Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.47 KB, 37 trang )

1
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH.
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NHCT BA ĐÌNH
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHCT Ba Đình.
Chi nhánh NHCT Ba Đình ra đời từ năm 1959, tên gọi lúc được
thành lập: Chi điếm Ngân hàng Ba Đình trực thuộc Ngân hàng Hà Nội.
Nhiệm vụ của Ngân hàng lúc này là vừa xây dựng cơ sở vật chất, củng cố
tổ chức và hoạt động Ngân hàng (hoạt động dưới hình thức cung ứng, cấp
phát theo chỉ tiêu - kế hoạch được giao). Số lượng cán bộ Ngân hàng lúc đó
có trên 10 người. Mục tiêu hoạt động mang tính bao cấp phục vụ, không
lấy lợi nhuận làm mục tiêu, hoạt động theo mô hình quản lý một cấp (Ngân
hàng Nhà nước). Mô hình này được duy trì từ khi thành lập cho đến tháng
07 năm 1988 thì kết thúc.
Ngày 01/07/1988, thực hiện Nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) ngành Ngân hàng chuyển hoạt động từ cơ chế quản lý
hành chính, kế hoạch hoá sang hạch toán kinh tế kinh doanh theo mô hình
quản lý Ngân hàng hai cấp (Ngân hàng Nhà nước - NHTM) lấy lợi nhuận
làm mục tiêu trong hoạt động kinh doanh, các NHTMQD lần lượt ra đời
(NHCT - NHNT - NHĐT&PT). Trong bối cảnh chuyển đổi đó. Ngân hàng
Ba Đình cũng đã được chuyển đổi thành một Chi nhánh NHTM quốc
doanh với tên gọi Chi nhánh NHCT Ba Đình trực thuộc Ngân hàng Công
thương Thành phố Hà Nội. Hoạt động kinh doanh mang tính kinh doanh
thực sự, thông qua việc đổi mới phong cách giao tiếp, phục vụ, lấy lợi
nhuận làm mục tiêu kinh doanh, cùng với việc đa dạng hoá các loại hình
kinh doanh dịch vụ, khai thác và mở rộng thị trường, đưa thêm các sản
phẩm dịch vụ mới vào kinh doanh. Lúc này Ngân hàng Công thương Ba
Đình hoạt động theo mô hình quản lý NHCT ba cấp (TW - Thành phố -
Quận). Với mô hình quản lý này, trong những năm đầu thành lập (7/98 -
1
1


2
3/93) hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình kém hiệu quả, không phát
huy được thế mạnh và ưu thế của một Chi nhánh NHTM trên địa bàn Thủ
đô, do hoạt động kinh doanh phụ thuộc hoàn toàn vào NHCT Thành phố
Hà Nội, cùng với những khó khăn thử thách của những năm đầu chuyển
đổi mô hình kinh tế theo đường lối đổi mới của Đảng. Trước những khó
khăn vướng mắc từ mô hình tổ chức quản lý, cũng như từ cơ chế, bắt đầu
từ 01/04/1993, Ngân hàng Công thương Việt Nam thực hiện thí điểm mô
hình tổ chức NHCT hai cấp (cấp TW - quận), xoá bỏ cấp trung gian là
NHCT thành phố Hà Nội, cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác
cán bộ. Do vậy, Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình được thành lập lại theo
Quyết định số 93/NHCT - TCCB ngày 24/03/1993 của Tổng Giám đốc
NHCT Việt Nam. Lúc này chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình là thành viên
phục thuộc NHCT Việt Nam (NHCTVN), ngay sau khi nâng cấp quản lý
cùng với việc đổi mới cơ chế hoạt động, tăng cường đội ngũ cán bộ trẻ có
năng lực thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Ba Đình đã
có sức bật mới, hoạt động kinh doanh theo mô hình một NHTM đa năng,
có đầy đủ năng lực, uy tín để tham gia cạnh tranh một cách tích cực trên thị
trường. Nhanh chóng tiếp cận được thị trường và không ngừng tự đổi mới,
hoàn thiện mình để thích nghi với môi trường kinh doanh trong cơ chế kinh
tế thị trường.
Kể từ khi chuyển đổi mô hình quản lý mới cho đến nay trong quá
trình hoạt động chi nhánh luôn chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chế độ, thể lệ của ngành, do đó hoạt
động kinh doanh của Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình không ngừng phát
triển theo định hướng “ổn định - an toàn - hiệu quả và phát triển” cả về quy
mô, tốc độ tăng trưởng, địa bàn hoạt động, cũng như về cơ cấu, mạng lưới,
tổ chức bộ máy. Cho đến nay, bộ máy hoạt động của Chi nhánh NHCT khu
vực Ba Đình có trên 300 cán bộ - nhân viên (trong đó trên 60% có trình độ
2

2
3
Đại học và trên Đại học, 20% có trình độ Trung cấp và đang đào tạo Đại
học, còn lại là lao động giản đơn) với 8 phòng nghiệp vụ, 1 phòng giao
dịch, 9 quỹ tiết kiệm, 1 cửa hàng kinh doanh vàng bạc hoạt động trên một
địa bàn rộng bao gồm các quận: Ba Đình - Hoàn Kiếm - Tây Hồ và huyện
Từ Liêm. Từ năm 1995 đến nay hoạt động kinh doanh của chi nhánh
NHCT Ba Đình liên tục được NHCT Việt Nam công nhận là một trong
những chi nhánh xuất sắc nhất trong hệ thống NHCT Việt Nam, năm 1988
được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, năm 1999 được Chủ tịch nước
tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba, Chủ tịch UBND Thành phố
Hà Nội tặng bằng khen, năm 2000 được Thống đốc NHNN Việt Nam tặng
bằng khen, được HĐTĐ - KT ngành Ngân hàng đề nghị Thủ tướng Chính
phủ tặng bằng khen.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHCT Ba Đình.
Ngân hàng được tổ chức theo mô hình Ngân hàng hiện đại trên thế
giới. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng có thể được đánh giá là khoa học và
hợp lý. Điều này được chứng minh bởi những gì mà chi nhánh đã đạt được
trong những năm qua cũng như khi xem xét sơ đồ tổ chức của Ngân hàng
dưới đây.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CỦA CHI NHÁNH NHCT KHU VỰC BA ĐÌNH
Phòng ngân
quỹ
Phòng nguồn vốn
Phòng kiểm soát
Phòng KD đối nội
Phòng KD đối ngoại
Phòng Kế toán - t i chínhà
Phòng H nh chính - tà ổ chức
BAN GI M Á ĐỐC

Các
quỹ
tiết kiệm
Phòng
3
3
4
Tín dụng thương nghiệp
Phòng
tín dụng công nghiệp
Phòng
Tín dụng ngo i quà ốc doanh
Tổ tổng hợp
2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình.
Chi nhánh NHCT Ba Đình bước vào hoạt động kinh doanh trong cơ
chế thị trường với muôn vàn khó khăn, cản trở. Tuy nhiên với phương
châm “phát huy sức mạnh nội lực đi lên bằng sức mình là chính”, cộng với
sự chỉ đạo sát sao của NHCT Việt Nam và sự tạo điều kiện thuận lợi của
Đảng, Chính phủ, của các chấp chính quyền, sự ủng hộ của các tổ chức
kinh tế, dân cư trên địa bàn hoạt động, các cán bộ nhân viên Chi nhánh
NHCT Ba Đình để từng bước đẩy lùi khó khăn, vươn lên trở thành một
trong những chi nhánh hoạt động năng độn và hiệu quả nhất trong hệ thống
NHCT Việt Nam. Hàng năm, Ngân hàng đã góp tỷ trọng lớn trong tổng thu
4
4
5
nhập của hệ thống NHCT và NSNN. Để có được kết quả đó, toàn bộ cán bộ
công nhân viên ngân hàng đã cố gắng không ngừng, trau dồi kiến thức,
chuyên môn nghiệp vụ, tu chỉnh đạo đức, kinh nghiệm tắc phong nghề
nghiệp... để đáp ứng các yêu cầu mà nền kinh tế thị trường đặt ra. Do đó

hàng năm Ngân hàng đã thu được nhiều lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
của mình và năm sau thường tăng hơn năm trước với tỷ lệ và tốc độ tăng
trưởng cao. Điều này được thể hiện như sau:
* Về huy động vốn:
Bất kỳ một ngân hàng nào việc thu hút vốn đầu tư chiếm một vị thế
hết sức quan trọng và do vậy mỗi ngân hàng cũng đều phải tính toán sao
cho tránh được tình trạng thừa hoặc thiếu vốn. Trong thực tế, NHCT Ba
Đình là một trong những Ngân hàng huy động được nhiều nguồn vốn với
số lượng lớn, mặc dù hiện trạng kinh tế của các doanh nghiệp trên địa bàn
còn nhiều khó khăn. Bằng nhiều biện pháp nghiệp vụ linh hoạt, Ngân hàng
đã tạo mọi điều kiện giúp các doanh nghiệp và cá nhân mở tài khoản tiền
gửi tại Ngân hàng trong thời gian ngắn nhất, đồng thưòi mở rộng mạng lưới
giao dịch xuống tận các địa phương nhằm thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong
mọi tầng lớp dân cư. Trong đó, cụ thể là việc bố chí những cán bộ chuyên
môn nghiệp, liên tục cải tiến lề lối làm việc, đổi mới tác phong và thái độ
phục vụ, đảm bảo chữ tín khách hàng, mở rộng mạng lưới giao dịch, đa
dạng hoá các hình thức huy động.
Nhờ sự cố gắng trên công tác huy động vốn của NHCT Ba Đình liên
tục hoàn thành vượt mức kế hoạch. Số lượng khách hàng đến mở tài khoản
tiền gửi tại Ngân hàng ngày càng lớn từ 1.385 doanh nghiệp và hộ tư nhân
năm 1997 lên 1.931 năm 1999 và 2.000 năm 2000. Số khách hàng gửi tiền
cũng tăng mạnh, năm 2000 lên tới 90.000 người tăng hơn năm 1999 là
7.000 người.
5
5
6
Hơn nữa số lượng vốn huy động được trong năm không chỉ đáp ứng
được yêu cầu tín dụng tại chỗ mà hàng năm chi nhánh đều vượt kế hoạch
điều vốn nộp NHCT Việt Nam, tạo môi trường giúp các NHCT khác đang
có nhu cầu cho vay nhưng lại thiếu nguồn vốn.

Để có thể đánh giá toàn diện về công tác huy động vốn tại Chi nhánh
NHCT Ba Đình ta có số liệu thực tế sau:
6
6
7
BẢNG 1: TÌNH HÌNH HĐV QUA CÁC NĂM TẠI NHCT BA ĐÌNH.
Chỉ tiêu
Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 So sánh 99/98 So sánh 2000/99
Daonh số
Tỷ
trọng
Giá trị (%) Giá trị (%) +/- (%) +/- (%)
1. Tiền gửi dân cư 744.270 58,5 1.022.031 63,2 112.934 52,3 277.761 37,3 107.290 10,5
2. Tiền gửi của các TCKT 453.663 35,7 547.668 36,4 932.011 43,1 94.005 20,7 384.343 70,1
3. Kỳ phiếu, trái phiếu 73.329 5,8 5.695 0,4 83.305 4,6 -67.634 - 7,8 77.610 3,6 lần
Tổng 1.271.265 100 1.615961 100 2.160.004 100 344.696 27,1 544.043 33,7
7
7
8
Trước hết chúng ta xem xét tình hình huy động vốn trong từng năm.
Năm 1998 Ngân hàng đã huy động tổng số vốn bằng 1.271.265 triệu đồng.
Trong đó nguồn tiền gửi của dân cư chiếm 58,5%. Tiền gửi của các tổ chức
kinh tế là 35,7% và pháp hành kỳ phiếu, trái phiếu của Ngân hàng là
5,8% .Năm 1999 tổng số vốn huy động đạt 1.615.961 triệu đồng, tăng
27,1% so với năm 1998 đáng ghi nhận là tỷ lệ tiền gửi của dân cư tăng là
37,3% và các tổ chức kinh tế tăng lên tương ứng là 20,7% so với năm 98.
Duy chỉ có kỳ phiếu và trái phiếu là giảm tỷ lệ giảm là - 7,8%. Năm 2000,
tổng số vốn huy động đạt 2.160.004 triệu đồng tăng 33,7% so với năm
1999. Tổng số vốn huy động năm 2000 tăng cáo do tất cả các nguồn huy
động của Ngân hàng đều tăng. Nhưng tỷ lệ tăng của mỗi loại khác nhau

như tiền gửi của dân cư chỉ tăng có 10,5% , tiền gửi của tổ chức kinh tế
tăng 70,1% và kỳ phiếu, trái phiếu của Ngân hàng tăng gấp 3,6 lần so với
năm 1999. Đây là một trong những thành tích đáng khâm phục trong công
tác huy động vốn của ngân hàng. Khi mà bối cảnh của nền kinh tế không
thuận lợi, bên cạnh đó còn có sự cạnh tranh khốc liệt của các NHTM khác
cùng hoạt động.
Về cơ cấu huy động vốn theo loại tiền ta có bảng số liệu phản ánh
sau đây:
8
8
9
BẢNG 2: HUY ĐỘNG VỐN THEO LOẠI TIỀN:
Chỉ tiêu
Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 So sánh 99/98 So sánh 2000/99
Giá trị (%) Giá trị (%) Giá trị (%) Giá trị (%) Giá trị (%)
1. Tiền gửi dân cư: 744.270 58.5 1.022.031 63,2 1.129.321 52,3 277.761 37,3 107.290 10,5
- VNĐ 612.406 48,1 828.842 51,2 743.263 34,4 216.436 35,3 -85.579 89,6
- Ngoại tệ 131.864 10,4 193.189 12 386.058 17,9 61.325 24,7 192.869 99,9
2. Tiền gửi TCKT 453.663 35,7 547.668 36,4 932011 43,1 94.005 20,7 384.343 70,1
- VNĐ 419.119 33 509.076 32 883.783 41 89.957 21,5 374.707 74
- Ngoại tệ 34.544 2,7 38.592 4,4 48.228 2,1 4.048 11,7 9.636 24,9
3. Kỳ phiếu 73.329 5,8 5.695 0,4 83.305 4,6 -67.634 -7,8 77.610 146
- VNĐ 56.542 0,5 186 0,01 83.139 3,8 -56356 0,3 82.953 446,9
- Ngoại tệ 16.787 5,3 5.509 0,39 166 0,8 -11278 -77,2 -5.343 3
Tổng số 1.271.265 100 1.615.961 100 2.160.004 100 344696 27,1 544.043 33,7
- VNĐ 1.088.067 86 1.345.218 83,2 1.725.552 80 257.151 23,6 380.334 28,3
- Ngoại tệ 183.198 14 270.743 16,8 434.452 20 87.545 47,7 163.709 60,5
9
9
10

Trong cơ cấu huy động vốn theo loại tiền của Ngân hàng, năm 1998,
tổng vốn huy động đạt 1.615.961 triệu đồng, tăng 27,1% so với cùng kỳ
năm 1998; trong đó nguồn vốn VNĐ đạt 1.345.218 triệu đồng chiếm tỷ
trọng 83,2% trên tổng nguồn vốn, tăng 23,6% so với năm 1998. Nguồn vốn
ngoại tệ quy đổi VNĐ đạt 270.743 triệu đồng, chiếm 20% trên tổng nguồn,
vốn huy động ngoại tệ của Ngân hàng cũng có tỷ lệ tăng tương ứng với
VNĐ, tăng là 47,7% so với năm 1998. Đến ngày 30/12/2000 tổng vốn huy
động bằng 2.160.004 triệu đồng, tăng 33,7% so với năm 1999, trong đó
nguồn vốn VND đạt 1.725.552 triệu đồng chiếm tỷ trọng 80% trên tổng
nguồn vốn, tăng 28,3% so với năm 1999. Nguồn vốn huy động ngoại tệ
quy đổi ra VNĐ bằng 434.452 triệu đồng, chiếm 20% trong tổng nguồn
vốn huy động, tăng lên là 60,5% so với năm 1999.
Kết quả trên đây cho chúng ta thấy rằng, nguồn vốn huy động cả
VNĐ lẫn ngoại tệ đều vượt trên chỉ tiêu đề ra của Ngân hàng. Đây là một
dấu hiệu đáng mừng trong công tác nguồn vốn của Ngân hàng và với
những kết quả trên thì hàng năm Ngân hàng không lo thiếu vốn trong hoạt
động kinh doanh.
* Về sử dụng vốn: Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực bùng nổ toàn
cầu giữa năm 1997 ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế trong nước và tác
động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của cả Ngân hàng và doanh
nghiệp. Thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, đầu tư nước ngoài giảm sút... Các
doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa cải thiện cơ bản về tình hình tài chính và
năng lực quản trị điều hành sản xuất, kinh doanh mà hệ quả là sức cạnh
tranh yếu, sản phẩm hàng hoá chậm tiêu thụ, sức mua trong dân giảm sút.
Do vậy, ngân hàng đã thực hiện các quy chế cho vay chặt chẽ hơn,
nhằm giảm bớt khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên dẫn đến hoạt động cho
10
10
11
vay của Ngân hàng cũng gặp khó khăn đôi chút. Nhưng bước sang năm

1998 thì tình hình đó có phần vợi đi, cụ thể:
- Về hoạt động tín dụng: Tổng dư nợ cho vay các loại hình hàng năm
tăng trưởng khá cao. Năm 1998 đạt 568.368 triệu động, năm 1999 là
723.305 triệu đồng, tăng 27,2% so với năm 1998. Năm 2000 là 1.014.371
triệu đồng, tăng so với cùng kỳ năm 1999 là 40,2%. Về dư nợ cho vay ở
trên chi nhánh Ngân hàng tập trung cho vay chủ yếu vào các lĩnh vực trọng
điểm của nền kinh tế đó là dự trữ thu mua, sản xuất kinh doanh thuộc các
ngành công, thương nghiệp và tài trợ cho xuất nhập khẩu (Bảng 3).
Trong cơ cấu tín dụng theo thời hạn về tổng số tuyệt đối, tín dụng
ngắn hạn tăng nhưng tín dụng trung và dài hạn của chi nhánh những năm
qua có sự biến động mạnh, tuy nhiên nhìn trong tổng số thì các năm đều
tăng, trung bình khoảng 30%.
+ Đối với tín dụng ngắn hạn: Đây có thể nói là thế mạnh của chi
nhánh. Năm 1998 dư nợ tín dụng ngắn hạn của chi nhánh đạt 443.145 triệu
đồng, năm 1999 đạt 627.411 triệu đồng tăng 41,5% so với năm 98 tương
tứng tăng 184.266 triệu đồng, năm 2000 đạt 888.864 triệu đồng tăng 41,6%
so với năm 1999 tương ứng tăng là 261.453 triệu đồng.
+ Đối với tín dụng trung - dài hạn: Tín dụng trung - dài hạn ngoài
việc tập trung chủ yếu phục vụ khách hàng truyền thống trong lĩnh vực
công - thương nghiệp đã mở rộng sang cho vay xuất nhập khẩu tuy nhiên
vẫn chưa cao. Dư nợ có sự biến động giảm mạnh từ 108.591 triệu đồng
năm 1998 xuống còn 95.894 triệu đồng năm 1999. Nhưng lại có sự tăng đột
biến ở năm 2000, năm 2000 đạt dự nợ cao nhất đạt 125.507 triệu đồng. Dự
nợ tín dụng trung - dài hạn biến động tương ứng về cả số tương đối lẫn số
tuyệt đối năm 99/98 là - 12.697 triệu hay -22%; năm 2000/1999 lại tăng lên
là 29.613 triệu đồng hay + 30,8%.
+ Hoạt động bảo lãnh: Hoạt động bảo lãnh ở Chi nhánh NHCT Ba
Đình những năm qua cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ, tổng dự
bảo lãnh các loại đến tháng 12 năm 1998 là 297.805 triệu đồng, năm 1999
11

11
12
tổng dự bảo lãnh tăng lên là 405.700 triệu đồng tăng 36,2% so với năm
1998; Năm 2000 đạt 440.973 triệu đồng tăng 8,7% so với năm 99.
12
12
13
BẢNG 3: DƯ NỢ CHO VAY
(Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh 1998 - 2000)
Đơn vị : Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 So sánh 99/98 So sánh 2000/99
Giá trị (%) Giá trị (%) Giá trị (%) Giá trị (%) Giá trị (%)
1. Cho vay ngắn hạn 443.145 78 627.411 87 888.864 88 184.266 41,5 261.453 41,6
- Quốc doanh 437.831 77 616.390 85 877.100 86 178.559 40,7 260.710 42,2
- Ngoài quốc doanh 5.314 1 11.021 2 11.764 2 5.707 107,3 743 6,7
2. Cho vay TD trung - dài hạn 108.591 19,1 95.894 13 125.507 12 -12.697 -22 29.613 30,8
- Quốc doanh 98.737 17 89.575 12 109.374 11 -9.162 -9,3 19.799 22
- Ngoài quốc doanh 9.854 2,1 6.319 1 16.133 1 -3535 -36 9.814 155
3. TD thương mại và Liên doanh 16.632 2,9 - - - - - - - -
- Tổng số 568.368 100 723.305 100 1.014.371 100 154.937 27,2 291.066 40,2
13
13
14
* Hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Mặc dù nghiệp vụ mua bán ngoại
tệ gặp nhiều khó khăn trong bước đầu thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối
mới. Phòng kinh doanh đối ngoại của chnn Ngân hàng đã chủ động khai
thác nguồn ngoại tệ từ các đơn vị xuất khẩu, các Ngân hàng khác và NHCT
Việt Nam, kịp thời đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, kinh doanh
đa dạng nhiều loại ngoại tệ khác nhau như: USD, DEM, FRF, JPY, GBP,

EUR, CAD, ITL,... và bước đầu đã thu được một số thành công nho nhỏ.
BẢNG 4: DOANH SỐ MUA BÁN NGOẠI TỆ NĂM 2000.
Thứ
tự
Loại ngoại tệ
Doanh số
mua
Doanh số
bán
So sánh
2000/1999
đạt
1 USD 53,200,000 53,300,000 130%
2 DEM 2,292,000 2,292,000 116%
3 JPY 778.207.000 788.207.000 2,15 lần
4 EUR 611,965 611,965 15,5 lần
Tổng quy đổi ra
USD
61,792,796 61,895,750 139%
+ Thu phí kinh doanh ngoại tệ đạt 798.216.387 đồng tăng 23% so
với năm 1999.
+ Phí giao dịch ngoại tẹ đạt 276.808.172 đồng tăng 49% so với năm
1999.
* Hoạt động về thanh toán quốc tế: Những năm gần đây chi nhánh đã
thu hút được khách hàng lớn và tiềm năng như Công ty xuất nhập khẩu
tổng hợp Hà Nội, chi nhánh Intimex Hải phòng; Tổng Công ty xuất nhập
khẩu dệt may, Công ty xuất nhập khẩu vật tư nông nghiệp, Tổng Công ty
công nghiệp tàu thuỷ... Để mở rộng thêm quan hệ tind, làm nghiệp vụ thanh
14
14

×