MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA
ĐÌNH.
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA
CHI NHÁNH THỜI GIAN TỚI
3.1.1. Mục tiêu
- Từng bước đẩy mạnh hoạt động cho vay xuất khẩu, coi đây là hoạt động mũi
nhọn trong năm 2001 và những năm tiếp theo, với nguyên tắc hoạt động phải mang
tính khoa học, thận trọng, bài bản và có hiệu quả. Lựa chọn điểm đột phá là ngành
hàng, gắn ngành hàng với các Tổng công ty có tiềm năng xuất khẩu.
- Tích cực tìm hiểu (gắn xuất khẩu với nhập khẩu) có chọn lọc kỹ lưỡng các
dự án đầu tư có hiệu quả của các doanh nghiệp làm ăn có uy tín để cho vay bằng
nguồn vốn trong nước cũng như nguồn vốn nước ngoài, tiếp tục hạn chế nợ quá
hạn, đưa nợ quá hạn xuống dưới 1% tránh tình trạng không thu hồi được nợ theo
kế hoạch.
- Đẩy mạnh các hoạt động MARKETTING, nhằm thu hút các đơn vị xuất
nhập khẩu, đặc biệt là những đơn vị có hoạt động xuất nhập khẩu lớn về quan hệ
giao dịch với chi nhánh Ngân Hàng. Duy trì phát triển tốt mối quan hệ hợp tác với
các Ngân hàng nước ngoài để thu xếp nguồn vốn tài trợ, sử dụng các dịch vụ Ngân
hàng và học hỏi kinh nghiệm về các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế.
- Đảm bảo đủ nội lực để tạo đà cho bước nhảy vọt của hoạt động tín dụng
xuất khẩu bên cạnh việc duy trì và phát triển hoạt động tài trợ nhập khẩu và các
dịch vụ ngân hàng quốc tế.
- Mục tiêu của Chi Nhánh đã đề ra cho các năm tới để phấn đấu sau như:
+ Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn tăng 20%.
+ Tốc độ tăng trưởng dư nợ 20%.
+ Nợ quá hạn < 1%.
+ Lợi nhuận hạch toán tăng so với năm trước 5%
3.1.2. Các mặt hoạt động cụ thể
Đối với hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
- Rà soát lại các Bộ, Tổng công ty đã và chưa có quan hệ tín dụng với Ngân
Hàng , xem xét mức độ quan hệ tín dụng của từng Tổng công ty hiện nay (với
Ngân Hàng và các NHTM khác) để phát triển và thiết lập quan hệ tín dụng, dịch vụ
ngân hàng. Đặc biệt chú trọng các Tổng công ty có tiềm năng về xuất nhập khẩu.
- Mở rộng tiếp thị, làm việc trực tiếp với các Tổng công ty có tiềm năng về
xuất nhập khẩu như TCT than, TCT chè, TCT cà phê, TCT lương thực, TCT dệt
may, TCT da giầy, TCT cao su, TCT thuỷ tinh gốm sứ, TCT rau quả, TCT lâm
nghiệp, TCT chăn nuôi, TCT xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến, TCT
máy và phụ tùng, TCT thiết bị ytế, TCT dược, các TCT của Bộ thuỷ sản). Cố gắng
tối đa để phục vụ nhu cầu vay vốn và các dịch vụ ngân hàng của các Tổng công ty
này.
- Mở rộng quan hệ giao dịch với các đơn vị có nguồn ngoại tệ để đẩy mạnh
nghiệp vụ huy động vốn và kinh doanh ngoại tệ, phấn đấu tự cân đối vốn được
ngoại tệ nhằm tài trợ hơn nữa cho tín dụng xuất nhập khẩu.
- Trên cơ sở ban hành Quy chế tạm thời về cho vay tài trợ hàng xuất, trước mắt tập
trung triển khai tại chi nhánh, địa bàn trọng điểm kết hợp với Tổng công ty có tiềm
năng xuất khẩu, trên nguyên tắc thận trọng, đảm bảo an toàn về vốn, mua lại được
ngoại tệ, tăng số lượng giao dịch xuất khẩu qua Chi Nhánh, nhằm nâng cao uy tín
của Ngân Hàng trên thị trường quốc tế. Phấn đấu năm 2001, Tổng doanh số cho
vay xuất khẩu của toàn hệ thống tập trung vào 8 nhóm mặt hàng chính là cà phê,
gạo, hạt có dầu, hải sản, may mặc, giầy dép, chè, cao su đạt doanh số năm nay cao
hơn năm trước
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động này bằng việc tích cực tìm kiếm, lựa chọn khách
hàng, dự án đầu tư có hiệu quả thông qua các kênh thông tin như các ngân hàng
nước ngoài có quan hệ, các chi nhánh, các Bộ, các Tổng công ty; gắn tín dụng nhập
khẩu với tín dụng xuất khẩu.
- Nghiên cứu để triển khai thí điểm việc cho vay theo những phương thức mới , tiên
tiến , dễ áp dụng và phù hợp với điều kiện nền kinh tế của Viêt Nam hiện nay .
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH.
Để tiếp tục phát triển một cách vững chắc và ngày càng đóng góp nhiều hơn
cho sự nghiệp phát triển đất nước, Chi Nhánh còn rất nhiều việc cần phải làm. Và
một mục tiêu quan trọng mà Ngân Hàng cần phải đạt được là nâng cao hơn nữa
chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng của
toàn hệ thống. Qua thời gian thực tập và nghiên cứu về hoạt động tín dụng xuất
nhập khẩu tại Ngân Hàng, với những hiểu biết về thực trạng và nguyên nhân của
những hạn chế trong hoạt động này như phân tích ở trên, em xin mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của
Ngân hàng trong những năm tới. Các giải pháp đó bao gồm:
3.2.1. Thực hiện nghiêm các biện pháp phòng ngừa rủi ro, hạn chế
nợ quá hạn.
Công việc đầu tiên để thực hiện ngăn ngừa rủi ro là Ngân hàng phải củng cố
mạng lưới thu thập và xử lí thông tin khách hàng để nâng cao được chất lượng của
công tác thẩm định dự án. Ngân hàng cần liên hệ thường xuyên với khách cũng
như các cơ quan quản lí khách hàng (các Bộ, các Tổng công ty..) để có được những
thông tin chính xác về thực trạng kinh doanh hiện tại của khách hàng, khả năng
phát triển trong tương lai của họ lấy đó là một cơ sở quan trọng nhất để ra quyết
định cấp tín dụng.
Trong thẩm định dự án phải chú trọng đến năng lực pháp lí của người vay và
đặc biệt là kế hoạch về khả năng sinh lời của dự án, kế hoạch trả nợ trên cơ sở gắn
những yếu tố về chi phí thu nhập của dự án với các yếu tố tương đương trên thị
trường và xu hướng biến động của chúng trong tương lai. Ngoài ra, với những
khách hàng mới cũng cần có sự đảm bảo của cơ quan chủ quản( Tổng công ty,
Bộ...) hay sử dụng tài sản cầm cố. Tuy nhiên, không quá coi trọng vào tài sản thế
chấp.
Tiếp đến Ngân hàng phải tiến hành phân định cán bộ tín dụng theo dõi tình
hình sử dụng vốn trong suốt dự án chứ không chỉ chú trọng ở riêng giai đoạn đầu
và cuối như hiện nay.
Về quản lí thu nợ và xử lí nợ quá hạn: Ngân hàng và khách hàng phải xác
định lịch trả nợ phù hợp với lịch thu được lợi nhuận từ hoạt động của khách, tránh
gây căng thẳng về vốn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần qui định chặt chẽ về
việc yêu cầu doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng để thuận lợi thu nợ.
Ngân hàng cần phát hiện sớm các khoản cho vay có dấu hiệu bị đe doạ thông
qua các dấu hiệu như: Doanh nghiệp chậm chễ trong việc nộp báo cáo tài chính,
báo các kết quả hoạt động kinh doanh; có dấu hiệu trốn tránh sự kiểm tra của Ngân
hàng ; số dư tiền mặt giảm; gia tăng bất thường về hàng tồn kho hoặc các khoản nợ
thương mại, hoàn trả nợ và lãi chậm... để chủ động tìm biện pháp xử lí chứ không
nên trông chờ vào doanh nghiệp. Cụ thể :
- Cán bộ Ngân hàng có thể cho lời khuyên hoặc cố vấn cho khách hàng trong
tiêu thụ sản phẩm, thu nợ khách hàng của doanh nghiệp.
- Tăng thêm vốn cho doanh nghiệp thông qua các hình thức như: mở rộng cho
vay tín chấp. Hay là, Ngân hàng có thể cho vay thêm hợp đồng tín dụng với khác
trên cơ sở có người đứng ra bảo lãnh.
- Đề nghị doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài thông qua các hình thức
như cổ phiếu, trái phiếu.
- Đối với các khoản cho vay mà sau khi phát hiện và thực hiện các biện pháp
hỗ trợ vẫn không có tác dụng dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi khi đó Ngân hàng
cần phải thực hiện các biện pháp về khai thác và thanh lí.
+ Biện pháp khai thác: Ngân hàng có thể gia hạn hợp đồng tín dụng, giảm
qui mô hoàn trả trước mắt hoặc có thể dãn nợ cho các doanh nghiệp. Các hình thức
này chỉ nên áp dụng với các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh, có
thu nhập có khả năng trả nợ; có ý thức trả nợ, trong quá trình vay đã trả được một
phần nợ gốc và lãi; doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố thế chấp dễ phát mại.
+ Biện pháp thanh lí tài sản thế chấp: Khi mà mọi sự cứu vãn tình thế trở
nên không còn hiệu quả thì Ngân hàng cần phải sử dụng biện pháp thanh lí nợ.
Ngân hàng có thể áp dụng hình thức gán nợ hay khởi kiện tuỳ theo quan hệ với
khách, ý thức mong muốn trả nợ và nguyên nhân không trả được nợ của khách.
- Gán nợ: Ngân hàng sẽ áp dụng hình thức gán nợ với các khách hnàg không
có khả năng trả nợ và họ uỷ quyền cho Ngân hàng toàn quyền quyết định đối với
tài sản thế chấp. Ngân hàng có thể sử dụng tài sản để cho thuê, làm trụ sở hay bán
lại cho người khác.
- Khởi kiện: Với những khách hàng có hành vi trốn tránh, lừa đảo thì Ngân
hàng sẽ tiến hành khởi kiện ra pháp luật.
Nếu các tài sản thế chấp có đủ hồ sơ hợp pháp, sau khi có quyết định của toà
án thì Ngân hàng nên chuyển qua trung tâm đấu giá hoặc thu hồi sử dụng như với
hình thức gán nợ. Còn nếu các tài sản có đủ hồ sơ pháp lí nhưng lại có thế chấp ở
Ngân hàng khác thì tiến hành phát mại và phân chia theo quyết định của toà án.
Đối với những khoản vay không có thế chấp, bảo đảm thì khả năng gánh chịu
rủi ro của Ngân hàng là khó tránh khỏi.
3.2.2. Thực hiện đa dạng hoá khách hàng và các hình thức tín dụng
xuất nhập khẩu
Trong cơ cấu tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân Hàng, cho vay đối với các
Doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm tỉ trọng cao. Để nâng cao được chất lượng thì
Ngân hàng cần thiết phải đa dạng hoá khách hàng bởi vì đây là việc làm có liên
quan chặt chẽ đến khả năng phòng chống rủi ro tín dụng. Hơn thế, đa dạng hoá
khách hàng sẽ đem lại cho Ngân Hàng một thị trường rộng hơn trong hoạt động tín
dụng và qua đó tăng trưởng được tín dụng, nâng cao được lợi nhuận cho ngân hàng
đồng thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu thiếu vốn của các thành phần kinh tế khác đặc
biệt là các cơ sở thu mua xuất khẩu nhỏ.
Đối với Ngân Hàng việc đa dạng hoá khách hàng theo thành phần kinh tế phải
gắn liền với đa dạng khách hàng theo ngành hàng. Chẳng hạn với các ngành hàng
như điện tử, xe máy, ôtô... Đây là những ngành hàng có nhiều triển vọng mà Ngân
Hàng còn bỏ ngỏ. Trong thời gian tới Ngân Hàng nên tiến hành tham gia vào các
ngành hàng này.
Cùng với việc đa dạng hoá khách hàng Ngân Hàng cũng cần phải tiến hành
mở rộng các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu.
Những năm qua hoạt động tín dụng nhập khẩu của ngân hàng đã phát triển khá
mạnh. Tuy nhiên, về hình thức còn đơn điệu, làm hạn chế khả năng đáp ứng nhu
cầu của khách hàng. Bên cạnh đó hoạt động tài trợ xuất khẩu lại chưa được quan
tâm đúng mức dẫn đến doanh số thấp, hình thức cổ điển. Vì vậy với phương hướng
lấy tín dụng xuất khẩu làm trọng tâm và kết hợp giữa tín dụng xuất khẩu và nhập
khẩu, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu thì trong giai đoạn tới
việc xem xét mở rộng các hình thức tín dụng cho xuất khẩu cũng như nhập khẩu là
đòi hỏi cấp thiết đối với Ngân Hàng
3.2.3. Đẩy mạnh đa dạng hoá nguồn vốn cho xuất nhập khẩu
Trong những năm qua mặc dù Chi Nhánh đã thực hiện huy động vốn bằng
nhiều hình thức khác nhau tuy nhiên, đối với hoạt động xuất nhập khẩu còn có một
số hình thức huy động mà Ngân hàng chưa thực sự quan tâm khai thác như:
- Tham gia đồng tài trợ cho các dự án xuất nhập khẩu với các ngân hàng nước
ngoài để khai thác những nguồn vốn, với chi phí thấp.
- Sử dụng hình thức tái tài trợ của các nước theo cơ chế Ngân Hàng vay ngắn
hạn dưới hình thức quay vòng của các Ngân hàng nước ngoài với lãi suất ngắn hạn
sau đó cho vay lại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước với lãi suất chênh
lệch.
- Sử dụng nguồn vốn ODA tạm thời nhàn rỗi để cho vay ngắn hạn xuất nhập
khẩu.
Đây là những nguồn vốn nước ngoài rất có ý nghhĩa đối với hoạt động tín
dụng xuất nhập khẩu bởi nó gắn với hoạt động ngân hàng quốc tế và quan hệ chặt
chẽ với hoạt động tài trợ cho xuất nhập khẩu của Ngân hàng. Ngoài ra, nó còn góp
phần không nhỏ trong việc đạt mục tiêu cung cấp hơn 5.000 tỉ cho hoạt động xuất
nhập khẩu trong năm 2000 và các năm sau đó. Để khai thác được các nguồn vốn
này thì Ngân hàng cần phải:
+ Không ngừng nâng cao uy tín trong quan hệ vay trả với nước ngoài, trả lãi
và gốc đúng hạn.
+ Tiếp tục mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế trên cơ
sở phát triển các mối quan hệ cũ và xúc tiến những mối quan hệ mới.
Bên cạnh khai thác các nguồn mới nói trên Ngân Hàng cũng cần tiếp tục đẩy
mạnh các hình thức huy động truyền thống trong và ngoài nước như: nhận tiền gửi,
tiền tiết kiệm, phát hành kì phiếu và trái phiếu, huy động vốn bằng các nguồn tài
trợ của nước ngoài trên cơ sở phát triển các dịch vụ liên quan đến trái phiếu, kì
phiếu như chiết khấu, lưu giữ, bảo quản, thanh toán, môi giới trái phiếu kì phiếu...,
có chính sách lãi suất phù hợp, sử dụng nhiều loại kì hạn khác nhau, tạo sự thuận
tiện trong việc sử dụng tiền trên tài khoản của khách, thực hiện tốt việc bảo hiểm
tiền gửi của khách hàng nhằm tạo tâm lí yên tâm cho họ...
3.2.4. Tăng cường công tác cán bộ
Về số lượng cán bộ: Hiện nay, với lĩnh vực tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân
Hàng thì số lượng cán bộ tín dụng trong lĩnh vực này chưa nhiều, trong khi phải xử
lí một khối lượng công việc rất lớn từ tìm kiếm khách hàng, hướng dẫn khách
hàng, thực hiện phát tiền vay, theo dõi, quản lí vốn vay... đến thu hồi vốn và lãi và
xử lí nợ quá hạn. Vì vậy, theo tôi Ngân Hàng nên bổ sung cho Phòng một số người
để bổ xung. Số cán bộ bổ sung này nên lấy từ phòng thanh toán quốc tế, Phòng bảo
lãnh sang để dễ nắm bắt được công việc.
Về chất lượng cán bộ: Hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu gắn thuộc nghiệp
vụ Ngân hàng quốc tế nên khá phức tạp và đòi hỏi về trình độ cán bộ tín dụng cao