Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 35 trang )

MỤC LỤC
TT
NỘI DUNG
I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
II.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.
Cơ sở lý luận
2.
Cơ sở thực tiễn
2.1
Thuận lợi
2.2
Khó khăn
2.3
Khảo sát thực tế
3
Các biện pháp đã tiến hành
3.1
Biện pháp 1: Dạy trẻ các kỹ năng
3.2. Biện pháp 2: Trẻ thực hành các kỹ
năng được học
3.2.1 Trong hoạt dộng học:
3.2.2 Trong hoạt động vui chơi
3.2.3 Rèn kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc
mọi nơi:
3.2.4 Phối kết hợp với phụ huynh trong
việc rèn KNS cho trẻ
Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
4.


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
IV
V

HÌNH ẢNH MINH HỌA
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

…………………………
…………………………
…………………………
…………………………
…………………………
…………………………
…………………………
…………………………
…………………………
…………………………

TRANG
2
3
3
3
4
4
5
5
5 -10

10

……………………..
…………………………..
11-12
…………………………
12-14
…………………………..

14-15

…………………………
…………………………

15-16
16-18

………………………
………………………..

18-32
33


I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là việc rất quan trọng, ảnh hưởng đến quá
trình hình thành nhân cách cho trẻ đến tuổi trưởng thành. Giáo dục kỹ năng sống
nhằm xây dựng vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất con người, tăng sức đề kháng và năng
lực hội nhập cho con trẻ ngay hôm nay và tự tin vững bước trong tương lai. Có thể
giáo dục kỹ năng sống từ tuổi Mầm non, bởi vì ở lứa tuổi này đã hình thành những

hành vi cá nhân, tính cách và nhân cách. Việc làm quen kỹ năng sống như: giao
tiếp, thuyết trình, làm việc theo nhóm, khả năng lãnh đạo, tổ chức, thậm chí là giải
quyết các vấn đề liên quan trong cuộc sống sẽ giúp trẻ tự tin, chủ động và biết xử
lý mọi tình huống trong cuộc sống và điều quan trọng hơn là khơi gợi những khả
năng tư duy sáng tạo biết phát huy thế mạnh của mình. Giáo dục trẻ tự tin khẳng
định bản thân. Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc
sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý
thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông và các tai nạn
thương tích khác, rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng
ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Đối với trẻ lứa tuổi mầm non, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là hết sức cần
thiết, bởi vì các bé ở lứa tuổi này nhận thức cũng như hành động đều trong sáng
như một tờ giấy trắng, khi gieo vào các em những gì thì nó sẽ hình thành thói quen
sau này cho các em như vậy.
Việc hình thành và rèn luyện kỹ năng sống có ý nghĩa hết sức quan trọng
giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước sức ép của cuộc sống, xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người. Sống an toàn, lành mạnh và
phát triển tốt.
Thạc sĩ Lê Thanh Nga – Vụ giáo dục Mầm non có viết:
“Đối với trẻ Mầm non trong quá trình phát triển, nếu được uốn nắn, giáo
dục tốt các em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng
thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong
cuộc sống... Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát
triển nhân cách, do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ có nhận thức đúng
và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ”
Với những lí do trên đã thúc đẩy tôi lựa chọn đề tài : “Một số biện pháp rèn kỹ
năng sống cho trẻ Mẫu giáo bé trong trường mầm non”.

2



II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lý luận:
Để đứa trẻ có thể trở thành cá thể độc lập, tự chủ, sống khỏe, sống tốt và
thành công trong tương lai thì ngay từ nhỏ cần rèn luyện kỹ năng sống. Đó có thể
coi như chìa khóa cho sự sống còn và phát triển của con người. Người có kỹ năng
sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách, họ thường
thành công hơn và làm chủ cuộc sống chính họ. Giáo dục kỹ năng sống góp phần
phát triển các hành vi xã hội tích cực, nâng cao chất lượng cuộc sống và đẩy nhanh
sự tiến bộ của toàn xã hội.
Hiện nay, việc rèn kỹ năng xã hội cho trẻ Mầm non đã được ngành giáo dục
và xã hội quan tâm hơn. Đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện
như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói
quen và kỹ năng học tập, sinh hoạt theo nhóm, rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ
sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn
thương tích khác, rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng
ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 3 – 4 tuổi nói riêng, việc bồi dưỡng
kinh nghiệm sống, rèn luyện thói quen tốt giúp trẻ hình thành kỹ năng cần thiết
trong cuộc sống, biết hợp tác cùng bạn, xây dựng tính độc lập, kích thích óc tò mò,
khả năng sáng tạo, biết yêu thương chia sẻ, biết lắng nghe người khác nói, đồng
thời biết diễn đạt ý của mình trong nhóm bạn; ngoài ra còn xây dựng ở trẻ lòng tự
tin khi tiếp nhận thử thách mới.
2. Cơ sở thực tiễn.
Khi thực hiện đề tài này tôi đã gặp phải một số thuận lợi và khó khăn sau:
2.1. Thuận lợi và khó khăn:
* Thuận lợi:
- Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học
tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn. Các lớp học được trang bị đầy đủ cơ
sở vật chất, đồ dùng đồ chơi trong lớp đáp ứng nhu cầu học tập vui chơi của trẻ tại

trường.
- Nhà trường có đội ngũ cán bộ giáo viên nhân viên trình độ chuyên môn
nghiệp vụ tốt, có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao trong công việc,
sẵn sàng giúp đỡ nhau về mọi mặt, tận tụy với nghề nghiệp, yêu nghề, mến trẻ.
- Tổ chuyên môn thường xuyên sinh hoạt, chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn
và phối kết hợp tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải nghiệm rèn kỹ năng...
- Hai giáo viên trong lớp đêu đạt trình độ chuẩn và đều là giáo viên trẻ nên
nhiệt tình và tâm huyết với nghề.
- Phụ huynh học sinh luôn phối kết hợp cùng nhà trường và giáo viên các
lớp tổ chức các hoạt động cho trẻ.
3


* Khó khăn:
- Nhận thức của phụ huynh về giáo dục kỹ năng sống chưa đầy đủ.
- Trong xã hội hiện nay các gia đình thường chú trọng đến việc học kiến
thức của trẻ mà không chú ý đến phát triển các kỹ năng cho trẻ. Luôn bao bọc ,
nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người khác
chính vì vậy mà các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế.
- Trẻ tiếp xúc nhiều các loại thiết bị hiện đại: điện thoại, ti vi... trẻ thụ động
phụ thuộc bố mẹ, ông bà nên chưa chủ động, tích cực.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn với một số thuận lợi và khó khăn trên, đã thúc
đẩy tôi thực hiện đề tài: “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ Mẫu giáo bé
trong trường mầm non”. Tôi mong rằng qua đề tài này, tôi có thể trao đổi thêm
những kinh nghiệm với các đồng nghiệp và phụ huynh học sinh, góp phần lồng
ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non.
2.2. Khảo sát thực tế:
2.2.1. Thực trạng trẻ:
Ngay từ đầu năm học khi có ý tưởng trong việc xây dựng Sáng kiến kinh
nghiệm, khi nhận học sinh đầu năm, tôi đã tiến hành khảo sát:

Tổng số trẻ đầu năm của lớp là 22 cháu, trong đó có 5 cháu mới đi học nên
còn nhiều bỡ ngỡ, chưa quen trường, quen lớp. Đầu năm nên đa số các cháu còn có
ít kinh nghiệm về các sự vật, hiện tượng xung quanh, ít được tiếp xúc với nhiều
loại nguyên vật liệu... Còn các cháu học sinh mới thì biết rất ít và có những cháu
lần đầu đi học nên khả năng nhận thức về các sự vật, hiện tượng xung quanh còn
hạn chế.
Đặc điểm tâm sinh lí của trẻ ở lứa tuổi này là thay đổi từ cảm giác vận động
sang giai đoạn tiền tư duy thao tác, kèm theo tư duy tượng trưng nên chính thời
điểm này giáo viên sẽ dạy trẻ phát triển nhận thức thông qua các thao tác bằng tay,
quan sát và khám phá.
Đây là bảng khảo sát đầu năm của trẻ lớp Mẫu giáo bé C1 mà tôi đã thực hiện.

STT

NHÓM KỸ NĂNG

1

Nhóm kỹ năng chăm sóc bản

ĐẦU NĂM

thân
Tỷ lệ %
2

SỐ TRẺ ĐẠT

SỐ TRẺ CHƯA ĐẠT


16

6

73%

27%

Nhóm kỹ năng quản lý cảm xúc 14

Tỷ lệ %

64%

4

8
36%


3

Nhóm kỹ năng giao tiếp

13

9

59%


41%

12

10

Tỷ lệ %

55%

45%

5

11

11

50%

50%

Tỷ lệ %
4

Nhóm kỹ năng đảm nhận trách
nhiệm

Nhóm kỹ năng lãnh đạo


Tỷ lệ %

2.2.2 Thực trạng giáo viên
- Lớp có 2 giáo viên có trình độ chuyên môn tốt, luôn nhiệt tình, tận tâm với
nghề và sáng tạo trong công việc.
- Giáo viên có khả năng làm đồ dùng đồ chơi phong phú theo từng nội dung
dạy trẻ trong tháng, biết ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
- Phụ huynh lớp đa phần đều là thế hệ trẻ, nên việc giao tiếp và trao đổi giữa
giáo viên và phụ huynh dễ dàng và thường xuyên thông qua phương tiện liên lạc
hiện đại (điện thoại) và công nghệ mạng xã hội cũng giúp giáo viên dễ dàng thu
thập thông tin về trẻ qua cha mẹ, cũng như việc thực hiện và rèn luyện các kỹ năng
của trẻ khi ở nhà để qua đó giáo viên có thể đánh giá mức độ hiểu biết về kỹ năng
của trẻ đầu năm học.
3. BIỆN PHÁP:
Đối với trẻ Mầm non đặc biệt là trẻ 3 – 4 tuổi khả năng ghi nhớ có chủ định
chưa cao. Ngược lại, khả năng bắt chước tái tạo lại các hoạt động của người lớn rất
nhanh. Trẻ học được kinh nghiệm sống chủ yếu là nhờ bắt chước hành động thực
của người lớn diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ không chỉ sử dụng lý thuyết mà phải vận dụng cả thực hành, trải nghiệm thì
mới có hiệu quả tốt. Sau đây là một số biện pháp tôi áp dụng để rèn kỹ năng sống
cho trẻ khối mẫu giáo bé nơi tôi công tác.
3.1. Dạy trẻ các kỹ năng:
* Nhóm kỹ năng chăm sóc bản thân:
Ngay từ đầu năm học khi xây dựng chương trình tôi đã chú trọng xây dựng
các kỹ năng tự phục vụ theo các tháng để dạy trẻ trong năm học:

5


STT


Kĩ năng tự phục vụ
- Chào cô, chào ông bà bố mẹ, chào bạn khi
đến lớp và ra về.
Tháng 9

- Trẻ thực hiện rửa tay bằng xà phòng
- Trẻ thực hiện lau mặt
- Trẻ thực hiện xúc miệng nước muối

Tháng 10

Tháng 11

Tháng 12

Tháng 1

Tháng 2

Tháng 3

Tháng 4

Tháng 5

- Đi cầu thang ( Mức độ 1 )
- Cầm bát, cầm thìa. Cách xúc cơm. Cách bê
bát, cất bát ( Mức độ 1 )
- Trẻ thực hiện Rửa tay, lau mặt, xúc miệng

- Cách rửa tay
- Cách lau mặt trước khi ăn và lau miệng sau
khi ăn
- Cách mời cơm trước khi ăn (Ở lớp, ở nhà)
- Cách bê ghế
- Xúc miệng nước muối.
- Biết cách tự đi dép, đi dép đúng chiều, biết
cài quai
- Lấy nước và uống nước
- Cách bê ghế
- Biết cách tự đi dép, đi dép đúng chiều, biết
cài quai
- Cách cầm kéo
- Cách sử dụng kéo, cắt theo đường thẳng
- Cách mặc – cởi quần, gấp quần.
- Đánh răng (Mô hình)
- Cách gỡ thảm
- Biết chải răng
- Biết ăn chin , uống sôi
- Biết mặc trang phục phù hợp khi có nhu cầu
- Thành thạo 1 số kĩ năng tự phục vụ bản
thân: rửa tay, lau mặt , đi dép , cất đồ dùng
đồ chơi .
- Biết nói khi có nhu cầu
- Cắt giấy theo đường thẳng dài 10cm.
- Biết mời khi ăn, không vứt đồ ăn thừa
6


- Kỹ năng tự phục vụ bản thân: Tự đi giày dép, uống nước, tự lấy gối cho

mình …tự mặc quần áo, cùng với cô và các bạn kê dọn bàn ăn, tự đánh răng sau
khi ăn, tự rửa mặt.
VD: Ở nhóm kỹ năng này tôi dạy trẻ kỹ năng: Rửa tay bằng xà phòng với
các bước như sau:
+ Bước 1: Làm ướt bàn tay bằng nước và lấy xà phòng.
+ Bước 2: Rửa lần lượt cổ tay ở hai bên.
+ Bước 3: Rửa mu bàn tay và các kẽ ngón tay.
+ Bước 4: Xoay các đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại.
+ Bước 5: Rửa sạch hai tay dưới vòi nước chảy
Hình ảnh minh họa ( Hình ảnh số 1,2,3,4,5)
VD: Khi dạy trẻ kỹ năng: Tự đi dép, đi dép đúng chiều và cách cài quai. Do
đặc điểm nhận thức của trẻ mẫu giáo bé đầu năm còn hạn chế trong việc xác định
phương hướng nên khi dạy kỹ năng này cho trẻ, tôi chú trọng dạy và giúp trẻ phân
biệt rõ bên phải bên trái trước khi dạy trẻ cách đi dép.
Hình ảnh minh họa( hình ảnh số 6,7,8,9)
- Kỹ năng nhận biết và tự bảo vệ trước những tình huống nguy hiểm, tránh
nơi
không an toàn.
VD: Ở kỹ năng này, tôi dạy trẻ kỹ năng: Cách sử dụng kéo và cắt theo
đường thẳng.
Ở giai đoạn này, trẻ đã có kỹ năng cầm kéo nên tôi rất chú trọng dạy trẻ cách
sử dụng kéo sao cho đảm bảo an toàn và trẻ cắt được giấy theo đường thẳng.Tôi
dạy trẻ cách xỏ tay vào kéo và giữ kéo một cách chính xác khi cắt để không bị cắt
vào tay cầm giấy.
Hình ảnh minh họa (hình ảnh số 10,11,12,13,14,15)
- Cho trẻ nhận thấy giá trị của bản thân, mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt
động vui chơi. Thể hiện khả năng, năng khiếu của bản thân trước tập thể (tự giới
thiệu, tham gia các chương trình văn nghệ, biểu diễn thời trang…)
VD:
Ở kỹ năng này, tôi dạy trẻ kỹ năng: Biết nói khi có nhu cầu. Tôi khuyến

khích trẻ tự giới thiệu về mình( sở thích, tích cách, năng khiếu ...) và động viên trẻ
thể hiện luôn năng khiều của mình trước tập thể( hát, múa, đọc thơ...).
* Nhóm kỹ năng quản lý cảm xúc:
- Học cách cảm thông và chia sẻ với mọi người.
Khi dạy kỹ năng này tôi lựa chọn cách dạy trẻ gắn với một tình huống cụ thể
như cho trẻ xem 1 đoạn phim, xem tranh ảnh hoặc kể trích dẫn 1 câu chuyện kết
hợp giảng giải giúp trẻ hiểu.
7


VD: Khi dạy trẻ về sự cảm thông, tôi đã đọc cho trẻ nghe câu truyện: Bánh
mỳ cháy và câu chuyện về sự cảm thông. Sau khi đọc xong, tôi sẽ đưa ra những
câu hỏi giúp trẻ hiểu về nội dung câu chuyện, sau đó cho trẻ thảo luận về cảm xúc
của từng nhân vật: cảm xúc của bố, của con khi nhìn thấy chiếc bánh mỳ bị cháy
xém. Tôi đưa ra tình huống: Nếu người mẹ bị 2 bố con chê và tỏ ra không đồng ý
vì mẹ đã nướng bánh mỳ cháy thì cảm xúc của người mẹ như thế nào? Sau đó, tôi
sử dụng phương pháp giảng giải, giải thích giúp trẻ hiểu cần phải biết học cách
cảm thông với mọi người, không ai là người hoàn hảo và trọn vẹn.
Kiểm soát tình cảm.
Ở nhóm kỹ năng này, khi dạy trẻ kỹ năng quản lý cảm xúc, tôi dạy trẻ cách
nói về cảm xúc của mình, biết kiểm soát cảm xúc của mình vì khi trẻ nói lên được
cảm xúc và biết kiểm soát được cảm xúc của mình với người khác thì trẻ sẽ ít có
khả năng thể hiện những hành vi.
VD:
Dũng và Cường đang chơi đồ chơi lắp ghép. Cường lấy đồ chơi của Dũng.
Khi ấy, tôi sẽ hướng cho Dũng hãy nói lên suy nghĩ, cảm xúc của mình với Cường:
Nếu bạn lấy đồ chơi của tớ thì tớ sẽ rất giận bạn, tớ sẽ rất buồn.
- Nâng cao lòng tự trọng của trẻ.
- Yêu thương mọi người.
- Phân biệt đúng sai, cảm ơn xin lỗi.

Ở nhóm kỹ năng này, tôi dạy trẻ thông qua các tình huống cụ thể giúp trẻ
biết cách cư xử sao cho đúng mực, đặt ra các câu hỏi tình huống kích thích trẻ tự
suy nghĩ và tìm ra hướng giải quyết: Nếu thấy một người già muốn qua đường thì
con sẽ làm gì? Nếu con thấy bạn trong lớp mình bị bạn khác bắt nạt con sẽ làm
gì?...
VD: Trong giờ sinh hoạt chiều, Minh Phúc lấy đồ chơi của Nhật Minh, Gia
Hưng giằng tiếp đồ chơi của Nhật Minh đưa cho Minh Phúc, Nhật Minh khóc và
mách với cô. Khi đó tôi sẽ dạy trẻ kỹ năng: Biết phân biệt đúng sai, nói xin lỗi.
Tôi sẽ giải thích cho Gia Hưng biết: hành vi mà con và Minh Phúc làm là sai, con
không nên hùa theo bạn để lấy đồ chơi của bạn, nếu con và Minh Phúc lấy đồ chơi
của Nhật Minh thì bạn sẽ rất buồn và bạn sẽ không có gì để chơi. Tôi sẽ đặt ra tình
huống: Nếu các con cũng bị các bạn lấy đồ chơi như vậy thì các con sẽ cảm thấy
như thế nào? Sau đó, tôi sẽ yêu cầu Gia Hưng và Minh Phúc xin lỗi Nhật Minh và
3 bạn có thể chơi cùng với nhau.
* Nhóm kỹ năng giao tiếp:
- Kỹ năng xây dựng quan hệ với mọi người xung quanh
- Tự tin, lắng nghe và nói lên suy nghĩ
- Kỹ năng thay đổi hành vi, thái độ, việc làm của mình khi người khác không
hài lòng.
8


- Kỹ năng giao tiếp
VD: Ở nhóm kỹ năng này , tôi dạy trẻ: Cách mời cơm trước khi ăn( ở nhà, ở
lớp). Tôi dạy trẻ hiểu được đây là một trong những nét đẹp văn hóa của người Việt
Nam nên trẻ cần phải có thói quen mời cơm trước khi ăn ở nhà cũng như ở lớp.
Đây còn là thể hiện hành vi giao tiếp đúng chuẩn mực, là tiền đề giúp trẻ hình
thành nhân cách về con người sống đẹp, sống có văn hóa.
* Nhóm kỹ năng đảm nhận trách nhiệm:
+ Ý thức trách nhiệm, có những quyết định mạnh mẽ, hòa đồng với người khác

và khắc phục khó khăn.
Ở đây tôi dạy trẻ cách nỗ lực hoàn thành các công việc trẻ được phân công
hay trẻ tự chọn như giúp cô trực nhật: xếp bát, chia thìa về bàn, giải chiếu, gấp
khăn, kê bàn, cất ghế....và khi gặp khó khăn trong công việc thì trẻ tùy theo hoàn
cảnh mà yêu cầu sự trợ giúp từ phía giáo viên hoặc các bạn trong lớp.
Hình ảnh minh họa( hình ảnh số 16)
+ Kỹ năng thiết lập và thực hiện mục tiêu.
VD: Trong góc xây dựng, trẻ tự thỏa thuận với nhau hôm nay sẽ xây cái gì.
Ví dụ: xây khu thủy cung, trẻ sẽ bàn bạc với nhau xem sẽ sử dụng nguyên vật liệu
gì, có loại cá nào trong bể, bố trí các bể cá thế nào cho đẹp và kết quả là trẻ đã xây
được khu thủy cung đẹp, hợp lý.
* Nhóm kỹ năng lãnh đạo:
- Kỹ năng tổ chức hoạt động
- Kỹ năng làm việc nhóm, biết hợp tác cùng bạn
- Kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Tôi dạy trẻ biết tự tin, có tinh thần xung phong đảm nhận những vị trí “lãnh
đạo”, để đưa ra các ý kiến của mình trong 1 nhóm trẻ chơi hoặc hoạt động tập thể.
VD: Trẻ nhận làm kĩ sư trưởng trong nhóm chơi xây dựng. Trẻ sẽ phân công
các bạn trong nhóm chơi về công việc phải làm trong góc chơi xây dựng còn trẻ sẽ
bao quát, xử lý một số tình huống xảy ra: bạn không làm việc, hoặc làm sai yêu
cầu.
Những kỹ năng cơ bản đầu tiên trước khi hình thành những kỹ năng trên:
- Tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát
triển sự tự tin hoặc lòng tự trọng ở trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai,
cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. KNS này luôn
giúp trẻ cảm thấy tự tin trong các tình huống ở mọi nơi.
- Hợp tác: Bằng các trò chơi, câu truyện, bài hát, giáo viên giúp trẻ học cách
cùng làm công việc với bạn. Đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ ở lứa tuổi
này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
- Tò mò: Một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn

này là khao khát được học, được chơi. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý
9


tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho
thấy rằng các tư liệu và các hoạt động mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí
não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
- Giao tiếp: Trẻ cần biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho
người khác hiểu. Trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới
xung quanh. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ, nó có vị trí
khá chính yếu so với tất cả các kỹ năng khác như: Đọc ,viết...Nếu trẻ cảm thấy
thoải mái khi nói về một ý tưởng hay một chính kiến nào đó, trẻ sẽ dễ dàng học và
sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ
sẵn sàng học mọi thứ.
Mỗi giáo viên cần đề ra mục tiêu đạt được của trẻ trong năm học và cần gợi ý
để phụ huynh có thể phối hợp hỗ trợ những kỹ năng này cho trẻ tại nhà.
3.2. Trẻ thực hành các kỹ năng được học.
3.2.1. Trong hoạt dộng học:
- Trẻ ngồi học ngoan, tập trung chú ý nghe cô giảng bài.
- Khi cô đưa ra câu trả lời thì giơ tay đẹp không nhốn nháo, mất trật tự.
- Khi trẻ trả lời hoặc phát biểu ý kiến thì trẻ phải trả lời đủ câu, có thưa gửi rõ
ràng ( con thưa cô, vâng ạ) .
- Khi làm những thí nghiệm đơn giản, hay những hoạt động trải nghiệm thì trẻ
có ý thức trách nhiệm để phối hợp với các bạn, biết lắng nghe ý kiến của các bạn
và chia sẻ thông tin của mình với các bạn.
- Trẻ có ý thức giữ gìn sản phẩm của mình và của bạn.
- Để đảm bảo an toàn cho mình cho các bạn trẻ sử dụng các đồ dùng, dụng cụ
đúng cách, không chạy nhảy di chuyển lung tung khi đang sử dụng các đồ dùng
dụng cụ.
- Trẻ luôn có thói quen quan sát, ghi nhớ để đưa ra các quyết định, các hướng

giải quyết vấn đề.
- Khi tham gia chơi trò chơi trẻ tuân thủ cách chơi và luật chơi đưa ra.
- Khi tham gia các trò chơi ôn luyện trẻ biết hợp tác cùng bạn để đạt được kết
quả.
VD: Trong giờ học Văn học: Khi dạy trẻ tiết truyện: Gấu con bị sâu răng. Tôi
có lồng ghép nhóm kỹ năng tự phục vụ để giáo dục cho trẻ: phải biết đánh răng
trước và sau khi ngủ dậy, sau đó tôi sẽ cho trẻ thực hành các thao tác để đánh
răng đúng cách.
VD: Trong tiết Văn học: Truyện: “ Thỏ con không vâng lời”, tôi có lồng ghép
nhóm kỹ năng quản lý cảm xúc – biết cảm thông, giúp đỡ mọi người khi họ
gặp hoàn cảnh khó khăn. Tôi cho trẻ thảo luận về cảm xúc của Thỏ mẹ khi Thỏ
em không giúp đỡ cô gà Hoa Mơ, bạn Gà Nhép bị lạc đường. Sau đó, tôi cho
trẻ nói lên cảm xúc của mình khi trẻ đặt mình là Thỏ mẹ.
10


VD: Khi cho trẻ thực hiện thí nghiệm: Sự hòa tan của nước. Tôi cho trẻ làm
việc theo nhóm, mỗi nhóm sẽ tự thỏa thuận và bầu ra 1 bạn nhóm trưởng để thực
hiện thí nghiệm. Sau đó, các bạn trong nhóm sẽ quan sát, thảo luận với nhau để
đưa ra kết quả.
3.2.2 Hoạt động vui chơi:
Hiệu quả giáo dục KNS thông qua hoạt động vui chơi cao hơn hẳn những
phương thức giáo dục KNS khác. Hoạt động vui chơi là hoạt động được trẻ đón
nhận một cách hứng thú và tích cực nhất, bởi nó đáp ứng được nhu cầu của trẻ,
trong thế giới đồ vật trẻ được tha hồ vui chơi sáng tạo. Việc tổ chức tốt hoạt động
vui chơi không chỉ giúp hình thành khả năng mà còn đặt nền tảng khá vững chắc
để phát triển những kỹ năng sống cho trẻ.
* Hoạt động góc: Trẻ có kỹ năng xây dựng quan hệ với các bạn trong nhóm chơi
của mình và các nhóm khác. Trẻ có kỹ năng làm việc nhóm, biết hợp tác cùng với
bạn. Có kỹ năng giao tiếp, có các hành vi và thái độ đúng mực trong các hoạt động

chơi. Trẻ có kỹ năng tổ chức, quyết đinh, giải quyết vấn đề trong nhóm chơi.
- Ở góc nấu ăn: trẻ thực hiện quy trình nấu ăn, sử dụng đồ dùng dụng cụ trong nhà
bếp đúng cách.
VD: Cô hỏi các bác đầu bếp hôm nay làm món gì. Trẻ trả lời: làm món cá
rán. Cô quan sát các thao tác trẻ làm: trẻ dùng dao, thớt để chế biến cá sau đó trẻ
giả vờ rửa cá thật sạch sau đó mới cho vào chảo rán. Trẻ dùng đũa để lật cá, khi cá
đã rán chín vàng, trẻ dùng xẻng để múc cá ra đĩa.
Hình ảnh minh họa( hình ảnh số 17)
- Ở góc sách truyện: trẻ thực hiện cách sử dụng sách sao cho đúng cách, cách giở
sách, mở sách.
VD: trẻ cầm truyện đúng tầm mắt không gần quá không xa quá, trẻ mở sách
ở bên mép phải của quyển sách, mở nhẹ nhàng không làm nát, nhàu.
Hình ảnh minh họa( hình ảnh số 18)
- Ở góc xây dựng – lắp ghép: Trẻ sử dụng kỹ năng hợp tác, chia sẻ và giải quyết
vấn đề trong quá trình chơi.
Hình ảnh minh họa(hình ảnh số 19)
VD: Trẻ đang loay hoay một mình với bộ lắp ráp người máy, trẻ đã rất cố
gắng nhnh ưng vẫn không thể lắp ráp được vì vậy trẻ đã rủ thêm bạn cùng chơi.
- Ở góc nghệ thuật: trẻ thực hiện kỹ năng cá nhân: tự lấy đồ(bút màu, bài, dụng cụ
biểu diễn...) , cách ngồi vẽ, tô màu đúng cách, kỹ năng cầm bút tô vẽ, cách giữ gìn
và bảo quản sản phẩm của mình, của bạn.
Hình ảnh minh họa (hình ảnh số 20, 21)
- Ở góc học tập: Trẻ thực hiện kỹ năng thiết lập, giải quyết vấn đề và kỹ năng thiết
lập và thực hiện mục tiêu.
Hình ảnh minh họa số 22
11


Thông qua các trò chơi đã tạo điều kiện cho đứa trẻ tự rèn luyện nhân cách
và KNS một cách tự nhiên và đầy hứng thú. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá

thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các
vần đề, thực hành các ý tưởng. Khi trẻ tham gia vào trò chơi, trẻ cần phải biết lập
kế hoạch chơi, sáng tạo cách chơi và cố gắng đạt mục đích, đây chính là những kỹ
năng cơ bản để sống và làm việc sau này.
* Hoạt động ngoài trời:
- Trẻ biết đi theo hàng khi đi chơi.
- Trẻ biết cách chơi an toàn như: khi leo lên bậc thang phải leo từ từ, chú ý,
không được chạy không được đứng gần phía trước vì sẽ rất nguy hiểm
- Trẻ biết thực hiện trò chơi đúng theo yêu cầu.
- Trẻ biết chăm sóc cây xanh: tưới cây, lau lá, nhặt lá vàng...
Hình ảnh minh họa (hình ảnh số 23)
- Trẻ biết lau mặt, rửa tay.
Hình ảnh minh họa (số 24, 25)
- Trẻ biết kiên trì chờ đợi đến lượt mình chơi, tuyệt đối không không xô đẩy,
tranh giành đồ chơi, chỗ chơi với bạn.
Hình ảnh minh họa (số 26)
- Trẻ biết để rác đúng nơi quy định
Hình ảnh minh họa (số 27)
3.2.3. Rèn kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi: Đón trả trẻ, hoạt động ăn –
ngủ, hoạt động chiêu, Ngày lễ hội, Đi tham quan dã ngoại.
Việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ không phải một sớm một chiều mà nó
phải có quá trình thời gian để rèn luyện. Đó là sự lặp lại thao tác, một hành vi nào
đó, dần dần nó trở thành kỹ năng đối với trẻ. Sinh hoạt hàng ngày của trẻ đa phần
là những hoạt động lặp lại vì vậy trẻ được rèn luyện nhiều thực hiện các công việc
đó một cách dễ dàng vì đã thành nếp sinh hoạt. Ngoài ra trong sinh hoạt trẻ cũng
gặp phải vấn đề mới nảy sinh - đó chính là cơ hội quý để hình thành những kĩ năng
sống mới. Ở trường mầm non giáo viên tận dụng các thời điểm trong ngày, bất cứ
khi nào có cơ hội và cảm thấy trẻ có hứng thú.
* Giờ đón trả trẻ: Trẻ thực hiện kỹ năng phục vụ bản thân: cất( lấy) ba lô đúng
ngăn tủ của mình, trẻ biết để dựng đứng ba lô vì diện tích chật nên 2 – 3 trẻ đựng

chung một ngăn tủ. Trẻ cất dép vào ngăn tủ: trẻ để dép theo đúng đôi của mình và
biết quay mũi dép hướng ra ngoài. Khi vào lớp trẻ thực hiện kỹ năng giao tiếp:
chào hỏi: chào cô, chào bố mẹ.
Hình ảnh minh họa số 28, 29, 30, 31,32
* Hoạt động ăn, ngủ:

12


- Trẻ thực hiện kỹ năng phục vụ bản thân: tự rửa tay, lau mặt, bê ghế vào
bàn, tự xúc cơm ăn, cất bát sau khi ăn, đi vệ sinh đúng khu vực, đúng chỗ dành
riêng cho bạn trai, bạn gái, lấy gối....Trẻ biết mời cô, mời bạn trước khi ăn. Trẻ
ngồi ăn ngay ngắn, lưng thẳng, đầu thẳng, không nhoài người về phía trước. Trẻ
cầm thìa đúng cách không làm vãi cơm ra ngoài. Trẻ biết nhặt cơm rơi, vãi vào
đĩa...
- Ngoài ra, trẻ thực hiện kỹ năng đảm nhận trách nhiệm: trẻ thực hiện các
công việc được phân công, trực nhật: giúp cô chia thìa về bàn, kê bàn, giải chiếu,
gấp khăn...
Hình ảnh minh họa( hình ảnh số 33, 34, 35, 36)
* Hoạt động chiều: Trẻ ôn luyện các kỹ năng khó đã được học và rèn luyện các kỹ
năng mới.
* Hoạt động Ngày lễ hội: Trẻ tự tin tham gia các hoạt động vui chơi, trẻ thể hiện
khả năng, năng khiếu của bản thân trước tập thể: Ngày hội bé đến trường, Bé vui
tết trung thu, Liên hoan chúng cháu vui khỏe, Lễ tổng kết năm học....
Hình ảnh minh họa( hình ảnh số 37, 38, 39).
*Hoạt động đi tham quan dã ngoại:
Kỹ năng tương tác tích cực với cộng đồng, với môi trường tự nhiên sẽ giúp
cho trẻ khám phá ra nhiều điều mới lạ, bố ích, giúp trẻ hiểu đúng, nhớ lâu và là
chìa khóa mở cánh cửa tri thức cho trẻ, để giúp trẻ hòa nhập cuộc sống tốt hơn. "Đi
một ngày đàng, học một sàng khôn", những kiến thức trẻ có được qua sự truyền đạt

của cô giáo, của ba mẹ,...không thể sánh bằng những kiến thức mà trẻ lĩnh hội qua
việc được tận mắt nhìn, được trực tiếp tham gia thực hành.
Việc được quan sát tận mắt, tận tay thực hành thử công việc của người lớn,
đã giúp cho các bé hứng thú thực sự và dễ dàng ghi nhớ hơn so với việc được
giảng giải và xem qua tranh ảnh, mô hình. Sau một ngày trải nghiệm tại khu vui
chơi Times City, các bé đã được bắt tay vào thực hành các nghề khác nhau: được
đóng vai là những bác sĩ thực thụ khám bệnh cho mọi người qua đó trẻ được rèn
luyện rất nhiều kĩ năng: kĩ năng đeo tai nghe, đo huyết áp, nghe nhịp tim... Ngoài
ra trẻ được các cô chú dạy bảo về đức tính của người bác sĩ: đối với bệnh nhân
phải nói năng nhẹ nhàng, tình cảm, ân cần...Hay đến với ngôi nhà của các chú công
an: trẻ cũng được đóng vai tập làm những chú công an giao thông, hướng dẫn cách
chỉ dẫn đường làm sao cho các phương tiện đi đúng làn đường của mình. Ngoài ra
trẻ còn được rèn luyện tác phong của một người cảnh sát giao thông: lịch sự, nhanh
nhạy, nghiêm chỉnh...Hay đến với ngôi nhà của các chú lính cứu hỏa, trẻ được trải
nghiệm rất nhiều điều, được tham quan các đồ dùng, dụng cụ chuyên dùng của các
chú lính cứu hỏa, được biết về tầm quan trọng của nghề lính cứu hỏa...
Hình ảnh minh họa( hình ảnh số 40)

13


Khi được đi tham quan ở trang trại giáo dục Erahouse trẻ được tập làm
những người đầu bếp tí hon, được trải nghiệm một số món ăn mà trẻ thích. Từ đó,
trẻ hiểu thêm phần nào về công việc của một người đầu bếp, hiểu được nỗi vất vả
của người đầu bếp để có thể làm ra những món ăn ngon.
Hình ảnh minh họa(hình ảnh số 41)
Khi đến với ngôi nhà của bác nông dân, trẻ được tập làm những người nông
dân, được cầm xẻng để xới đất, trồng cây. Trẻ được các cô nói về công việc, nỗi
khó khăn, vất vả để làm ra những lương thực, thực phẩm sạch cung cấp tới người
tiêu dùng.

Hình ảnh minh họa( hình ảnh số 42)
Chuyến tham quan kết thúc nhưng đã để lại cho các bé nhiều điều bổ ích về
thế giới xung quanh, trẻ học được những kỹ năng lắng nghe, quan sát, sự phối hợp
khi làm việc. Từ những trải nghiệm thực tế đã giúp cho trẻ biết được những công
việc của từng nghề từ đó biết yêu quí và trân trọng những nghề đó.
3.2.4. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc rèn KNS cho trẻ
Tôi đã xây dựng kế hoạch để tuyên truyền với phụ huynh về dạy trẻ kỹ năng
sống thông qua:
- Bảng tuyên truyền
Hình ảnh minh họa( hình ảnh số 43, 44)
- Gửi thư ngỏ,
- Xây dựng góc kỹ năng sống( Bé ngoan chăm làm): trong đó chụp ảnh trẻ ở
lớp đang thực hiện các kỹ năng theo từng bước nhằm giúp phụ huynh có thể dạy
con khi ở nhà đúng phương pháp đúng cách.
Hình ảnh minh họa( hình ảnh số 45)
- Trao đổi trên các trang thông tin: điện thoại, email, facebook..
Theo suy nghĩ của tôi thì bố mẹ là người làm gương quan trọng nhất của con
cái. Việc phối hợp với phụ huynh trong việc giáo dục hình thành kỹ năng sống là
điều vô cùng cần thiết. Vào đầu năm học nhà trường tổ chức các lớp họp phụ
huynh trao đổi một số nội dung về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại gia đình. Giáo
viên cần trao đổi ngắn gọn, dễ hiểu dễ thực hiện và mang tính thuyết phục cao. Có
thể kể các câu chuyện vui, hấp dẫn nhẹ nhàng chứa đựng những bài học bổ ích về
nuôi dạy trẻ. Thông qua các câu truyện trên phụ huynh sẽ tự trao đổi và rút bài học
kinh nghiệm trong cách hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Khuyến khích cha mẹ trẻ
tạo điều kiện cho trẻ được làm những việc mà khi chúng có thể tự làm, trẻ sẽ cảm
thấy rất vui và thoải mái. Cha mẹ tạo cơ hội để trẻ tự phục vụ bản thân như: tự rửa
mặt, chải răng thay quần áo, tự chọn quần áo đồ dùng chuẩn bị đi học...Người lớn
cần dạy trẻ biết được số điện thoại của bố mẹ và các số điện thoại cần thiết khác
như: cứu hỏa, công an, cấp cứu để trẻ có thể tự bảo vệ bản thân trong những trường
hợp nguy hiểm.

14


Hãy cho phép trẻ vui chơi và bày biện đồ chơi theo ý thích của trẻ, đừng bao
giờ la mắng hay cấm đoán trẻ. Điều quan trọng là để trẻ thu dọn đồ dùng sau khi
chơi xong. Cha mẹ có thể thu dọn cùng con nhưng tuyệt đối không bao giờ được
làm thay trẻ.
Trong các dịp lễ tết, cha mẹ nên tạo cơ hội khuyến khích trẻ tham gia dọn dẹp
trang hoàng nhà cửa, phụ ông bà lau lá để gói bánh trưng, cùng bố trang trí cho cây
mai, cây quất, đi chợ tết mua sắm cùng mẹ... Ngoài ra bố mẹ hãy lựa chọn những
chương trình truyền hình phù hợp và bổ ích với bé để cả nhà cùng xem, khi xem
các bé nói lên suy nghĩ và cảm xúc của mình về những điều mà bé vừa xem.
Một điều quan trọng nữa là cha mẹ trẻ cần phối hợp chặt chẽ với giáo viên
bằng việc tham gia dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khóa do trường tổ
chức. Bố mẹ hãy thường xuyên tham khảo những hoạt động của các con thông qua
bảng tuyên truyền của lớp. Khi rèn kĩ năng cho trẻ ở nhà bố mẹ có thể tham khảo
một số bài báo, bài viết, những câu danh ngôn về kĩ năng sống mà cô giáo đã sưu
tầm được để dạy cho trẻ.
4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:
Tôi đã áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của mình một cách có hiệu quả tại trẻ
lớp Mẫu giáo bé C1 trong nhà trường.
Sau đây tôi xin trình bày kết quả cụ thể:
CUỐI NĂM
STT NHÓM KỸ NĂNG
SỐ TRẺ ĐẠT SỐ TRẺ CHƯA ĐẠT
1

Nhóm kỹ năng chăm sóc bản
thân


Tỷ lệ %
2

22

0

100%

Nhóm kỹ năng quản lý cảm xúc 20

2

Tỷ lệ %

91%

9%

3

20

2

91%

9%

19


3

Tỷ lệ %

86%

14%

5

19

3

86%

14%

Nhóm kỹ năng giao tiếp

Tỷ lệ %
4

Nhóm kỹ năng đảm nhận trách
nhiệm

Nhóm kỹ năng lãnh đạo

Tỷ lệ %


15


III. KẾT LUẬN
1/ Những nhận định chung của người viết về việc áp dụng và khả năng phát
triển SKKN.
SKKN này được áp dụng tại trẻ lớp Mẫu giáo bé C1. SKKN này sẽ tiếp tục
được nghiên cứu với trẻ mẫu giáo bé trong nhà trường và trong những năm học
sau.
2/ Bài học kinh nghiệm
- Giáo viên cần xác định rõ mục tiêu ngay từ đầu năm học để từ đó xây dựng
những phương pháp, biện pháp phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý khi rèn kỹ năng
cho trẻ.
- Quán triệt một số điều cần tránh khi dạy KNS cho trẻ:
+ Không hạ thấp trẻ, không dọa nạt, bắt trẻ hứa hẹn. Không bao bọc trẻ một
cách thái quá sẽ làm trẻ yếu đuối, không nên yêu cầu trẻ phục tùng ngay lập tức.
+ Không yêu cầu những điều không phù hợp với lứa tuổi của trẻ, không nên
giáo huấn, thúc giục trẻ mà phải tạo cơ hội cho trẻ giải quyết vấn đề.
- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích
sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng
khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải
giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc
sống.
- Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động chăm sóc giáo dục trẻ
một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các
lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và thẩm mỹ. Phát huy
tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng
vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
- Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn

khác trong lớp, biết chia sẻ chăm sóc, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý
của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi
tiếp nhận các thử thách mới.
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao
đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà,
bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ giáo viên cần:
- Chuẩn bị tốt nội dung kế hoạch và xác định rõ vai trò của giáo viên khi tổ
chức hoạt động vui chơi cho trẻ.
- Tích cực học hỏi, nghiên cứu tìm ra các phương pháp, biện pháp điều khiển
hoạt động dạy KNS một cách linh hoạt, thích hợp và có hiệu quả.

16


- Tạo mọi cơ hội cho trẻ tương tác với bạn, với cô qua hoạt động vui chơi. Giúp
trẻ vận dụng những kỹ năng giải quyết các tình huống thực trong sinh hoạt hằng ngày
của trẻ.
- Giáo viên gương mẫu trong mọi hành vi, cách ứng xử và phải thật sự là tấm
gương sáng để trẻ noi theo.
- Tạo bầu không khí thân thiện, động viên, khen ngợi kịp thời khi trẻ thể
hiện những hành vi kỹ năng sống phù hợp.
- Giáo viên giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều
nên làm và không nên làm; giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình
huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ; giúp trẻ thực
hành trải nghiệm, xử lý một số tình huống trong cuộc sống với thái độ tự giác và ý
thức cao.
- Muốn đạt hiệu quả cao khi giáo dục KNS cho trẻ cần phải gắn với việc
làm, tình huống cụ thể. Vì vậy, tùy từng trò chơi, giáo viên lựa chọn, sử dụng
phương pháp giáo dục linh hoạt như: Gợi ý, hướng dẫn, nhập vai chơi cùng trẻ, tạo

tình huống khác nhau cho trẻ tự giải quyết. Tạo cơ hội cho trẻ được thực hành, trải
nghiệm nhiều vai chơi khác nhau và tiến hành lồng giáo dục KNS vào từng hành động
vui chơi cụ thể, uốn nắn kịp thời khi trẻ có biểu hiện chưa đúng. Giúp trẻ nhớ và vận
dụng hành vi đúng vào xử lý tình huống trong cuộc sống hàng ngày một cách tự ý
thức, mà không cần người lớn nhắc.
Vai trò giáo dục của giáo viên đối với trẻ là rất quan trọng nhưng quan trọng
hơn là giáo viên phải phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của trẻ. Việc
giáo dục KNS cho trẻ cần phải thực hiện kiên trì và có phương pháp giáo dục phù
hợp, tạo điều kiện để trẻ được luyện tập trong nhiều tình huống khác nhau giúp trẻ
biết cách ứng xử phù hợp với mọi người xung quanh.
Nhìn chung, vai trò giáo dục của người lớn đối với trẻ thơ là rất quan trọng
nhưng quan trọng hơn là phải phát huy tính tích cực, chủ động của trẻ trong việc
tiếp thu các nội dung giáo dục và vận dụng các kiến thức, kỹ năng học được vào
cuộc sống hàng ngày. Việc giáo dục kỹ năng sống cần thực hiện kiên trì và phải
tạo diều kiện để trẻ được tập luyện trong nhiều tình huống khác nhau. Trẻ càng
được học nhiều điều từ người lớn và những trải nghiệm từ bản thân thì càng tránh
cho trẻ nhiều nguy cơ, giúp trẻ khỏe mạnh, an toàn và phát triển tốt hơn trong bất
cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống.
Trong trường mầm non giáo viên đóng vai trò rất quan trọng trong việc dạy
KNS cho trẻ. Vì vậy, cô giáo phải là tấm gương sáng để trẻ soi vào, để trẻ học làm
người. Không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp “dùng nhân cách để
giáo dục nhân cách”. Yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ, mẫu mực
về hành vi, lời ăn tiếng nói, cách ứng xử, giải quyết vấn đề. Giáo viên cần:

17


Nghiên cứu các hoạt động nhằm tích hợp và lồng ghép nội dung giáo dục
KNS vào các hoạt động sao cho phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ.
Tạo nhiều cơ hội cho trẻ được tiếp xúc, giao tiếp với bạn, với người xung

quanh, hành vi ứng xử của giáo viên phải nhất quán để tạo thành những cảm nhận
rõ ràng, chắc chắn nơi trẻ.
Tăng cường cho trẻ được rèn luyện KNS ở lớp và ở nhà.
Giúp trẻ vận dụng các kiến thức và kỹ năng vào các tình huống trong cuộc
sống và khả năng giải quyết các tình huống đó.
Kịp thời khen ngợi và động viên trẻ khi trẻ có những biểu hiện KNS phù hợp.
Tạo điều kiện cho trẻ được quan sát, tiếp xúc thế giới xung quanh, môi
trường xã hội gần gũi và được trãi nghiệm những KNS đã học.
Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để có sự thống nhất trong việc giáo dục trẻ.
Tóm lại: Cô giáo và cha mẹ trẻ hãy bằng chính tấm gương của mình, bằng
những việc rất giản dị trong cuộc sống hàng ngày để dạy kỹ năng sống cho trẻ.
Những ý kiến đề xuất:
Các cấp lãnh đạo tạo tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn tích hợp
nội dung hình thành kỹ năng sống vào những hoạt động học và chơi hàng ngày của
trẻ cho giáo viên.
Trên đây, là sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã thực hiện với học sinh lớp tôi
và cũng đã thu được những kết quả nhất đinh. Mặc dù còn nhiều hạn chế song tôi
rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của hội đồng khoa học các cấp để đề tài
của tôi đạt kết quả cao hơn trong những năm tiếp theo!
Xin chân thành cảm ơn !
Người viết

Nguyễn Thị Minh Thu

18


IV. Hình ảnh minh họạ:

Hình 1


Hình 2

Hình 3

Hình 4

Hình 5
Bé thực hiện các thao tác rửa tay( Hình 1, 2, 3, 4, 5)
19


Hình 6

Hình 7

Hình 8

Hình 9

Bé thực hiện kỹ năng: tự đi dép, đi dép đúng chiều và cách cài quai

20


Hình 10

Hình 11

Hình 12


Hình 13

Hình 14
Hình 15
Bé thực hiện kỹ năng: Cách sử dụng kéo và cắt theo đường thẳng

21


Bé giúp cô chia thìa về bàn(Hình 16)

Hình 17

22


Hình 18

Hình 19

23


Hình 20

Hình 21

24



Hình 22

Trẻ cùng cô chăm sóc cây(Hình 23)

25


×