Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

SKKN đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 26 trang )

“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”

MỤC LỤC

Trang

MỤC LỤC…………………………………………………...................

1

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT...............................................................

2

I. ĐẶT VẤN ĐỀ…………………………………………………..........

3

1. Lí do chọn đề tài………………………………………………….......

3

2. Mục đích nghiên cứu………………………………………................

4

3. Đối tượng nghiên cứu………………………………...........................

4

4. Phạm vi đề tài……………………………………………………........



4

5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................

4

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……………………………………………...

5

1. Cơ sở lí luận ………………………...……………..............................

5

2. Thực trạng khi giảng dạy phân môn TTMT……………………….....

6

3. Một số biện pháp đã tiến hành……………...………………………...

8

4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm…………...………………………....

18

III. KẾT LUẬN………………...………………………...……………...

25


IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................

26

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
MT:
Mĩ thuật
TTMT:
Thường thức mĩ thuật
GV
Giáo viên
HS:
Học sinh
GDTM:
Giáo dục thẩm mĩ
THCS:
Trung học cơ sở

MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
2 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
1. Lí do chọn đề tài

Giáo dục thẩm mĩ (GDTM) là một trong nhiều yếu tố hình thành nhân
cách và phát triển toàn diện con người hiện nay. Trước đây, GDTM chưa được
coi trọng trong giáo dục nhà trường, những năm gần đây rất được chú trọng và
phát triển, thể hiện ở việc các nhà giáo dục đã đưa các môn năng khiếu nói
chung và mĩ thuật (MT) nói riêng vào nhà trường. Là môn học vừa giúp học
sinh (HS) có kiến thức về thẩm mĩ, cái đẹp bằng hình vẽ, ngoài ra giúp người
học cảm nhận được vẻ đẹp trong cuộc sống, trong thiên nhiên nhằm phục vụ nhu
cầu tinh thần, vật chất, của con người, ngày càng phong phú và đa dạng như một
phần không thể thiếu được trong cuộc sống. Như chúng ta biết rằng, MT gồm
nhiều loại hình nghệ thuật với đặc điểm và ngôn ngữ tạo hình khác nhau, chúng
hỗ trợ cho nhau để hoàn thành tác phẩm bằng tư tưởng, cảm xúc của người nghệ
sĩ thông qua ngôn ngữ tạo hình là sử dụng màu sắc, đường nét, hình mảng, bố
cục và chất liệu...
Trong chương trình giảng dạy môn MT tại trường Trung học cơ sở
(THCS) với nhiều phân môn như: trang trí, vẽ tranh, vẽ theo mẫu, nhằm tạo cho
các em có kĩ năng và kiến thức nhất định về MT. Để các em hiểu và yêu thích
môn MT thì không thể thiếu phân môn “ Thường thức mĩ thuật”(TTMT). Đây là
một phân môn rất quan trọng, bởi vì HS học tập bộ môn MT không chỉ rèn
luyện kĩ năng, sự sáng tạo, khả năng cảm thụ cái hay, cái đẹp mà còn một số
kiến thức về MT thế giới và Việt Nam, MT cổ đại đến MT đương đại. Bồi
dưỡng khả năng thưởng thức tranh nghệ thuật nói chung, tranh dân gian Việt
Nam và tranh vẽ của chính các em nói riêng. Qua phân môn này, HS thêm yêu
mến và tự hào về nghệ thuật của dân tộc và có kiến thức về MT trên thế giới.
Trên cơ sở đó thấy được vai trò của MT trong cuộc sống, biết trân trọng, yêu quí
và giữ gìn những giá trị văn hóa, nghệ thuật của cha ông ta.
Thực tế hiện nay việc giảng dạy phân môn TTMT tại các trường THCS
chưa phát huy hết được những giá trị to lớn vốn có của nó, bởi nhiều những
nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là từ những nguyên nhân sau:
Một là: Trong quá trình đào tạo GV dạy MT tại các trường nghệ thuật chuyên
nghiệp một số học phần lý thuyết như "Lịch sử Mĩ thuật Việt Nam, Lịch sử Mĩ

thuật thế giới, Phân tích tranh..." không được chú trọng nhiều. Người học hứng
thú với các môn học thực hành như: Trang trí, Hình họa, Bố cục, Điêu khắc...

3 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
Hai là: Sự thiếu đam mê với phân môn này của phần lớn giáo viên (GV) dạy
môn MT, GV rất ngại nghiên cứu tài liệu, hay học bồi dưỡng nâng cao trình độ,
cập nhật kiến thức, áp dụng những phương pháp mới vào môn học để có sự
tương tác giữa GV và HS qua môn TTMT là chưa nhiều .
Ba là: Cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, phòng học chuyên biệt còn nhiều bất
cập. Do vậy tình trạng chung của giờ TTMT là đơn điệu nhàm chán, HS thường
có thái độ thờ ơ với giờ học này. Điều đó cho thấy việc đổi mới phương pháp
dạy và học trong trường THCS đối với phân môn này còn chậm, chưa đáp ứng
được yêu cầu của ngành và các nhà trường hiện nay.
Vì thế đề tài này hướng tới việc vận dụng hợp lí, hiệu quả một số phương
pháp dạy học nhằm gây hứng thú cho HS khi học môn TTMT và cũng để giờ
học TTMT đạt được hiệu quả cao nhất. Do vậy tôi lựa chọn đề tài “Đổi mới
phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật khối lớp 6” nhằm
nâng cao chất lượng giờ dạy MT trong các trường THCS, khơi gợi niềm đam mê
nghệ thuật với mong muốn tạo hứng thú thật sự cho HS trong mỗi giờ học.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi chọn đề tài “Đổi mới phương pháp giảng dạy phân môn thường thức
mĩ thuật” tôi muốn qua đề tài này hướng tới việc đổi mới phương pháp trong
dạy và học, quan trọng hơn tôi muốn khơi dậy trong các em niềm đam mê, yêu
thích học bộ môn này, mong muốn các em luôn hứng thú trong giờ học MT.
3. Đối tượng nghiên cứu
HS khối 6.
4. Phạm vi đề tài

Trong đề tài này tôi đề cập đến các nội dung sau: Đổi mới phương pháp
giảng dạy phân môn TTMT - Phần MT Việt Nam lớp 6.
5. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập, sưu tầm tư liệu, hệ thống hóa kiến thức liên quan đến
bài dạy.
- Phương pháp hướng dẫn, sử dụng sơ đồ kiến thức, các nguyên vật liệu MT, sử
dụng băng hình để thuyết trình, hiểu, nhớ về bài học.

4 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương
trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là
từ chỗ quan tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng
được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ
phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách
vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng

cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV- HS theo hướng cộng tác
có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập
những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các
chủ đề học tập tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề
phức hợp. Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình
thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm
kiếm thông tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng
tạo của tư duy. Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và
phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ
phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “HS tự mình hoàn thành
nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của GV”. Cần sử dụng đủ và
hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiểu đã qui định. Có thể sử dụng các
đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung học và phù hợp với
đối tượng HS. Tích cực vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học nhất là các
môn học đặc thù và môn năng khiếu.
Trong chương trình MT ở THCS, TTMT là một phân môn có thời lượng ít
hơn các phân môn khác, cung cấp những hiểu biết, nhận thức s¬ lược về MT
5 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
nói riêng làm quen với tranh vẽ của các danh hoạ trong và ngoài nước, tranh
thiếu nhi, tìm hiểu sơ qua Nghệ thuật dân tộc (tranh dân gian, tượng, phù
điêu…) từ đó giáo dục HS lòng tự hào dân tộc, biết duy trì và phát triển những
thành tựu nghệ thuật của cha ông để lại cũng như biết yêu thích và mở rộng tầm
hiểu biết của các em ra thế giới thông qua các bài MT.
Có thể nói, phân môn TTMT là một phân môn tương đối khó dạy đối với
các GV mĩ thuật bởi khi giảng dạy phân môn này các GV THCS thường gặp
nhiều những hạn chế.
2. Thực trạng khi giảng dạy phân môn TTMT

Đối với các nhà trường: Lịch sử MT Việt Nam và thế giới vô cùng phong phú
và đa dạng. Từ xã hội nguyên thuỷ cho đến ngày nay, MT phát triển liên tục,
không ngừng, loài người đã chứng kiến sự ra đời của nhiều trào lưu, nhiều
phong cách nghệ thuật. Các tác phẩm MT đa dạng được lưu giữ rất nhiều ở các
bảo tàng MT trên thế giới. Không ai có thể nói rằng mình đã được chiêm
ngưỡng thưởng thức tất cả các tranh, tượng nguyên bản trong kho tàng đồ sộ đó
của MT Việt Nam và thế giới. Phần lớn HS mới chỉ được xem tranh, tượng qua
các phiên bản, các ảnh chụp đen trắng hoặc màu với kích thước rất nhỏ trong các
tuyển tập tranh tượng. Trong thư viện của các nhà trường thường thiếu các thể
loại sách MT, phần vì sách ảnh in màu với kinh phí lớn, một phần là sách MT
rất hiếm và ít khi tái bản nhiều lần. Chính vì vậy môn thường thức MT khó tạo
ra hứng thú cho học sinh.
Trong các nhà trường, trang thiết bị, cơ sở vật chất, phòng học đặc thù, đồ
dùng dạy học môn MT nói chung và phân môn TTMT nói riêng còn thiếu nhiều,
đa phần đều in lại từ SGK, tranh ảnh MT dù có nhưng hạn chế, tranh ảnh hoạ sĩ
Việt Nam và MT hiện đại Phương Tây hầu như không có để các em quan sát.
Máy vi tính ở nhiều trường không kết nối internet nên học sinh chưa có điều
kiện tìm hiểu trên mạng do đó những thông tin bên ngoài các em vẫn chưa cập
nhật được.
Chưa nhiều nhà trường thực sự chú trọng đến môn học MT, chưa tạo điều
kiện, khuyến khích để giáo viên MT đi học nâng cao trình độ chuyên môn và
học tập những phương pháp mới hiệu quả.
Đối với giáo viên: Phần lớn GV dạy MT chưa năng động, sáng tạo trong đổi
mới phương pháp, hạn chế nữa của phân môn này là đồ dùng dạy học, tài liệu
liên quan đến bài dạy phân môn thường thức mĩ thuật. GV khi giảng dạy phân
6 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
môn này việc sưu tầm tài liệu, tranh ảnh liên quan đến bài học là rất khó và tốn

kém. Bởi vì có rất nhiều bức tranh minh họa hay tài liệu về các công trình kiến
trúc, tác phẩm MT…còn lại rất ít và hiếm chính vì vậy việc tìm hiểu và sưu tầm
rất khó khăn. GV muốn tìm hiểu thì cần phải tìm tòi, đọc và nghiên cứu rất
nhiều tài liệu. Tuy nhiên sách hay tài liệu in rải rác, không tập trung. Ví dụ: GV
muốn sưu tầm tài liệu tranh ảnh về tranh dân gian Việt Nam thì phải tìm hiểu và
đọc tới rất nhiều sách. Thậm chí có những tài liệu, những bức tranh dân gian hay
những nguyên vật liệu GV phải mua để phục vụ cho tiết dạy hiệu quả. Chính vì
vậy để đầu tư cho một tiết dạy cũng hết sức tốn kém. Muốn giảng hay, tốt và đầy
đủ của phân môn này trong trường THCS thì người GV hay nhà trường nào đó
phải bỏ ra một khoản kinh phí lớn. Hơn nữa, có những tài liệu được in từ rất lâu
không tái bản khiến cho việc sưu tầm hình ảnh trở nên rất khó khăn.
Hạn chế tiếp theo đó chính là phương pháp giảng dạy, sự nhiệt tình đầu tư
cho từng tiết dạy của GV. Thường vì những hạn chế trên nhất là việc phải đầu tư
thời gian, công sức để sưu tầm các tài liệu nên dẫn đến việc các GV không quan
tâm sưu tầm tài liệu mà chỉ dựa vào số lượng kiến thức, tranh ảnh ít ỏi trong
sách giáo khoa và sách GV để giảng dạy cho HS. GV thường bỏ qua, coi nhẹ
phân môn này. Họ thường cho rằng các phân môn: trang trí, vẽ theo mẫu, vẽ
tranh... mới thực sự quan trọng, giúp cho các em cảm thụ thẩm mĩ và vẽ đựơc
một bức tranh đẹp. Còn phân môn TTMT chỉ nhằm giới thiệu một số công trình,
tác phẩm MT cho HS. Do vậy tình trạng chung hiện nay của giờ TTMT là đơn
điệu nhàm chán, HS thường có thái độ thờ ơ với giờ học này. Với những giờ
học, GV chỉ cung cấp một số lượng kiến thức bằng lý thuyết mà không cho HS
xem hay chỉ xem một số ít hình ảnh nhỏ trong sách giáo khoa vậy nên đa số HS
sau khi học thường không nhớ và khắc sâu được những tác phẩm, công trình MT
của Việt Nam và thế giới. Nhưng cũng có rất nhiều GV chịu khó quan tâm và
sưu tầm tranh ảnh liên quan đến bài học. Tuy nhiên đa phần là những tranh ảnh
trong sách báo, tạp chí có khung hình nhỏ, bé chỉ phù hợp cho GV tham khảo
còn nếu dùng làm trực quan giảng dạy thì không phù hợp.
Đối với học sinh: Đây là phân môn học khó đối với các em vì Lịch sử MT Việt
Nam và thế giới vô cùng phong phú và đa dạng. Từ xã hội nguyên thuỷ cho đến

ngày nay, MT phát triển liên tục, không ngừng, nhiều trào lưu, nhiều phong cách
nghệ thuật. HS vừa phải nhớ kiến thức lịch sử vừa phải nhớ kiến thức MT bằng
hình ảnh.
7 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
Phân môn TTMT phần lớn là lí thuyết nên khó gây được sự hứng thú với
các em.
HS không được thực hành nhiều, ít tham gia trải nghiệm và tương tác với
GV.
Khi tham gia khảo sát HS thì thấy phần lớn khi học phân môn này thông
qua SGK là chính, ít có cơ hội được trải nghiệm thực tế tại các bảo tàng, khu
trưng bày, triển lãm và các sự kiện MT để có thêm cơ hội học tập.
Một số thuận lợi khi giảng dạy phân môn TTMT: Trong những năm gần đây
việc đổi mới phương pháp, môn MT đã được các nhà trường trú trọng hơn. Một
số dự án về hỗ trợ giáo dục của Nhật Bản, Singgapro, Bỉ, nhất là Đan Mạch đã
phần nào góp phần xã hội và các nhà hoạch định chính sách thấy được vai trò
của môn MT. Tại Việt Nam mục tiêu phát triển trong những năm tới lấy du lịch
làm trọng tâm để phát triển kinh tế vì vậy các di tích lịch sử, các làng nghề
truyền thống và văn hóa nghệ thuật ngày càng được giữ gìn và khôi phục. Trong
đó GV dạy phân môn TTMT trong trường THCS có nhiều nguồn tài liệu hơn khi
giảng dạy. Việc tập huấn, tuyên truyền, đổi mới phương pháp là việc làm cần
thiết và phải được làm liên tục nhằm tạo ra các giờ học bổ ích, lí thú tạo sự hứng
thú cho HS khi học những giờ học này để các em hiểu và yêu thích truyền thống
của dân tộc, có ý thức bảo vệ và gìn giữ những nét đẹp đó. Nhưng đổi mới là
một khái niệm dễ hiểu mà khó làm. Mỗi một GV phải tự tìm ra cho mình một
phương pháp như thế nào để phù hợp với điều kiện của nhà trường, khả năng
của cá nhân mà vẫn tạo ra được một giờ học sôi nổi thiết thực.
3. Một số biện pháp đã tiến hành

Trong quá trình giảng dạy tại trường THCS tôi đã tự rút ra một số kinh
nghiệm nhỏ và một số giải pháp mà GV mĩ thuật có thể thực hiện đựơc trong
điều kiện hiện nay để đáp ứng được trước yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục
và xã hội.
Đối với phân môn TTMT việc sử dụng đồ dùng dạy học là một phần quan
trọng trong một tiết dạy. Vì ngôn ngữ của MT là hình ảnh, là trực quan sinh
động cụ thể. Do đó phát huy tối đa hiệu quả đồ dùng dạy học là một trong những
phương pháp đổi mới rất hiệu quả.
a) Sử dụng tranh ảnh minh hoạ: Việc sử dụng tranh ảnh minh hoạ trong giờ
TTMT là thường xuyên và không thể thiếu vắng. Tuy nhiên bộ đồ dùng dạy học
trong các trường THCS chưa nhiều, mới chỉ có một số ít tranh, ảnh của các khối
8 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
lớp. Tất cả những tranh ảnh trên chỉ là hình ảnh phóng to trong sách giáo khoa.
Hơn nữa các GV thường chỉ cho HS xem một số tranh này, không có nhiều
tranh tham khảo, mở rộng. Nên tính hiện thực và trực quan cụ thể là chưa cao.
GV cần phải sưu tầm các tài liệu có liên quan tới tiết dạy như trong sách
báo, tuyển tập, tạp chí hay internet… GV có thể tự làm đồ dùng cho HS bằng
việc GV sẽ sưu tầm các bài bài vẽ của học sinh hay vẽ lại những công trình kiến
trúc, các tác phẩm hội họa nổi tiếng vào bảng nhóm với kích thước lớn để HS dễ
dàng quan sát và cảm thụ về cái đẹp. Từ đó tập hợp thành quyển, bộ theo trình
tự cho từng tiết dạy và từng thời kỳ lịch sử mĩ thuật VD: MT Việt Nam có thể
chia thành MT hiện đại và MT cổ như:
- Mĩ thuật thời nguyên thuỷ
- Mĩ thuật thời Lý
- Mĩ thuật thời Trần
- Mĩ thuật thời Lê
Việc sưu tầm tranh ảnh và tập hợp thành bộ, quyển cho riêng mình giúp

GV tự tin hơn và cung cấp mở rộng được nhiều kiến thức mĩ thuật hơn nữa cho
HS mà không cần phải thuyết trình giảng giải quá nhiều, hơn nữa còn giúp GV
định lượng được thời gian cho tiết học một cách khoa học và hợp lý. Ngoài ra
tập hợp thành bộ, quyển giáo viên có thể bổ sung theo từng năm và sử dụng
được nhiều năm liên tiếp.
b) Tận dụng tối đa các phương tiện hiện đại: Đổi mới trong dạy - học bộ môn
MT nói chung và phân môn MT nói riêng có một phần được nhắc tới rất nhiều
đó là việc hiện đại hoá trong giảng dạy. Như đã phân tích ở phần 2, việc sưu tầm
tranh ảnh đối với GV là rất khó nhưng sử dụng nó như thế nào để phát huy hết
tác dụng của những tài liệu đó lại khó hơn. Vì tranh ảnh sưu tầm có nhược điểm
chung là rất bé chỉ phù hợp cho GV tham khảo còn nếu cho HS xem thì cần hỗ
trợ rất nhiều các phương tiện hiện đại đó là máy chiếu (máy Projector). Sử dụng
GV có thể cho các em thấy rõ hơn, chính xác hơn về vẻ đẹp của từng công trình
nghệ thuật, tác phẩm MT. Hay mở rộng thêm kiến thức bằng việc GV có thể giới
thiệu nhiều tranh, ảnh liên quan tới bài học. Tận dụng tối đa các phương tiện này
GV sẽ bớt đi rất nhiều những hoạt động không cần thiết trong giờ dạy.
c) Sử dụng băng hình trong phân môn TTMT: Sử dụng băng hình trong dạy học
MT là một phương tiện ít người nhắc tới do nhiều nguyên nhân đó là để thực
hiện được trước hết phải có đủ phương tiện vật chất (đầu máy, tivi,.....) sau đó
9 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
phải có băng hình để xem mà băng hình trong bộ đồ dùng dạy học của trường
THCS là chưa có mà GV không phải lúc nào cũng có thể tự đi quay hay thu
được. Tuy nhiên nếu băng hình trong giờ học này được sử dụng, nó chính là một
phương tiện dạy học hiệu quả nhất. Sự hiện diện của băng hình giúp cho HS và
GV gần như trực tiếp quan sát các công trình, tác phẩm nghệ thuật. Hơn nữa
hình ảnh mà HS quan sát là hình ảnh động khác với ảnh phiên bản minh hoạ cho
nên tạo được hứng thú cho HS. Đồ dùng dạy học MT phong phú và đa dạng sẽ

tránh được việc học một chiều nghĩa là GV thuyết trình HS nghe và tưởng tượng
một cách mơ hồ về kiến thức đã học, không tạo được giờ học sôi nổi và hứng
thú cho HS. Ngược lại nếu có nhiều đồ dùng dạy học, HS sẽ phát huy tính tích
cực, tự giác có thể đưa ra nhận xét, cảm xúc của minh về từng giai đoạn MT,
cuộc đời sáng tác và các tác phẩm nghệ thuật một cách khách quan và tổng hợp.
d) Vận dụng đổi mới phương pháp vào môn dạy:
1) Cách thức tổ chức:
Có những cách dạy, cách học TTMT như “Dạy học như thế nào để có hiệu
quả” là câu hỏi luôn đặt ra cho người GV nói chung và GV MT nói riêng. Trước
hết, phải xác định rõ công việc của GV và HS.
a) Vai trò của giáo viên khi dạy thường thức mĩ thuật
- Chuẩn bị tranh ảnh, mẫu, băng hình...
- Nghiên cứu chương trình môn lịch sử, tìm ra những nội dung có liên quan về
hoàn cảnh lịch sử, về sự phát triển kinh tế, văn hoá, các công trình, các tác phẩm
MT. Chuẩn bị trước những tài liệu có liên quan đến các tác phẩm mĩ thuật, tìm
xuất xứ – tác phẩm – tác giả, hoàn cảnh ra đời, sự nghiệp sáng tác.....
- Tìm những tư liệu địa phương có liên quan đến bài học.
- Chuẩn bị nội dung bài học, bài tập dự án của HS.
- Hình dung cách tổ chức bài dạy, chuẩn bị đồ dùng dạy học.
- Chuẩn bị phiếu học tập hay bài tập nhóm cho các nhóm theo từng nội dung cụ thể.
b) Nhiệm vụ của học sinh
- Sưu tầm các tài liệu, tranh ảnh có liên quan đến bài học.
- Đọc bài ở sách giáo khoa, xem các hình minh hoạ trước để nắm sơ bộ nội dung bài.
- Chuẩn bị những ý kiến cá nhân về nội dung tác phẩm, hình thức thể hiện…
- Chuẩn bị bài tập dự án.
- Xác định nhóm cùng học.
c) Sử dụng các phương pháp dạy và học
10 / 26



“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
Chúng ta đã biết mỗi tác phẩm nghệ thuật là tổng hợp các kiến thức của nhiều
phân môn, trong đó có cả âm nhạc, thơ ca, văn học, lịch sử, địa lý, sinh học …
Vì vậy phương pháp dạy học hiệu quả tốt nhất là:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp gợi mở
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp tích hợp
- Phương pháp làm việc theo nhóm
Phương pháp làm việc theo cặp, theo nhóm và liên hệ với thực tiễn cuộc
sống sẽ có lợi thế hơn vì nó đảm bảo cho HS được thảo luận trên cơ sở hiểu biết
riêng của mình, đồng thời tiếp nhận ý kiến của bạn làm cho nhận thức của các
em sâu rộng hơn, kiến thức không rời rạc, được móc nối liên kết giữa các môn
học với nhau, giữa kiến thức sách vở và thực tiễn sinh động bên ngoài. Đây
chính là tinh thần cơ bản của dạy tích hợp mà chúng ta đang đề cập. Dùng các
phương pháp này, GVsẽ là người tổ chức điều hành, HS vừa là người tổ chức
vừa là người thực hiện.
Ví dụ: GV chia nhóm, yêu cầu mỗi nhóm chuẩn bị một nội dung cùng câu hỏi
gợi ý. HS đọc tài liệu, xem hình ảnh minh hoạ sau đó các nhóm thảo luận tìm ra
kiến thức, tìm ra cách giải quyết bài tập, cử người ghi chép và thảo luận trước
lớp. Các nhóm khác trao đổi tiếp. GV tóm tắt, bổ sung vừa có tính chất nhắc lại,
củng cố, vừa mở rộng thêm làm cho nhận thức của học sinh them sâu sắc và
phong phú hơn. Ngoài tranh ảnh giới thiệu ở sách giáo khoa, ở bộ đồ dùng dạy
học, giáo viên còn yêu cầu HS sưu tầm thêm và gợi ý HS phân tích, tự ghi chép
nội dung theo cảm nhận riêng. Cách học này có nhiều điều bổ ích vì:
- HS có ý thức tìm tòi tự nhiên để học tập, gắn kết giữa học và hành, nhà trường
và xã hội.
- Hình thành ở học sinh tính tự giác trong học tập, phát triển khả năng độc lập tư
duy, cái tôi suy nghĩ trong sáng tạo. Điều này rất cần cho con người lao động mới.

- Bồi dưỡng năng lực ghi chép theo cảm nhận riêng không quá lệ thuộc vào sách
và các tài liệu có sẵn. Đây mới là yêu cầu có tính chất cấp thiết đối với đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay, là xu thế chung của các nhà trường trên thế giới.
Tự học, tự tìm tài liệu, tự tìm phương pháp học và tổ chức học tập, đánh giá
dưới sự điều hành của giáo viên.
11 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
d) Bồi dưỡng giáo viên:
Như chúng ta đã biết, kết quả học tập của HS phụ thuộc rất nhiều vào sự
giàu có kiến thức, vào nghệ thuật truyền đạt của GV. Vì thế theo tôi dạy học MT
không đơn giản là dạy và học kĩ thuật vẽ mà còn phải biết kết hợp với dạy và
học cảm thụ thế giới xung quanh.
Việc nâng cao và bồi dưỡng trình độ cho giáo viên là việc làm cần thiết và
phải được làm liên tục có hệ thống. Người GV phải luôn luôn trau dồi kiến thức
để có thể nắm bắt được quan điểm đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với
yêu cầu giáo dục hiện nay.
Trước hết GV phải hiểu sâu về MT Việt Nam và thế giới, đánh giá các tác
phẩm một cách khách quan và chính xác tự tìm được đối với phân môn này. Muốn
vậy người GV phải tìm hiểu kỹ hơn qua các tài liệu có liên quan như: Lược sử MT
học (Chu Quang Trứ – Phạm Thị Chỉnh – Nguyễn Thái Lai) giáo trình đào tạo
giáo viên THCS hệ cao đẳng sư phạm, NXB Giáo dục năm 1998.
Người GV phải nắm bắt một cách sâu rộng kiến thức lịch sử mĩ thuật Việt
Nam và thế giới, hiểu rõ được giá trị nghệ thuật của các tác giả, tác phẩm từ đó
xây dựng cho mình một tiết dạy phong phú, sinh động tạo sự tin tưởng và
ngưỡng mộ của HS đối với GV.
Việc hiểu biết sâu rộng kiến thức lịch sử mĩ thuật mà chưa biết cách
truyền đạt các kiến thức đó thì giờ học chưa đạt hiệu quả. Vì vậy người GV phải
biết đặt HS vào vị trí trung tâm của giờ học, phải hướng cho các em những hoạt

động cụ thể.
e) Ví dụ:
- Bài “Sơ lược mĩ thuật thời Lý”, bài “ Một số công trình tiêu biểu của mĩ
thuật thời Lý” có thể vận dụng cho HS xem một đoạn phim về thời nhà Lý và
một số công trình tiêu biểu của thời kì này, GV chia nhóm cho HS tìm hiểu.
- Bài “Tranh dân gian Việt Nam” vận dụng cách dạy và học bằng hình
thức xây dựng bài tập dự án tìm hiểu về vẻ đẹp của tranh Đông Hồ và tranh
Hàng Trống. Hoạt động trải nghiệm cho HS làm sản phẩm về tranh Đông Hồ.
- Bài “Sơ lược mĩ thuật Thế giới thời kì Cổ đại” có thể vận dụng cách làm
việc theo nhóm để tìm hiểu bài về các giai đoạn Ai Cập, Hy Lạp, La Mã thời kì
Cổ đại.

12 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
f) Thiết kế bài giảng

Chủ đề: TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM

Tiết 20- Bài 19: Tranh dân gian Việt Nam
I. MỤC TIÊU :
1. Kiến thức:
-Học sinh hiểu về nguồn gốc, thể loại, ý nghĩa và vai trò của tranh dân gian
trong đời sống xã hội.
- Học sinh hiểu về giá trị nghệ thuật và tính sáng tạo của tranh dân gian thông
qua hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống.
- Học sinh biết về cách làm tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống.
2. Kĩ năng:
- Có kĩ năng lập kế hoạch hoạt động của lớp.

- Kĩ năng phân tích, tự tìm tòi các tài liệu để xây dựng bài học.
- Kĩ năng tự trải nghiệm, tự thực hành làm ra một bức tranh dân gian đơn giản.
3. Thái độ:
- Giáo dục học sinh có ý thức giữ gìn và bảo vệ những nét đẹp của tranh dân
gian Việt Nam nói chung và hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng trống nói riêng.
- Giáo dục học sinh biết trân trọng, yêu quý và tự hào về tinh hoa văn hóa dân tộc.
- Học sinh thêm yêu thích với bộ môn nghệ thuật.
4. Phát triển năng lực:
- Năng lực hợp tác.
- Năng lực giải quyết vấn đề.
- Năng lực giao tiếp.
- Năng lực sáng tạo.
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ.
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin.
- Năng lực tự học.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Chuẩn bị của giáo viên:
- Học liệu: giáo án, các tài liệu liên quan đến bài học (tranh dân gian Đông Hồ
và Hàng Trống, bản khắc nét, màu, giấy dó, màu vẽ tự nhiên…)
- Thiết bị, đồ dùng dạy học: máy chiếu Projecter, máy tính, bảng phụ, bút dạ,
giá vẽ…
- Giao việc cho học sinh.
2. Chuẩn bị của học sinh:
- Nghiên cứu trước bài học.
- Tìm hiểu về tranh dân gian Việt Nam và các dòng tranh tiêu biểu.
13 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
- Sưu tầm tranh ảnh, đoạn phim về hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống.

- Thuyết minh về hai dòng tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống.
III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
- Sử dụng các phương pháp dạy học chủ yếu: vấn đáp, thuyết trình, dạy học
theo tình huống, định hướng hành động…
IV. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Khởi động
HOẠT ĐỘNG
CỦA GIÁO
VIÊN
- GV: Tuyên bố lí do,
giới thiệu đại biểu.
*Lồng ghép hoạt
cảnh do học sinh
chuẩn bị nhằm gây
hứng thú, sôi nổi
cho tiết học.
- GV mời cán sự học
tập điều hành phần
khởi động.
(Tích hợp âm nhạc)

HOẠT ĐỘNG
NỘI DUNG
CỦA HỌC
KIẾN THỨC
SINH
Hoạt động 1: Khởi động

ĐỊNH
HƯỚNG

PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC

- HS chào đón đại
biểu.
- Năng lực
giao tiếp.
-Năng lực
sang tạo.

- Học sinh tham
gia phần khởi
động

Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu về tranh dân gian Việt Nam
GV: Giáo viên dẫn
dắt giới thiệu vào
bài.
*Lồng ghép hoạt
động thảo luận
nhóm
GV mời cán sự học
tập lên hướng dẫn
các bản thảo luận
nhóm.

I. Vài nét về
tranh dân gian.
HS điều khiển các
bạn thảo luận

nhóm
- Các nhóm thảo
luận.
- Thư kí mỗi
nhóm ghi ngắn
gọn câu trả lời
14 / 26

* Nguồn gốc: tranh
dân gian ra đời
khoảng thế kỉ XVI
do nhân dân lao
động sáng tạo nên.
* Thể loại:
- Tranh thờ
- Tranh chúc tụng

Năng lực điều
hành.

- Năng lực
phân tích,
đánh giá.
- Năng lực


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
của nhóm mình.
- Đại diện một
nhóm lên trình

bày.
- Cán sự mời các
nhóm khác bổ
sung cho phần
trình bày của
nhóm bạn.

GV: nhận xét và chốt
kiến thức.
GV dẫn chuyển

- Tranh sinh hoạt
- Tranh minh họa
lịch sử
- Truyện tranh…
* Ý nghĩa:
- Phục vụ đời sống
văn hóa tinh thần
của nhân dân.
- Thể hiện mong hợp tác
muốn, ước vọng
- Cán sự mời giáo của nhân dân.
viên nhận xét
* Dòng tranh tiêu - Năng lực
phần thảo luận
biểu:
giao tiếp
của các bạn.
- Tranh Đông Hồ
Tranh

Hàng
Trống
Tranh
làng
Sình….

Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu hai dòng tranh Đông Hồ và
Hàng Trống
*Lồng ghép hoạt
- Cán sự học tập
động chơi trò chơi
lên tổ chức trò
chơi cho các bạn.
- GV mời cán sự học - Học sinh chơi
tập lên điều hành
trò chơi
phần chơi trò chơi.
- Cán sự nhận xét
kết quả của hai
đội chơi, mời
giáo viên nhận
xét trò chơi.

II. Hai dòng
tranh dân gian
Đông Hồ và

- GV nhận xét và dẫn
dắt tìm hiểu về hai
15 / 26


- Phát triển
năng lực tự


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
dòng tranh dân gian
tiêu biểu.

học.
- Rèn năng
1. Tranh Đông Hồ lực tư duy
sáng tạo,
- Xuất xứ: tranh
năng lực giao
Đông Hồ có xuất
tiếp, hợp tác,
xứ từ làng Đông
năng lực sử
Hồ, huyện Thuận
dụng ngôn
Thành, tỉnh Bắc
ngữ, sử dụng
Ninh.
- Chất liệu: từ thiên công nghệ
nhiên. Màu đen lấy thông tin
từ than lá tre, màu
đỏ son lấy từ gạch
non tán mịn, màu
vàng lấy từ hoa

hòe, màu trắng lấy
từ vỏ sò tán
nhỏ..v...v..
- Tác phẩm tiêu
biểu: Tranh gà mái,
tranh Thạch Sanh,
tranh đánh đu…
-Năng lực
quan sát
2. Tranh Hàng

Hàng Trống

*Lồng ghép hoạt
động bài tập dự án.
- GV mời cán sự học
tập lên hướng dẫn
các bạn trình bày bài
tập dự án.
(Tích hợp văn học,
địa lý, lịch sử)

- Cán sự hướng
dẫn hai nhóm lên
trình bày bài tập
dự án.
- Hai nhóm trình
bày kết quả của
bài tập dự án.
+ Nhóm Đông Hồ

trình bày về tranh
dân gian Đông
Hồ.
*Lồng ghép sử dụng -Học sinh trình
tranh ảnh hiệu quả. bày bài tập bằng
thuyết trình tranh
ảnh.

(Tích hợp văn học,
lịch sử, địa lý)

+ Nhóm Hàng
Trống trình bày
về tranh dân gian
*Lồng ghép sử dụng Hàng Trống.
băng hình.
-Học sinh trình
chiếu clip tìm
hiểu của nhóm
mình.

16 / 26

Trống:
- Năng lực tư
- Xuất xứ: Tranh
duy
Hàng Trống có
xuất xứ từ phố
Hàng Trống, Quận

Hoàn Kiếm, TP Hà
Nội
- Chất liệu: Phẩm
màu nguyên chất
-Tác phẩm tiêu
biểu: Tranh Cô ba,
Bịt mắt bắt dê, Ngũ
Hổ….


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”

*Lồng ghép sử dụng
đồ dung dạy học
hiệu quả
- GV giới thiệu một
số tranh Đông Hồ và
tranh Hàng Trống
- GV đặt câu hỏi cho
học sinh tìm hiểu sự
giống nhau và khác
nhau giữa hai dòng
tranh

III. Giá trị
nghệ thuật của
tranh dân gian:
-Tranh dân gian
Đông Hồ và Hàng
Trống rất chú trọng

-HS quan sát đến bố cục, đường
nét, và màu sắc.
tranh
- Chữ hay những
câu thơ vừa là
minh họa vừa tạo
cho tranh bố cục ổn
định chặt chẽ
- Hai dòng tranh
Hs trả lời câu hỏi Đông Hồ và Hàng
Trống là hai dòng
của GV
tranh dân gian tiêu
biểu của Việt Nam.
Hoạt động 4: Thực hành

*Lồng ghép hoạt
động trải nghiệm.
-GV hướng dẫn hs
cách làm một công
đoạn trong tranh
Đông Hồ và Hàng
Trống.
-GV nhận xét tranh
của hs.
-GV mời học sinh
nhận xét về tiết học.
-GV chốt và kết thúc
tiết học.


-Hs lắng nghe và
thực hiện theo
hướng dẫn của
Gv
-Hs thực hiện
phần thực hành
vẽ tranh
-HS treo tranh và
nhận xét sản
phẩm của nhóm
bạn
17 / 26

IV. Thực hành

- Năng lực
quan sát, thực
hành

- Năng lực
sáng tạo.


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”

2.Hướng dẫn HS học bài, chuẩn bị bài tiếp theo
- Sưu tầm tranh, ảnh về tranh dân gian Việt Nam.
- Chuẩn bị bài: Giới thiệu một số tranh dân gian Việt Nam.

4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm

Sau quá trình dạy học thử nghiệm, HS được nghiên cứu và thu được
những kết quả sau:
18 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
-Về kiến thức: HS đã thu được kiến thức tương đối đầy đủ, tổng hợp và
sâu sắc. Cụ thể là HS đã biết cách tự học, tự tìm tòi và nêu lên những ý kiến và
hiểu biết của các em tìm hiểu được từ thực tiễn, từ internet, qua điều tra, phỏng
vấn…làm phong phú thêm những kiến thức từ chương trình sách giáo khoa.
- Về kĩ năng: Năng lực HS được phát triển tư duy ở mức cao hơn như: giải
quyết vấn đề, phân tích, tổng hợp, đánh giá, sáng tạo… thông qua các hoạt động
nhóm, lập kế hoạch, diễn tiểu phẩm, thực hiện dự án, thực hành trải nghiệm,
tổng hợp kết quả sau nghiên cứu…
- Về thái độ: HS rất hứng thú và tích cực học tập với cách học theo dự án
vì HS chủ động, tích cực trong hoạt động theo cách tìm hiểu và giải quyết vấn
đề. Với GV, việc đổi mới phương pháp dạy và học trong phân môn thường thức
mĩ thuật nói riêng và chương trình giáo dục nói chung sẽ làm cho môn học đa
dạng và phong phú góp phần đáp ứng được mục tiêu đào tạo những con người
có năng lực hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo, linh hoạt cho xã hội.
=> HS hiểu bài hơn, nắm được kiến thức nhanh hơn, dễ nhớ bài hơn, có sự sáng
tạo, chủ động trong quá trình học. GV không phải giảng giải nhiều mà đóng vai
trò là người hướng dẫn, chỉ đường, gợi mở cho HS. Chất lượng môn MT từng
bước được nâng cao.

19 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”


20 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”

21 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”

22 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”

(Học sinh thuyết trình trong tiết học TTMT bài Tranh dân gian Việt Nam)

(Học sinh thuyết trình trong tiết học TTMT bài Tranh dân gian Việt Nam)

23 / 26


“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”

(Học sinh tham gia chơi trò chơi trong tiết học TTMT bài Tranh dân gian Việt Nam)

(Học sinh tham gia chơi trò chơi trong tiết học TTMT bài Tranh dân gian Việt Nam)

24 / 26



“ Đổi mới phương pháp dạy và học phân môn thường thức mĩ thuật lớp 6”
III. KẾT LUẬN
Mục đích cuối cùng của việc dạy học ở trường THCS không nhằm đào tạo
hoạ sĩ hay những người chuyên làm nghề MT mà lấy giáo dục thẩm mĩ cho HS
làm mục tiêu chủ yếu.
Trong đời sống xã hội mới ngày nay, ở mọi nơi, mọi lúc đều cần đến vẻ
đẹp “kịp thời” của MT và nghệ thuật. Vì vậy nhu cầu về thẩm mĩ và nghệ thuật
là một nhu cầu chính đáng của con người. Cho nên giáo dục phải nhằm mục tiêu
phát triển toàn diện con người một cách bền vững.
Trước hết cấp học THCS là cơ sở để hình thành cho HS thế giới quan,
nhân sinh quan khoa học.
Đặc biệt đối với môn MT, việc tìm hiểu và nghiên cứu các phân môn sẽ
giúp các em có nhận thức sâu sắc đời sống thẩm mĩ của con người trong xã hội,
các em sẽ hiểu được MT là tạo ra cái đẹp, cái đẹp không có đáp số, không có
quy định cho tất cả mọi người, do vậy càng suy nghĩ và chăm chỉ làm việc thì
các em càng sáng tạo được nhiều vẻ đẹp khác nhau.
Mỗi phương án của bài tập sẽ mang lại cho các em một nhận thức mới về
mĩ thuật, mang lại niềm vui trước cái đẹp do chính mình tạo ra và sự thích thú
thưởng thức cái đẹp trong cuộc sống.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi trong quá trình dạy học tại trường
THCS. Tại ngôi trường này tôi đã có nhiều điều kiện để thực hiện những ý
tưởng sáng tạo của mình. Đó là do cơ sở vật chất hiện đại (máy chiếu, đầu đĩa,
đài, máy tính,...) và cả sự ủng hộ của Ban giám hiệu nhà trường. Tuy nhiên việc
dạy học mỹ thuật còn gặp nhiều khó khăn đó là hiện nay chưa có phòng học MT
chuyên biệt. Tôi rất mong được có sự ủng hộ của nhà trường hơn nữa về cơ sở
vật chất, phòng học MT, tranh ảnh, băng hình, tư liệu... Để tiết học MT được
hiệu quả và chất lượng.
Trong quá trình thực hiện sáng kiến tôi còn gặp nhiều thiếu sót rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của ban lãnh đạo và các đồng chí giáo viên giảng dạy

bộ môn trong toàn Quận để dự án của tôi mang tính khả thi hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 03 năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
25 / 26


×