Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.93 KB, 28 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM
2 .1 Vai trò và đặc điểm của ngành Dệt May Việt Nam.
2 .1.1.Vai trò.
Công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn chuyển đổi của
Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Dệt may là một
phần cấu thành quan trọng trong chính sách địng hướng xuất khẩu của đất nước, và nói một cách
chung hơn, là một trong những nỗ lực của Việt Nam để hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Công nghiệp dệt may tất yếu là một trong các ngành chủ yếu xuất khẩu trong giai
đoạn đầu phát triển của các nước, xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu ngoại tệ để
mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh.
Sự thành công về xuất khẩu trong ngành này thường mở đường cho sự xuất hiện của
một chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn. Sự thất bại về xuất
khẩu của ngành này bao giờ cũng là triệu chứng của những trở ngại có tính thâm căn cố đế
trong nước và sự bất lực, không phát huy được lợi thế so sánh tiềm năng.
Quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước, trong giai đoạn phát triển dệt may thường
đóng vai trò chủ đạo, nó có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng
thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề cho phát triển các ngành công nghiệp khác, góp phần
nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội.
Ngành dệt may là ngành có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành công
nghiệp khác, khi dệt may là một trong những ngành hàng đầu của nền kinh tế nó sẽ cần
một lượng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế sẽ tạo điều kiện để
đầu tư phát triển các ngành công nghiệp này.
Tại các nước đang phát triển hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển
nông nghiệp và nông thôn qua việc sản xuất các loại nguyên liệu dệt như bông, đay, tơ tằm
và là phương tiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công
nghiệp, ở các nước công nghiệp phát triển, công nghiệp dệt may đã phát triển đến trình độ
cao hơn, dáp ững nhu cầu ngày càng cao, đa dạng, phong phú của người tiêu dùng.
2 .1.2 . Đặc điểm
Công nghiệp dệt may đã có ở Việt Nam khoảng một thế kỷ nay, còn những hoạt động
thủ công truyền thống như thêu thùa, đan lát… thì đã có từ lâu. Theo nột số tài liệu ghi


chép thì sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp dệt may này bắt đầu từ khi khu
công nghiệp dệt Nam Định được thành lập vào năm 1889. Sau chiến tranh thế giới thứ hai,
ngành công nghiệp này phát triển nhanh hơn, đặc biệt là ở miền Nam, tại đây các hãng dệt
may với máy móc hiên đại của Châu Âu đã được thành lập. Trong thời kỳ này tại miền
Bắc, các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng thiết bị Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu, cũng
đã được thành lập. Mặc dù từ những năm 1970 sau khi thực hiện công cuộc đổi mới thì thời kỳ
phát triển quan trọng hướng về xuất khẩu mới bát đầu.
Vì vậy, công nghiệp dệt may có những đặc điểm sau.
-Về tiêu thụ: Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong
những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng dệt may có những đặc trưng
riêng biệt ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán. Nghiên cứu những đặc trưng
riêng biệt của thương mại thế giới hàng dệt may là một trong những yếu tố quan trọng cần
thiết ddể tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm và đảm bảo xuất khẩu thành công trên
thị trường quốc tế. Một số đặc trưng đó là:
+Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối tượng tiêu dùng -
người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, khác nhau về khu vực
địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác… sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Nghiên cứu
thị trường để nắm vững nhu cầu tiêu dùng của từng nhóm người trong các bộ phận thị
trường khác nhau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
+Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu
dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng được nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng
của người tiêu dùng. Do đó để tiêu thụ được sản phẩm, việc am hiểu các xu hướng thời
trang là rất quan trọng.
+Vấn đề nhã mác cũng là một trong những đặc trưng nổi bật trong buôn bán hàng dệt
may trên thế giới. Mỗi nhà sản xuất cần tạo được nhãn hiệu hàng hoá của riêng mình. Nhãn
hiệu sản phẩm theo quan điểm xã hội thường là yếu tố chứng nhận chất lượng hàng hoá và
uy tín của người sản xuất, đây là vấn đề quan tâm trong chiến lược của sản phẩm vì người
tiêu dùng không chỉ tính đến giá cả mà còn rất coi trongj chất lượng sản phẩm.
+Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ. Phải căn cứ
vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trường mà cung cấp hàng hoá

cho phù hợp. Điều này cũng liên quan đến thời hạn giao hàng.
Thói quen tiêu dùng cũng là một đặc điểm cần lưu ý trong buôn bán hàng dệt may vì
nó ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề tìm thị trường tiêu thụ chio sản phẩm.
-Về sản xuất: Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, vốn
đầu tư ban đầu không quá lớn nhưng lại có tỷ lệ lãi cao. Chính vì vậy, sản xuất dệt may
thường phát triển mạnhvà có hiệu quả rất lớn đối với các nước đang phát triển và đang ở
giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, khi một nước trở thành nước công nghiệp
phát triển có trình độ công nghệ cao, sức cạnh tranh trong sản xuất hàng dệt may giảm thì
họ lại vươn tới những ngành công nghiệp khác có hàm lượng kỹ thuật cao, tốn ít lao động
và đem lại nhiều lợi nhuận. Công nghiệp dệt may lại phát huy vai trò của mình ở các nước
kém phát triển hơn. Lịch sử phát triển của ngành dệt may thế giới cũng là lịch sử chuyển
dịch của công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do sự
chuyển dịch về lợi thế so sánh. Như vậy không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại
ở những nước công nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao hơn, sản
xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Trong những năm gần đây, sản xuất dệt may của Việt Nam đã có những tiến bộ nhất
định và đang cố gắng để hoà nhập với lộ trình của ngành dệt may thế giới.
-Về thị trường: Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt
chẽ. Trước khi Hiệp định về hàng dệt may - kết quả quan trọng của vòng đàm phán
Uruguay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm dệt may được
điều chỉnh theo các thể chế thương mại đặc biệt và nhờ đó phần lớn các nước nhập khẩu
thiết lập các hạn chế số lượng để hạnh chế hang dệt may nhập khẩ. Mặt khác, mức thuế
phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so với các hàng hoá công nghiệp khác. Tất cả
những rào cản đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới.
2 .2.Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam
Theo ước tính kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 1999 có thể đạt 1650 – 1700
triệu USD, tăng 22% so với năm 1998. Với tốc độ phát triển của ngành dệt may như hiện
nay thì việc đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1900 – 2000 triệu USD vào năm 2000 là có thể trở
thành hiện thực
Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 40 nước trên thế giới

Trong đó xuất khẩu sang các nước EU chiếm 34% đến 38% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của nước ta. Trong 9 tháng đầu năm 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may tại thị trường hạn ngạch chiếm khoảng 39% tăng hơn 3% so với cùng kỳ năm ngoái,
trong đó kim ngạch sang EU chiếm tới 80% trong tổng thị trường có hạn ngạch.
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết ngày 15/12/1992
và có hiệu lực từ 1/1/1993 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phát triển ngành dệt
may nước ta, thể hiện rõ trong kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU liên tục tăng trong
giai đoạn 1993-1997 (tốc độ tăng bình quân hơn 20%/năm), tiếp đến là hiệp định buôn bán
dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1998 – 2000 được ký kết ngày 17/11/1997 cho phép
nâng hạn ngạch dệt may từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 5 năm 1993-
1997 với mức tăng trưởng 3%-6%/năm
Từ 1995 trở lại đây, trong những thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam,
loại thị trường cần hạn ngạch gồm có 10 nước, trong đó có 9 nước thuộc EU. Những nước
trong EU nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức (40%-45%), Pháp (12%-14%),
Anh (7%-9%), Hà Lan (10%-14%), Bỉ (4%-5%), Italia (6%-7%)…
Trong những năm qua, thực trạng của ngành dệt may Việt Nam được tổng hợp qua
ngững vấn đề sau:
2 .2.1 .Về sản lượng.
Số liệu có được chỉ ra rằng ngành công nghiệp dệt may chiếm khoảng 9% tổng sản
lượng công nghiệp năm 1996, thấp hơn năm 1990. Mặc dù ngành dệt may đang tăng rất
chậm, tỷ lệ ngành dẹt trong tổng sản lượng của ngành công nghiệp (6,1%) lớn hơn ngành
may (2,7%).
Ngoài ra số liệu cũng cho thấy sản lượng sợi tăng chậm, mặc dù sản lượng năm 1996
thấp hơn năm 1990, sản lượng vải thể hiện một xu hướng cũng không sáng sủa, và bắt đầu
từ năm 1993 sản lượng đã tăng lên một cách rõ rệt nhưng đến năm 1996 cũng chỉ đạt 75%
của năm 1985 và chỉ bằng 90% của năm 1990. Sản lượng ngành may tăng vững chắc hơn,
mặc dù tốc đọ tăng thấp hơn so với tỷ lệ tăng trưởng được thể hiện thông qua các số liệu
xuất khẩu (xem bảng 1)
Bảng 1: Sản lượng của ngành dệt may 1991-1997.
Mặt hàng 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997

-Số liệu về sản lượng sản phẩm.
Sợi (1000 tấn) 40 44 38 44 50 57
Vải (triệu mét) 180 272 215 228 221 281
Quần áo (triệu cái) 100 104 91 121 127 200
-Giá trị tổng sản lượng
(tỷ đồng- giá cố định)
Dệt 2.859 3.800 5.278 6.853 9.361 10518 11317
May 585 700 1.350 3.411 3.411 4.270 5.125

Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ công nghiệp.
2 .2.2 . Về loại hình sở hữu:
Đối với ngành dệt, doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 60% tổng sản lượng của
ngành năm 1996, trong khi đó doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 24% và đầu tư nước
ngoài chiếm khoảng 16% .
Ngành may, đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ tương tự là 15 %, trong khi đó doanh
nghiệp tư nhân có vị trí quan trọng hơn chiếm 49% và doanh nghiệp Nhà nước chiếm 36%
. Nét đặc trưng không bình thường của tỷ trọng chia theo loại hình sở hữu đó là khu vực tư
nhân chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong ngành dệt may của Việt Nam. Tại phần lớn các nước có
nền kinh tế thị trường , khu vực này thường chi phối ngành công nghiệp dệt may. Đồng
thời vẫn còn có sự tồn tại của bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, điều này
phản ánh dấu tích một thời của nền kinh tế kế hoạch tập trung cùng với những tính chất cũ
của chúng trong thời kỳ đổi mới. Như vậy, việc cải cách doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện
cho khu vực tư nhân phát triển một cách hiệu quả là một trong những thách thức lớn của
ngành dệt may.
2 .2.3 . Đầu tư nước ngoài :
Từ năm 1998, sau khi Việt Nam bước đầu thực hiện tự do hai chính sách về FDI, các
dự án đầu tư nước ngoài được phê duyệt tăng lên nhanh chóng. Từ năm 1993 trở lại đây,
đầu tư nước ngoài đạt trên 100 triệu USD/năm, nhưng năm 1997 và năm 1998 nguồn vốn
này đã giảm. Hình thức 100% sở hữu nước ngoài đã hấp dẫn các nhà đầu tư. Kéo sợi, dệt
vải và may mặc được coi là những bộ phận chính thu hút được nguồn vốn đầu tư nước

ngoài. Các nước và vùng lãnh thổ Đông á là những nhà đầu tư chủ yếu, trong đó lớn nhất
là Hàn Quốc, Malaysia, và Đài Loan chiếm 90% tổng đầu tư vào ngành dệt may.
Sau 10 năm ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài, tính đến cuối năm 1998, 178 dự án
dệt may được cấp giấy phép với vốn đầu tư đăng ký là 1.794,65 triệu USD, trừ 33 dự án đã
giải thể trước thời hạn còn 145 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư là 1.628,192
triệu USD. Trong đó:
+Ngành dệt: Trừ 12 dự án đã bị giải thể, ngành dệt có 61 dự án với tổng số vốn đầu
tư đăng ký là 1.47,88 triệu USD, trong đó có 30 dự án sản xuất sợi, dệt vải, dệt kim ; 10 dự
án dệt vải lớn, đầu tư đồng bộ từ sản xuất vải tới in , nhuộm hoàn tất; 3 dự án dệt tơ tằm,
lụa; 3 dự án nhuộm; 4 dự án dệt khăn bông và 11 dự án dệt len, thảm. Trong các dự án trên
có 40 dự án ( chiếm 66% so với tổng số dự án ) đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư
1.431,11 triệu USD, gồm 5 dự án đang xây dựng cơ bản và 35 dự án đã đưa vào hoạt
động .
Về hình thức đầu tư, số dự án 100% vốn nước ngoài có xu hướng tăng lên trong
những năm gần đây, trong khi số dự án theo hình thức hợp tác kinh doanh trền cơ sở hợp
đồng giảm đi.
Nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là Hàn Quốc với 16 trong 40 dự án đang hoạt
động và tổng số vốn đầu tư lên tới677,268 triệu USD; Malaysia – 4dự án với tổng số vốn
đầu tư 477,134 triệu USD, Đài Loan 11 dự án với số vốn đầu tư 137,162 triệu USD, các dự
án dệt phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam – 37 trong tổng số 40 dự án đang hoạt động,
trong đó Thành phố Hồ Chí Minh 13 dự án với vốn đầu tư 723,429 triệu USD, và Đồng
Nai- 9dự án với vốn đầu tư 735,875 triệu USD.
Ngành may mặc : trừ 21 dự án đang xây dựng cơ bản, 47 dự án đã đi vào sản xuất,
còn lại đang làm thủ tục xây dựng cơ bản.
Ngành may không có hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng mà chỉ theo
hai hình thức – Liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Với ưu thế đầu tư của 17 nước, trong
đó có Đài Loan đứng đầu với 23 dự án với tổng số vốn đầu tư 56,43 triệu USD, Hàn Quốc
14 dự án với tổng số vốn đầu tư là 21,843 triệu USD, Nhật Bản 10 dự án với tổng số vốn
đầu tư 20,374 triệu USD, Hồng Kông 11 dự án với số vốn đầu tư 19, 206 triệu USD, Đức 4
dự án với vốn đầu tư 29,058 triệu USD.

Các dự án may cũng nằm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, trong đó thành phố Hồ Chí
Minh đứng đầu với 40 dự án với tổng số vốn đầu tư 104, 397 triệu USD; Đồng Nai 12 dự
án với tổng số vốn đầu tư 36,679 triệu USD; Bình Dương 8 dự án với số vốn đầu tư 16,2
triệu USD. . .
2 .2.4 Về thiết bị
Ngành dệt hiện có 868.000 cọc sợi, cả sợi bông và sợi pha (bông pha với xơ PE) với
chỉ số Nm (Chỉ số Quốc tế ) tử sợi Nm10 đến Nm102 bao gồm cả sợi chải kỹ, 43200 máy
dệt, trong đó các xí nghiệp Quốc doanh T.W quản lý 11000 máy, xí nghiệp Quốc doanh địa
phương - 3200 máy và Hợp tác xã tư nhân 29000 máy, các thiết bị nhuộm hoàn tất có thể
nhuộm 450 m / năm với các loại vải từ nguyên liệu dệt khác nhau và các công nghệ nhuộm
cũng như công nghệ in hoa khác nhau, các thiết bị dệt kim có thể sản xuất 20900 tấn sản
phẩm / năm, bao gồm 19500 tấn dệt kim tròn / năm và 1400 tấn dệt kim dọc/năm .
Tuy nhiên, phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và sự thiếu đồng bộ giữa
các khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi phần lớn lại là máy dệt thoi khổ hẹp,
chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng nhu cầu thị trường … Về thiết bị kéo sợi
cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất lượng bình quân thấp chỉ có khoảng
26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp dây chuyền nhuộm
hoàn tất cũng đã lạc hậu phần lớn là thiết bị khổ hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc
nhuộm, dẫn đến chi phí cao.
Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng,
nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy 8322 của Đức
đến JUKI của Nhật Bản và FFAP của CHLB Đức. Số máy chuyên dùng cũng tăng lên đáng
kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và của chủng loại mặt hangf như máy vắt năm chỉ,
máy thùa đính, trần dầy pasant, may cạp bốn kim, bàn là treo, bàn là hơi có đệm hút chân
không ... Trong từng công đoạn sản xuất may cũng được trong bị thêm máy mọc mới với
tính năng công dụng mới nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm
trên mỗi công đoạn của chu trình sản xuất.
Về công nghệ:
Trong một số năm gần đây đã có một số dây chuyền kéo sợi mới, sử dụng công nghệ
bông chải liên hợp tự động cao, các máy ghép tự động khống chế chất lượng, ứng dụng các

kỹ thuật vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và kiểm tra chất lượng sợi, trong
khâu dệt vải bông, nhờ sử dụng các thiết bị xe, hấp, giảm trọng lượng... nhiều sản phẩm giả
tơ, giả len, sản phẩm từ microfiber đã bắt đầu dc sản xuất và tạo uy tín trên thị trường:
trong khâu dệt kim, do phần lớn máy móc được nhập chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Đức... thuộc thế hệ mới, nhiều chủng loại đã được trang bị Computer đạt năng suất
chất lượng cao, tính năng sử dụng rộng, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao
tương xứng nên mặt hàng còn đơn điệu, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Trong lĩnh vực may, công nghệ đã có những chuyển biến khá kịp thời. Các dây
chuyền may được bố trí vừa và nhỏ ( 25-26 máy ) , sử dụng 34-38 lao động cơ động nhanh
và có nhân viên kiểm tra thường xuyên, có khả năng chấn chỉnh sai xót ngay cũng như thay
đổi mã hàng nhanh. Khâu hoàn tất được trang bị các thiết bị là hết diện tích, đóng túi, súng
bắn nhãn, máy dò kim... Công nghệ tin học đã được đưa vào một số khâu thiết kế ở một số
công ty lớn.
2 .2.5 Về lương
Đầu những năm 1990 mức lương trong ngành công nghiệp dệt là một trong những
mức lương thấp nhất ở các nước Châu á . Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ lương ở Việt Nam đã
tăng (lương trung bình là 58USD / tháng ), cao hơn Trung Quốc. Gần đây, sự giảm giá của
một số đồng tiền tại Đông Nam Á làm cho mức lương của một số nước trở nên thấp hơn
mức lương của Việt Nam, đặc biệt năm 1998 mức lương của Inđônêxia thấp hơn một nửa
mức lương của Việt Nam.
Bảng 2: Trả lương theo lao động: USD/Năm
Năm Việt
Nam
Trung
Quốc
Inđônêxia Malaixia Hàn
Quốc
Đài
Loan
Singapore

1992 210 - 720 2.970 8730 10380 8610
1993 340 - 730 3.100 9590 10710 8820
1994 370 420 760 3.440 10550 10960 9990
1995 450 500 930 3.810 12930 11620 11190
1996 550 540 940 3.990 11270 11460 11430
1997 650 550 980 3.840 11230 11120 10890
1998 690 570 330 2.780 7820 10260 10210
Bảng 3: Giá trị gia tăng theo lao động (giá so sánh-USD)
Năm Việt
Nam
Trung
Quốc
Inđônêxia Malaixia Hàn
Quốc
Đài
Loan
Singapore
1992 520 1400 3000 6800 24100 21600 14060
1993 570 2260 3600 7260 24090 22300 13960
1994 990 1580 4600 8750 29900 20000 14840
1995 1380 1490 3900 9890 37870 20300 16230
1996 1720 1490 4000 10450 37210 22500 16270
1997 1720 1650 3700 10700 33160 22900 16190
1998 1770 1760 1100 7980 20510 21100 15560
Nguồn: Ước tính của các chuyên gia dự án
2 .2 .6. Về năng suất
năng suất trong ngành dệt may Việt Nam được tính bằng giá trị gia tăng theo lao động
là rất thấp trong đầu những năm 1990 so với các nước trong nghiên cứu (xem bảng 3), đặc
biệt so với Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, những trong những năm gần đây, giá trị gia
tăng theo lao động đã đuổi kịp Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng tài chính làm thay đổi giá

trị gia tăng tính theo USD trong năm 1997 và 1998, đặc biệt đối với Inđônêxia, năng suất
lao động được tính giá trị gia tăng theo lao động bằng USD đã giảm đột ngột.
Chỉ số về chi phí cho một lao động có thể được xem như là đại diện cạnh tranh quốc
tế về chi phí. Chỉ số này của Việt Nam cao hơn so với Trung Quốc, Iđônêxia, Malaixia và
Hàn Quốc, nó chỉ ra rằng ngành dệt của Việt Nam cạnh tranh thấp hơn so với các nước đã
nói trên.
2 .2 .7 về xuất khẩu và thị trường xuất khẩu
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, giá trị xuất khẩu của ngành dệt may vẫn tăng lên
mạnh mẽ, điều này một lần nữa lại cho thấymối liên quan chặt chẽ giữa cải cách kinh tế
với kết quả xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 43 triệu USD trong năm 1988 lên 1,3
tỷ USD vào năm 1996 (bảng 4). Tuy điểm khởi đầu của ngành là rất nhỏ bé nhưng những

×