 5 - 6% đã mang
về cho một số quốc gia châu Phi nguồn thu ngoại tệ dồi dào;
- Môi trường quốc tế đối với châu Phi được cải thiện ít nhiều, khi tăng trưởng kinh
tế chung của thế giới làm tăng nhu cầu ngày càng lớn và đa dạng về sản phẩm cung cấp từ
Châu Phi;
- Ngày càng có nhiều hàng hố của Châu Phi tiếp cận tự do và thuận lợi hơn thị
trường một số nước lớn nhờ những chính sách ưu đãi và trợ giúp của một số chính phủ, tổ
chức quốc tế.
5 Báo cáo Châu Phi của hiệp đoàn các nước Châu Phi năm 2007
2.2. Những đặc điểm chính của nền kinh tế Châu Phi
Được hình thành, tồn tại và phát triển trong những điều kiện nêu trên, kinh tế Châu
Phi hiện đang tiếp tục vận động với những đặc điểm sau:
2.2.1. Tuy đã có những tiến bộ, nhưng Châu Phi vẫn là nền kinh tế chậm phát triển nhất
thế giới.
Năm 2001, Châu Phi chiếm 13% dân số thế giới, nhưng chỉ chiếm 2% GDP của
toàn thế giới. Đến hết năm 2005, dân số Châu Phi tăng và chiếm trên 15%, nhưng GDP
không tăng. Theo thống kê mới nhất (công bố năm 2006) của Tổ chức Thương mại Thế
giới WTO về GDP/đầu người, Châu Phi khơng có đại diện trong nhóm 50 nước đứng đầu
về GDP tính theo đầu người, mà chỉ có 10 nước đứng trong thứ tự từ 51 đến 100 nước có
GDP/người đạt từ 6.554 USD đến 15.649 USD; và lại có tới những 33 nước đứng trong
danh sách 50 nước đứng cuối bảng xếp hạng với GDP/người từ 200 USD đến 2.000 USD. 6
2.2.2. Ngoại thương tăng trưởng đáng kể từ thập kỷ 1990.
Theo thống kê mới nhất của WTO, mức tăng trưởng hàng năm của Châu Phi như
sau:
* Trong trao đổi hàng hoá:
Xuất khẩu: từ 6% (thế giới là 5%) giai đoạn 1995-2000 tăng vọt lên mức 23% (thế
giới là 17%) vào năm 2003 và tiếp tục tăng mạnh đạt 31% (thế giới là 21%) vào năm 2004.
Nhập khẩu: từ 0%/năm (thế giới là 5%) giai đoạn 1995-2000 tăng mạnh đạt 22%
(thế giới là 16%) vào năm 2003 và tăng tiếp lên đạt 25% (thế giới là 21%) vào năm 2004.
* Trong trao đổi dịch vụ:
Xuất khẩu: từ 3%/năm (thế giới là 5%) giai đoạn 1995-2000 tăng nhanh lên mức
21% vào năm 2004 và tăng tiếp đạt 22% (thế giới là 16%) vào năm 2004.
Nhập khẩu: từ 2%/năm (thế giới là 4%) giai đoạn 1995-2000 tăng mạnh lên đạt
13% (thế giới là 14%) vào năm 2003 và tiếp tục tăng tới 19% (thế giới là 16%) vào năm
2004.
6 Báo cáo Châu Phi của hiệp đoàn các nước Châu Phi năm 2007
2.2.3. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức thấp so với tổng giá trị thương mại toàn
thế giới mặc dù tốc độ tăng trưởng cao hơn mức thế giới.
Do điểm xuất phát quá thấp nên giá trị tuyệt đối của thương mại Châu Phi chỉ
chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trong giá trị trao đổi thế giới. Chẳng hạn, năm 2004, tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của châu Phi đạt 228 tỷ USD và tổng kim ngạch nhập khẩu
là 207 tỷ USD so với con số tương ứng của thế giới là 8.880 tỷ USD và 9.215 tỷ USD.
Trong lĩnh vực dịch vụ, những giá trị đó của châu Phi là 47 tỷ USD vμ 54 tỷ USD so với
giá trị tương ứng của thế giới là 2.100 tỷ USD và 2.081 tỷ USD.
2.2.4. Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là nhóm hàng khống sản và nhiên liệu.
Cho đến nay, chỉ với nguồn tài nguyên phong phú, Châu Phi vẫn chưa mấy cải thiện
được nền công nghiệp kém phát triển và nền nông nghiệp quá lạc hậu, cơ cấu hàng xuất
khẩu chủ yếu vẫn là nhóm hàng khống sản và nhiên liệu . Năm 2001, nhóm hàng khống
sản vẫn ở vị trí hàng đầu với giá trị 80,5 tỷ USD, chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của
châu lục. Tiếp đến là nhóm sản phẩm chế biến và chế tạo đạt 35,7 tỷ USD, chiếm 25,3% cơ
cấu xuất khẩu của Châu Phi. Nhóm nơng sản đạt 20,7 tỷ USD, chiếm 14,7%. Những mặt
hàng xuất khẩu khác khơng thuộc 3 nhóm trên chỉ đạt 5 tỷ USD.
2.2.5. Cơ cấu nhập khẩu tập trung vào nhóm sản phẩm chế tạo.
Năm 2001, nhập khẩu máy móc thiết bị, sản phẩm điện, điện tử, cơ khí, cơng nghệ
cao, dệt may, dược phẩm, thực phẩm chế biến chiếm vị trí thứ nhất, đạt giá trị 96,3 tỷ
USD, tức 70,8% tổng kim ngạch nhập khẩu. Đứng thứ hai là hàng nông sản, trong đó
lương thực đạt kim ngạch cao nhất: 20,8 tỷ USD, chiếm tới 15,3%. Xếp sau đó là nhóm
khống sản nhiên liệu, mà chủ yếu là dầu thô, chiếm tới 11,6%, đạt giá trị 15,8 tỷ USD.
2.2.6. Thị trường Châu Phi không đồng đều xét cả về không gian lẫn thời vụ
Thị trường Châu Phi không đồng đều xét cả về không gian lẫn thời vụ, bởi giá trị
thương mại chủ yếu tập trung ở một số nước như Nam Phi, Ai Cập, Nigeria; riêng Nam Phi
đã chiếm tới 20 - 25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Châu Phi. Thêm nữa, nhu cầu
nhập khẩu lương thực của Châu Phi có năm lớn đến mức khơng nước nào trên thế giới đáp
ứng nổi, nhưng có năm lại rất khiêm tốn. Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tình
trạng này là do xảy ra những cuộc xung đột nội bộ, chiến tranh. Cũng vì vậy, rất khó để
đốn chính xác được khả năng xuất nhập khẩu hàng năm của Châu Phi. Thậm chí có người
coi việc bn bán ở thị trường này như một công cuộc mạo hiểm mà thắng bại là "do trời
định".
2.2.7. Khu vực dịch vụ tăng trưởng khả quan nhưng phân bố không đều.
Tuy mức tăng bình quân đạt 5,1%/năm: từ 18,7 tỷ USD năm 1991 lên 30,9 tỷ USD
năm 2001, nhưng Châu Phi phụ thuộc gần như hoàn toàn vào diễn tiến thương mại dịch vụ
thế giới. Thêm nữa, 50% xuất khẩu và 30% nhập khẩu dịch vụ của thị trường này lại thuộc
về hai nước Ai Cập và Nam Phi .
2.2.8. Thu hút FDI của châu Phi đạt mức thấp nhất thế giới.
Năm 2001, trong số 735,1 tỷ USD FDI toàn cầu chỉ có 17,2 tỷ USD (mức cao nhất
mà châu Phi đạt được trong những năm gần đây) đổ vào Châu Phi. Lượng FDI phân bố
cũng không đều, chủ yếu tập trung vào các nước lớn, có vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài
nguyên dồi dào, trình độ phát triển kinh tế tương đối cao. Đầu tư nhiều nhất là các nước
EU và G7, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Malaysia cũng bắt đầu quan tâm bỏ vốn vào
châu Phi.
3. Tiềm năng của thị trường Châu Phi
Đạt mức tăng trưởng GDP trên 5% trong 3 năm gần đây, châu Phi có 54 quốc gia
với 906 triệu dân, được đánh giá là một trong những châu lục có tốc độ phát triển kinh tế
nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, chính sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên, nhu cầu lớn
về hàng hóa chất lượng vừa phải, giá rẻ của châu lục này mới là yếu tố có sức hút mạnh mẽ
với nhiều nền kinh tế trên thế giới. Một số nét khái quát về thị trường thị trường Châu Phi
– thị trường tiềm năng :
3.1 Châu Phi là nhà cung cấp năng lượng lớn
Khối tài nguyên vĩ đại của Châu Phi, nhất là về các nguồn năng lượng - đang được
xem là trung tâm dầu khí mới của tồn cầu. Trong khi kinh tế Mỹ, Châu Á và nhiều nước
Châu Âu khốn đốn vì giá dầu cao, thì kinh tế Châu Phi đang cất cánh, với tốc độ tăng
trưởng bình quân 5% trong 5 năm qua. Giá dầu và một số nguyên liệu tăng vọt cùng một số
yếu tố khác đã giúp kinh tế “lục địa đen” phát triển mạnh mẽ. Theo nhận định của Quỹ tiền
tệ quốc tế IMF mới đây, Châu Phi đang ở giai đoạn tốt nhất của phát triển bền vững và lạm
phát thấp. Số liệu mới được công bố của các nước Châu Phi cũng cho thấy, kinh tế Châu
Phi đang ở thời kỳ tốt đẹp. Bốn nền kinh tế: Nam Phi, Angeria, Nigeria và Ai Cập chiếm
tới 50% tổng GDP của Châu Phi và đóng góp lớn trong thành tích tăng trưởng chung của
cả châu lục. Một trong những yếu tố quan trọng khiến kinh tế Châu Phi tăng trưởng mạnh
trong những năm qua là giá dầu và các tài nguyên khác như vàng, bạch kim, quặng sắt...
tăng vọt. Bộ trưởng Năng lượng và Khoáng sản Nam Phi Lindiwe Hendricks cho rằng,
Châu Phi-nơi chiếm khoảng 8% sản lượng dầu mỏ và khí đốt tồn cầu, trong thời gian tới,
sẽ đóng vai trị quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của thế giới.Với các mỏ
dầu mới được phát hiện tại Cộng hòa Chad, Cameroon, Gabon cũng như trữ lượng dầu
khổng lồ tại Nigeria, Châu Phi sẽ trở thành nguồn cung cấp dầu mỏ chủ chốt trên thế giới.
Hiện tại, 85% sản lượng dầu của Châu Phi được khai thác tại Algeri, Angola, Ai Cập,
Lybia, Nigeria, Sao Tome và Principe. Ngành công nghiệp dầu mỏ của Châu Phi đang đạt
tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới, mở ra nhiều tiềm năng cho châu lục này. Châu Phi
đang nằm trong chiến lược của Mỹ để giảm bớt sự lệ thuộc vào nguồn dầu mỏ Trung
Đông. Theo dự kiến, đến năm 2015, Châu Phi sẽ đáp ứng 25% nhu cầu nhập khẩu dầu mỏ
của Mỹ. Tuy nhiên, các nước Châu Phi vẫn chưa thể tự thăm dò và khai thác dầu, mà vẫn
phải phụ thuộc vào nước ngoài.
3.2. Xã hội ổn định, môi trường kinh doanh được cải thiện
Nhìn chung, Châu Phi có xu hướng ổn định chính trị. Đến nay, các nước thuộc châu
lục này đều ý thức được rằng châu Phi phải thay đổi và tiến lên. Đó được xem là một trong
những lí do chính yếu giải thích về sự ổn định tình hình chính trị gần đây. Diễn đàn hịa
bình hay dàn xếp các xung đột bằng con đường hịa bình đang dần trở thành một xu thế nổi
bật tại lục địa đen. Nhiều nước Châu Phi đang bắt đầu những cuộc cải cách có ý nghĩa và
thu được những kết quả đầu tiên. Ngày càng có nhiều nước Châu Phi chấm dứt xung đột và
đẩy mạnh phát triển hồ bình. Trừ một vài điểm nóng ở Somali, Sudan, xu hướng chủ đạo
ở các nước Châu Phi hiện nay là tập trung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội. Đây
cũng là lý do khiến ngày càng có nhiều nước chú trọng đầu tư vào Châu phi. Các nước lớn
như Mỹ, Trung Quốc, ấn Độ... đang cạnh tranh để giành ảnh hưởng ở Châu Phi. Trong hai
năm gần đây, các nước Châu Phi đứng đầu thế giới về tốc độ cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh. Tanzania, Gana là hai đại diện của Châu Phi nằm trong nhóm 10 quốc gia có
mơi trường thương mại cải thiện nhiều nhất. Các nước Châu Phi đã chứng tỏ hiệu quả thu
hút đầu tư nước ngoài qua các chính sách, biện pháp linh hoạt như: nới lỏng kiểm sốt
ngoại hối; giảm thuế và chi phí cho th đất; thử nghiệm các hình thức hợp tác mới... Cùng
với việc chú trọng mở cửa phát triển kinh tế, trình độ quản lý kinh tế vĩ mơ của các chính
phủ Châu Phi cũng được nâng cao. Chính phủ nhiều nước Châu Phi đã kiểm sốt được tình
hình tài chính, tạo điều kiện kiềm chế lạm phát và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Về triển
vọng kinh tế Châu Phi năm 2008, kinh tế châu lục này vẫn duy trì đà tăng trưởng mạnh, do
nhu cầu của thế giới đối với các mặt hàng nguyên liệu của châu lục này vẫn cao. Các dự án
viện trợ, các chương trình cắt giảm nợ cho Châu Phi vẫn được duy trì...cũng sẽ tạo điều
kiện cho kinh tế Châu Phi phát triển. Tuy nhiên, kinh tế Châu Phi cũng đối mặt khơng ít
khó khăn. Nền kinh tế châu lục này từ lâu vẫn phụ thuộc vào xuất khẩu ngun liệu thơ, do
đó, dễ bị tổn thương trước áp lực cạnh tranh và những biến động giá cả của thế giới. Giá
dầu cao có lợi cho một số nước, song cũng bất lợi đối với một số quốc gia nhập khẩu dầu.
Nợ nước ngoài của các nước Châu Phi lớn, vì thế họ khơng có điều kiện đầu tư nhiều cho
kinh tế tư nhân vốn năng động, do đó hạn chế tăng trưởng kinh tế.
3.3. Thị trường tiêu thụ với nhu cầu hàng hóa lớn và đa dạng
Châu Phi là một thị trường có sức tiêu thụ lớn, với 906 triệu dân, yêu cầu về tiêu
chuẩn hàng hóa khơng khắt khe như nhiều khu vực khác trên thế giới. Tuy đời sống cịn
nhiều khó khăn nhưng mức cầu của thị trường châu Phi rất cao. Chi tiêu của các gia đình
cho nhu cầu tối thiểu thường chiếm tỷ lệ lớn trong thu nhập, bình quân là 82% tại
Mơzămbich, 85% tại Uganda, thậm chí lên tới 91% ở Zămbia. Sức tiêu thụ còn thể hiện ở
giá trị thương mại hàng hóa khá cao ở hầu hết các nước châu Phi. Mỗi năm Marốc nhập
khẩu 10 tỷ USD, Nam Phi nhập 29 tỷ USD, Angiêri mới trải qua nội chiến cũng nhập 3 tỷ
USD. Nhu cầu về các loại hàng hóa khơng chỉ lớn mà cịn mang tính lâu dài do mức tăng
dân số tự nhiên của Châu Phi lớn hơn rất nhiều so với mức tăng trung bình trên thế giới.
3.4. Thị trường châu Phi ngày càng mở rộng cửa cho bên ngoài
Kể từ thập kỷ 1990 của thế kỷ trước, các nước châu Phi đều có những cố gắng mở
cửa thị trường, tăng cường buôn bán với các khu vực và quốc gia trên thế giới. Rào cản
chính trị và văn hóa, kể cả tơn giáo tuy vẫn tồn tại nhưng khơng cịn được xem là trở ngại
lớn. Cái gọi là “Tinh thần duy châu Phi”, hoặc “chủ nghĩa vị da đen”, kết quả của một chủ
nghĩa dân tộc quá khích và sự lẫn lộn mưu toan chính trị hẹp hịi với u cầu cải thiện đời
sống nhân dân hầu như khơng cịn bộc lộ. Các thương gia, nhà kinh doanh, khách du lịch,
những nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa, tuy vẫn coi châu Phi là một vùng đất chứa đựng
nhiều bí ẩn nhưng đó là một thứ bí ẩn mời gọi, khơng cịn khép kín như xưa.
3.5. Điều chỉnh thuế quan phù hợp với cam kết hội nhập khu vực và thế giới
Việc cả 54 nền kinh tế châu Phi đều tham gia ít nhất một tổ chức khu vực và có tới
50/54 nước tham gia WTO đang điều chỉnh chính sách thương mại cho phù hợp với quy
định chung của tổ chức này, được xem là cơ sở để các đối tác yên tâm mở rộng buôn bán
với châu Phi.
4. Những thách thức đặt ra khi muốn xâm nhập thị trường châu Phi
4.1. Vẫn tồn tại những mâu thuẫn xung đột nội bộ tiềm tàng
Thực tế cho thấy, tuy tình hình chính trị của châu Phi có nhiều biểu hiện khả quan
hơn trước nhưng nguy cơ bùng phát những xung đột nội bộ vẫn là khá cao. Một cuộc đảo
chính, một cuộc bạo loạn hay một hành động khủng bố đều có làm đảo lộn, trì trệ, thậm chí
là phá tan những dự án, hiệp định buôn bán, trao đổi. Đây là ngun nhân chính dẫn đến
tình trạng khó có thể xây dung kế hoạch buôn bán dài hạn hoặc trung hạn với các đối tác
này.
4.2. Phổ biến là thị trường quy mơ nhỏ, trình độ thấp
Do trình độ phát triển kinh tế nhìn chung cịn yếu kém, nên hầu hết hoạt động
thương mại ở châu Phi còn lạc hậu và không đồng đều. Sức mua vào loại thấp nhất thế
giới. Ngoài ra, cơ cấu xuất khẩu của các nước gần giống nhau do hầu hết đều là những nền
kinh tế nông nghiệp nghèo nàn. Cơ cầu xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu, hầu như
giống nhau, tập trung vào nhiên liệu, khống sản ở dạng thơ và sản phẩm nơng nghiệp giá
trị thấp. Vì vậy thường xun có sự cạnh tranh trong xuất khẩu các sản phẩm này.
4.3. Chính sách bảo hộ các ngành sản xuất trong nước cản trở nhập khẩu sản phẩm giá
rẻ, chất lượng cao
Nhiều nước châu Phi vẫn đang theo đuổi chính sách thay thế nhập khẩu và ding
mức thuế nhập khẩu cao để bảo hộ các ngành sản xuất kém hiệu quả của mình. Điều này
cản trở bản thân các nước này hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Khi thực thi chính sách
bảo hộ cao, khơng chỉ các bạn hàng khơng tiêu thụ được hàng hóa mà người dân châu Phi
cũng khó tiếp cận được với hàng hóa đa dạng, có chất lượng và giá rẻ cạnh tranh.
4.4. Cơ sở hạ tầng yếu kém làm tăng chi phí vận chuyển, giá thành
Tình trạng thiếu thốn, lạc hậu của hệ thống đường sá, giao thông liên lạc, điện nước,
đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa là trở ngại rất lớn cho hoạt động sản xuất, lưu thơng
hàng hóa và di chuyển nhân lực. Điều này làm giảm cơ hội tham gia các hoạt động giao
dịch, tăng chi phí của sản phẩm, làm giảm chất lượng sản phẩm do khoảng cách vận
chuyển lớn, chất lượng đường sá xấu…
4.5. Phương thức thanh toán phức tạp, khả năng thanh toán thấp kém, gây nhiều rủi ro
cho đối tác
Khả năng tài chính yếu kém cộng với khuôn khổ pháp lý nhiều khiếm khuyết, các
giao dịch diễn ra trong tình trạng mập mờ, tùy tiện đã gây rất nhiều khó khăn cho đối tác
nước ngồi trong thanh toán. Hoạt động trao đổi với doanh nghiệp châu Phi thường được
thực hiện thông qua một công ty trung gian, phổ biến là qua một công ty Châu Âu, đã gây
phiền hà và thiệt thịi khơng ít cho các đối tác.
4.6. Địa bàn tranh chấp không khoan nhượng giữa nhiều thế lực lớn trên thế giới
Châu Phi hiện nay là đối tượng khai thác của rất nhiều thế lực quốc tế, có thể kể đến
Mỹ, Nga, Trung Quốc, ấn Độ… đều đang lăm le tìm mọi cách kiểm sốt Châu Phi – “viên
ngọc đen” dồi dào tài nguyên, đặc biệt là dầu khí. Điều này đã làm cho những đối tác mới
rất khó thâm nhập được vào thị trường Châu Phi.
5. Quan hệ thương mại trong nội bộ các nước châu Phi.
Sau khi giành được độc lập, các nước châu Phi rất chú trọng đến việc thiết lập các
quan hệ trong nội bộ châu lục nhằm duy trì và phát huy chủ quyền độc lập, tăng cường sự
đoàn kết nhất trí và sức mạnh tồn diện của châu Phi. Được mở đầu bằng Tổ chức Thống
nhất châu Phi (OAU), hàng loạt tổ chức châu lục, khu vực và vùng liên quan đến mọi lĩnh
vực hoạt động như: chính trị, kinh tế, thương mại, văn hoá, xã hội đã ra đời. Tuy nhiên, do
lịch sử, hoàn cảnh cụ thể và quan điểm nhận thức, có hiện tượng chồng chéo các thoả
thuận hợp tác giữa 14 tổ chức hợp tác khu vực hiện hành. Hiện tại, mỗi khu vực châu Phi
đều có từ 2 tổ chức trở lên: Tây Phi có 3 tổ chức (Cộng đồng Kinh tế các nước Tây Phi ECOWAS, Liên minh Tiền tệ Kinh tế Tây Phi - UEMOA, Liên minh Sông Mano - MRU),
Trung Phi – 3 tổ chức (Cộng đồng Kinh tế các nước Trung Phi-ECCAS, Cộng đồng Kinh
tế và Tiền tệ Trung Phi – CEMAC, Cộng đồng Kinh tế các nước Khu vực Hồ Lớn –
CEPGL), Đông và Nam Phi – 6 tổ chức (Thị trường chung Đông và Nam Phi - COMESA,
Cộng đồng Đông Phi - EAC, Cơ quan phát triển liên chính phủ - IGAD, Uỷ ban ấn Độ
Dương - IOC, Cộng đồng Phát triển miền nam châu Phi - SADC, Liên minh Thuế quan
miền nam châu Phi - SACU) và Bắc Phi - 2 tổ chức (Liên minh ảrập Maghreb - UMA,
Cộng đồng các nước Sahara Xahen - CENSAD).Trong tổng số 48 các nước lục địa, chỉ có
6 nước tham gia vào 1 tổ chức khu vực, trong khi có tới 26 nước tham gia đồng thời 2 tổ
chức, 20 nước – 3 tổ chức, 1 nước (Cộng hoà Dân chủ Congo) – 4 tổ chức 7. Các tổ chức và
tập hợp trên đây có những chức năng, mục đích riêng. Chẳng hạn, SACU: thiết lập biểu
thuế quan chung và chia sẻ thu nhập từ thuế quan nhập khẩu; COMESA: tự do di chuyển
hàng hố, dịch vụ, vốn và nhân cơng; UEMOA: các chính sách đồng nhất về thuế và tiền
tệ, EAC: xây dựng một liên minh kinh tế siêu khu vực như mơ hình EU.
Thực tế cho thấy, hợp tác khu vực trong thời gian qua không đạt được kết quả như
các nước châu Phi mong đợi. Bởi thực ra, hoạt động của các tổ chức này có ý nghĩa tinh
thần hơn là ý nghĩa thực tế. Ngay cả sự ra đời của "Chương trình Đối tác mới vì sự phát
triển châu Phi" (NEPAD) nhằm đến năm 2015 sẽ giảm 50% số người nghèo, thu hút hàng
năm 60 tỷ USD đầu tư nước ngồi, đạt mức tăng trưởng GDP bình qn 7%/năm, đã nhận
7 Comtrade.com
được sự hưởng ứng của toàn bộ 54 nước châu Phi, cũng mới chỉ thể hiện được tính tích
cực vươn lên của châu lục này.
Hiện nay, châu Phi đang phải đối mặt với những trở ngại không phải là nhỏ: những
mâu thuẫn xung đột nội bộ tiềm tàng, nền kinh tế trình độ thấp, thị trường quy mơ nhỏ, cơ
cấu xuất khẩu giống nhau, chính sách bảo hộ cao, cơ sở hạ tầng yếu kém, phương thức
thanh toán phức tạp. Tuy nhiên, với tư cách một thị trường được thế giới xem như một con
“sư tử đang ngủ”, châu Phi ngày càng tỏ ra có nhiều hứa hẹn, khi mà Mỹ, EU, Nhật Bản,
Trung Quốc, những thế lực từng có những hỗ trợ kinh tế to lớn cho châu lục này, mới gần
đây tiếp tục thể hiện sự quan tâm đặc biệt của mình đối với châu Phi thơng qua những cuộc
gặp gỡ cấp cao, những tuyên bố xóa nợ, tăng cường viện trợ, đầu tư. Vì vậy, để có thể tiếp
cận, thâm nhập và khai thác hiệu quả thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam cần đón
nhận một cách tích cực những khó khăn thách thức, tìm cách hoá giải chúng bằng cách ứng
xử một cách phù hợp nhất với yêu cầu và nguyện vọng, với bản sắc văn hố của những dân
tộc hình thành nên thị trường này.
6. Quan hệ thương mại giữa châu Phi và các nước trên thế giới hiện nay
Thực tế cho thấy, quan hệ thương mại giữa châu Phi vầ các nước trên thế giới diễn
ra khá phức tạp, trong đó đan xen nhiều yếu tố quyết định có tính kinh tế và phi kinh tế, thị
trường và phi thị trường.
6.1. Quan hệ với EU và các nước Tây Âu.
Quan hệ thương mại giữa châu Phi với EU và các nước Tây Âu đã tồn tại từ lâu đời,
chủ yếu dựa trên mối quan hệ chính quốc-thuộc địa. Theo thống kê gần đây, buôn bán với
15 nước EU chiếm khoảng 50% khối lượng thương mại châu Phi. EU nhập của châu Phi
khoáng sản, nhiên liệu, nông sản, đồng thời xuất sang châu Phi những hàng hoá rất đa
dạng. Gần đây việc ký kết Công ước Lomé đã tạo điều kiện cho 96% hàng hố các nước
tham gia Cơng ước (trong đó có 33 nước châu Phi phía nam Sahara) được hưởng ưu đãi
thuế quan khi vào thị trường EU. Bốn nước Bắc Phi là Ai Cập, Morocco, Algeri và Tunisi
cũng đã ký kết hiệp định hợp tác riêng với EU.
Trong số các nước ở Tây Âu, Pháp, Anh, Đức, sau đó là nước Bồ Đào Nha, Tây
Ban Nha, Italia, Hà Lan, và cả các nước Bắc Âu cũng đã mở rộng hoạt động tới châu Phi.