Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.06 KB, 7 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
heo pháp lệnh Ngân hàng Hợp tác xã tín dụng và các công ty tài
chính ban hành ngay 24/5/1990 của Hội đồng Nhà nước “ Ngân hàng
thương mại là các tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu làm phương tiện thanh toán “
T

Đây là một khái niệm của một Ngân hàng cổ điển. Theo đó hoạt động Ngân
hàng thương mại chỉ bó hẹp trong việc huy động vốn và cho vay vốn. Để có một
lượng vốn sử dụng thì các Ngân hàng thương mại phải huy động từ nhiều nguồn
trong xã hội và được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Trên cơ sở nguồn vốn huy động
trong xã hội cùng với vốn tự có của mình các Ngân hàng thương mại sẽ đầu tư trở
lại cho nền kinh tế. Khi hai quá trình huy động và cho vay vốn được tiến hành một
cách bình thường thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại sẽ diễn ra
thuận lợi. Nhưng nếu một trong hai quá trình đó bị ách tắc sẽ gây khó khăn cho
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Trong đó việc cho vay luôn kèm theo những
rủi ro không dễ dàng khắc phục.
Trước đây Ngân hàng chỉ chú trọng phát triển nghiệp vụ cho vay và huy
động vốn coi nhẹ các hoạt động dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng đã dẫn đến hệ
thống Ngân hàng thương mại hoạt động kém hiệu quả với nhiều tồn đọng trong
công tác tín dụng.

Nhưng trong những năm gần đây Ngân hàng chủ động tiếp cận với công
nghệ mới của một số Ngân hàng hiện đại trong khu vực và trên thế giới đã rút ra
những kinh nghiệm vận dụng hoạch định chiến lược chú trọng đến dịch vụ Ngân
hàng. Đặc biệt với luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng
đã được kì họp thứ 2_Quốc hội khoá X thông qua ngày 01/10/2000 quy định
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động Ngân hàng là hoạt


động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ với nội dung thường xuyên nhận tiền gửi sử
dụng số tiền gửi này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Trên cơ sở đó đã đưa Ngân hàng thương mại Việt Nam có một bước tiến xa
hơn nhấn mạnh vai trò trung gian tài chính của mình bên cạnh các hoạt động
truyền thống nhận gửi và cho vay còn có các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng.
Với mô hình hoạt động như vậy đã thể hiện xu hướng phát triển của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam dần dần hội nhập với xu hướng phát triển của các Ngân hàng
hiện đại trên thế giới.

Với hệ thống Ngân hàng lớn mạnh từ trung ương đến các tỉnh thành phố trên
toàn quốc và các chi nhánh Ngân hàng ở nước ngoài, các công ty tài chính, Ngân
hàng thương mại cổ phần rồi các quỹ tín dụng cơ sở. Trong những năm qua đã có
những khởi sắc nhất định đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế được
nhiều chuyên gia trong và ngoài nước thưà nhận. Hoạt động của các tổ chức tín
dụng ổn định và phát triển, huy động vốn và cho vay với nền kinh tế tăng cao.Chỉ
riêng năm 2000 tổng nguồn vốn tăng 29% và tổng dư nợ tăng 22% so với năm
1999. Dư nợ tín dụng tăng trưởng theo hướng lành mạnh phù hợp với sự kiểm soát
của Ngân hàng. Thanh toán qua Ngân hàng tiếp tục mở rộng, công tác tiền tệ kho
quỹ đảm bảo an toàn, ý thức chấp hành các luật tổ chức tín dụng có nhiều chuyển
biến tích cực, chất lượng hoạt dộng tín dụng quản lý tài chính được nâng lên.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, hoạt động của Ngân hàng
thương mại Việt Nam cũng bộc lộ nhiều tồn tại. Mặc dù xác định hoạt động và
phát triển của Ngân hàng theo hướng đa năng với việc đa dạng hoá nghiệp vụ kinh
doanh nhưng các Ngân hàng thương mại Việt nam vẫn ít nhiều mang tính chất của
một ngân hàng đơn năng. Nếu so sánh hệ thống ngân hàng Việt nam với hệ thống
Ngân hàng của các nước trong khu vực cũng cho thấy cùng là hình thức cho vay
nhưng hình thức cho vay của các Ngân hàng Việt nam là quá đơn điệu. Đó là một
nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng. Thể hiện
qua những năm qua các Ngân hàng thương mại huy động vốn nhiều nhưng cho vay
nền kinh tế rất thấp. Không phải khách hàng không có nhu cầu vay vốn mà Ngân

hàng không khai thác được thị trường. Vì mỗi khách hàng có nhu cầu vốn khác
nhau nên để khai thác được mọi nhu cầu của thị trường thì Ngân hàng cần có các
hình thức tín dụng đa dạng và phù hợp. Mặt khác đa dạng hoá là biện pháp quan
trọng để phân tán rủi ro. Khi các Ngân hàng thương mại Việt nam không có các
hình thức cho vay đa dạng nghĩa là đã tự loại bỏ cơ hội giảm rủi ro của mình.
Bên cạnh đó chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
đang giảm, thể hiện rõ nhất là nợ quá hạn có xu hướng ngày càng gia tăng có thể
nói đã lên con số báo động vượt quá khả năng kiểm soát. Chất lượng tín dụng của
các khoản cho vay thấp đặc biệt là các Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị sau
đó là các Ngân hàng thương mại quốc doanh, các Ngân hàng thương mại cổ phần
nông thôn. Thực tế cho thấy đến 31/8/2000 tổng dư nợ của toàn hệ thống Ngân
hàng thương mại lên tới đến khoảng 100 ngàn tỷ đồng trong đó nợ quá hạn chiếm
khoảng 10% và tính riêng nợ khó đòi chiếm khoảng 6,8% so với tổng dư nợ. Nếu
xét đến từng loại hình cho thấy
. Với các Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị có dư nợ quá hạn chiếm
khoảng 20% và dư nợ khó đòi khoảng 10% tổng dư nợ
. Các Ngân hàng thương mại quốc doanh mức dư nợ quá hạn khoảng 11% và
nợ khó đòi khoảng 8%so với tổng dư nợ
. Các Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn thì nợ quá hạn chiếm
khoảng 5,6%và nợ khó đòi khoảng 0,7%
. Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên doanh thì tỷ lệ này
thấp hơn.Nợ quá hạn khoảng 2,3%và nợ khó đòi khoảng 1,2% tổng dư nợ.

Để cụ thể ta xem xét số liệu sau sẽ rõ tình trạng nợ quá hạn của các loại hình
Ngân hàng thương mại Việt Nam
Chỉ tiêu
NHTM cổ
phần
đô thị
NHTM cổ

phần nông
thôn
NHTM quốc
doanh
Tổng dư nợ /vốn 72% 37% 11%
Tổng dư NQH/ Tổngdư nợ 20% 63% 4,6%
Tổng dư NQH/ tổng tài sản có 9,7% 5,6% 6,1%
( Nguồn báo cáo của Ngân hàng Thế giới số 17031_Việt Nam )

Thực tế cho thấy nợ quá hạn trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt
Nam là rất lớn con số lên đến gần 100 ngàn tỷ đồng. So với thông lệ quốc tế về nợ
quá hạn cho phép thì nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng Việt Nam đã vượt gấp
đôi. Qua đó phản ánh rất rõ sự yếu kém trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng
thương mại Việt Nam.
Còn về huy động vốn thì sao.Theo số liệu của các Ngân hàng thương mại thì
hoạt động huy động vốn những năm qua đã đạtđược kết quả rất lớn số dư tiền gửi
của khách hàng tăng lên thường xuyên và tăng vững chắc. Mặc dù trong những
năm qua ngành Ngân hàng đã 4 lần hạ lãi suất tiền gửi. Tại thời điểm cuối năm
1999 tổng số dư tiền gửi của các Ngân hàng thương mại Việt Nam đạt trên 80 ngàn
tỷ tăng so với đầu năm là 15,4 ngàn tỷ (+28,1%) trong khi đó khối Ngân hàng
thương mại quốc doanh chiếm 72% tổng số dư tiền gửi toàn quốc. Và đến cuối
năm 2000 tổng số dư các loại tiền gửi các loại của khách hàng toàn quốc vẫn đạt
trên 80 tỷ đồng. Như vậy với mục tiêu phát triển kinh tế trong điều kiện mở
cửa,ngành Ngân hàng đã xây dựng một chính sách huy động vốn thu hút ngày một
tốt hơn tiền gửi của dân chúng vào Ngân hàng.
Mặc dù chính sách huy động vốn của ngành Ngân hàng đã đạt được những
thành tựu to lớn nhưng trong thực tế vẫn còn một lượng vốn nhàn rỗi rất lớn trong
dân cư chưa được khai thác. Điều đó cho thấy chính sách huy động vốn vẫn còn
nhiều hạn chế.
Đó là các hình thức huy động vốn vẫn chưa nhiều, còn đơn điệu chủ yếu là

các hình thức nhận gửi truyền thống. Mạng lưới huy động vốn tuy được mở rộng
nhưng phong cách phục vụ tác phong giao tiếp của nhân viên Ngân hàng chưa thực
sự khẳng định “ khách hàng là thượng đế “.
Công nghệ Ngân hàng áp dụng vào lĩnh vực nhận gửi và lĩnh tiền của dân
chúng chưa được cải tiến nhiều đa số còn thực hiện bằng các phương tiện thủ công
và trực tiếp. Mọi khoản tiền gửi của dân chúng chỉ được hưởng lãi còn các tiện ích
khác từ các dịch vụ Ngân hàng hầu như không có.
Lĩnh vực thông tin tiếp thị về Ngân hàng còn thấp dân chúng hầu như chưa
có sự hiểu biết đầy đủ về hoạt động Ngân hàng
Ngoài ra hoạt động Ngân hàng còn hạn chế về thời gian chỉ phục vụ từ 6 -7
giờ trong một ngày vào giờ hành chính.Trong khi đó nhu cầu gửi và rút tiền của
công chúng là cả ngày (bất kì lúc nào thậm chí xảy ra phần lớn ngoài giờ làm
việc ).
Và một điều nữa nhiều khi chính các Ngân hàng cũng không muốn áp dụng
nhiều hình thức gọi vốn vì vấn đề chất lượng đầu ra đang gặp nhiều khó khăn. Đó
là những điểm hạn chế của chính sách huy động vốn mà các Ngân hàng thương
mại Việt Nam phải tìm biện pháp khắc phục.
Qua phân tích ta thấy hiện nay cả hai lĩnh vực cơ bản của Ngân hàng là nhận
gửi và cho vay đều gặp nhiều khó khăn. Vậy còn tình hình thực hiện các dịch vụ
Ngân hàng thì sao.
Trong những năm gần đây theo xu hướng phát triển công nghệ Ngân hàng.
Các Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng rất cố gắng đa dạng hoá dịch vụ Ngân
hàng cùng với việc cố gắng nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng phần lớn nhu cầu
của khách hàng với mức phí thấp tạo sự thoải mái, an toàn cho khách hàng khi đến
giao dịch với Ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động dịch vụ của Ngân hàng còn bộc lộ

×