Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐANG THỰC HIỆN Ở HÀ TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.32 KB, 34 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG
MẠI VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐANG THỰC
HIỆN Ở HÀ TÂY.
I) MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN VỀ TỈNH HÀ TÂY.
Hà Tây trước đây là một phần của tỉnh Hà Sơn Bình. Năm 1991 đến đầu
năm 1992 Hà Sơn Bình tách thành Hà Tây và Hoà Bình
Hà Tây có diện tích tự nhiên 2.192,95 Km
2
bao gồm 14 huyện, thị xã trong
đó Hà Đông là tỉnh lỵ. Toàn tỉnh có 24 phường và 300 xã.
Tính đến hết năm 2000:
+ Dân số Hà Tây là 2.423.000 người, đứng thứ bảy so với toàn quốc. Hà Tây
có 3 dân tộc khác nhau trong đó dân tộc kinh chiếm tỷ lệ 99%.
+ Lao động ở trong độ tuổi 1276.300 người chiếm 52,55% dân số.
+ Công nhân viên chức địa phương quản lý khoảng 48.200 người.
+ Tổng sản phẩm GDP theo giá thực tế: 7540 tỷ đồng.
Cơ cấu GDP theo ngành:
• Công nghiệp& xây dựng cơ bản: 2.304.000.000 đồng chiếm 30,5%
• Nông-lâm-thuỷ sản: 3090 tỷ đồng chiếm 41%
• Thương mại dịch vụ: 2146 tỷ đồng chiếm 28,5%
Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế:
• Ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 79%
• Khu vực Nhà nước chiếm 21%
+Tốc độ tăng GDP bình quân 1996-2000 khoảng 7,2% năm cao hơn cẩ nước
(6,8%). GDP bình quân đầu người năm 1996 khoảng 2 triệu đồng, năm 2000 đạt
gần 3,112 triệu đồng tương ứng với trên 200 USD nhưng chỉ bằng 60% mức bình
quân của cả nước.
+ Ngành nông lâm nghiệp và thuỷ sản: Giá trị sản xuất nông nghiệp thời kỳ
1996-2000 của tỉnh tăng với tốc độ 8,1% năm. Năm 2000 đạt khoảng 3285 tỷ đồng
(theo giá cố định năm 1994) tăng gần 709 tỷ đồng so với năm 1996. Bình quân


lương thực trong 4 năm qua hàng năm tăng 3,22%, sản lượng lương thực bình
quân/ người năm 1999 đạt 414 kg/người. Ngành trồng trọt chiếm tỷ trọng cao, năm
1999 đạt trên 68% về giá trị sản lượng. Ngành trồng trọt có nhiều sản phẩm có thể
xuất khẩu được, các thế mạnh của sản phẩm trồng trọt là:
• Sản lượng thóc năm 2000 đạt khoảng 877.000 tấn.
• Sản lượng mầu năm 2000 đạt khoảng 123.000 tấn.
• Sản lượng ngô: 70080 tấn quy thóc.
• Sản lượng lạc: 5400 tấn quy thóc.
• Sản lượng đậu tương: 17.800 tấn quy thóc.
• Cây mía đạt: 15.000 tấn.
Ngành trồng trọt không những đáp ứng đủ lương thực cho nhu cầu của nhân
dân trong tỉnh mà còn dư thừa cho xuất khẩu. Lương thực của Hà Tây có chất
lượng khá cao do làm tốt khâu chọn giống, chăm sóc dưới sự chỉ đạo khá sâu sát
của các cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp ở địa phương.
Ngành chăn nuôi từng bước phát triển đa dạng để trở thành ngành chính.
Năm 1999 ngành chăn nuôi chiếm tỷ trọng gần 30% của Nông nghiệp với nhiều
sản phẩm như:
• Đàn trâu: 34000 con.
• Đàn bò : 94000 con.
• Đàn lợn : 900.000 con.
• Thịt lợn xuất chuồng: 75.000 tấn.
• Gia cầm : 77.000.000 con.
Ngành chăn nuôi đã tạo ra nhiều nguyên liệu cho các ngành chế biến thực
phẩm, đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân trong và ngoài tỉnh, dư thừa cho xuất
khẩu.
+ Ngành công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp có bước tăng trưởng đáng kể so
với năm 1996 với mức tăng trưởng bình quân hàng năm 16% (1996-2000). Giá trị
sản lượng của các ngành năm 2000 là :
• Khối doanh nghiệp Nhà nước trung ương: 184,5 tỷ đồng.
• Khối doanh nghiệp Nhà nước địa phương : 264 tỷ đồng.

• Ngoài Nhà nước : 1558,5 tỷ đồng.
• Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: 990 tỷ đồng.
Các sản phẩm chính của ngành là đá các loại, bia, vỏ đồ hộp, vỏ bao bì, chè
khô, quần áo may sẵn, đồ chơi trẻ em. Hà Tây là tỉnh có nhiều làng nghề thủ công
nhất nước (106 làng nghề ) với nhiều sản phẩm làm ra nổi tiếng trong cả nước như
tơ lụa Hà Đông, sản phẩm rèn Đa Sĩ, nón chuông, khảm trai Phú Xuyên, Sơn mài
mỹ nghệ Thường Tín... Giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp của các làng nghề ở
một số huyện trong tỉnh rất cao như Hoài Đức, Phú Xuyên, Thường Tín, Thanh
Oai, Hà Đông... Các làng nghề phát triển tạo điều kiện cho xuất khẩu phát triển,
giải quyết công ăn việc làm, thu hút vốn nhàn rỗi,... của nhân dân vào sản xuất, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn... Các sản phẩm công nghiệp của Hà
Tây còn gặp khó khăn về thị trường mặt hàng, sản phẩm. Các cơ sở công nghiệp
còn nhỏ bé, trình độ công nghệ lạc hậu chưa đủ sức cạnh tranh mạnh trên thị
trường.
+ Đời sống văn hoá-xã hội của nhân dân trong tỉnh được chú trọng. Các hoạt
động văn hoá thông tin có nhiều tiến bộ trong việc giữ gìn truyền thống lịch sử,
bản sắc văn hoá dân tộc. Công tác y tế có nhiều thành tựu đến nay 100% số xã có
cơ sở y tế. Năm 2000 theo thống kê trung bình đã có trên 9,5 bác sĩ/ vạn dân, 16,6
giường bệnh/vạn dân. Công tác kế hoạch hoá gia đình được duy trì tốt năm 2000tỷ
lệ sinh giảm, tỷ lệ tăng tự nhiên giảm. Số hộ xem truyền hình đạt 80%. Công tác
triển khai xoá đói giảm nghèo đã triển khai có hiệu quả hơn. Công tác giáo dục,
đào tạo có nhiều tiến bộ, số học sinh phổ thông năm 1999-2000 tăng 1%, 12/14
huyện thị được công nhận đạt tiêu chuẩn phổ cập THCS.
+ Hà Tây là tỉnh có nhiều tiềm năng về du lịch, với nhiều di tích lịch sử văn
hoá (nhiều chỉ sau Hà Nội và Thành phố HCM ) gắn liền với lịch sử phát triển của
dân tộc. Hà Tây có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Chùa Hương, Chùa
Thầy, Đồng mô,... Hàng năm lượng khách đến với Hà Tây không phải nhỏ. Đây là
điều kiện để du lịch và hoạt động thương mại Hà Tây phát triển.
+ Hà Tây có hệ thống cơ sở hạ tầng khá tốt so với một số tỉnh khác
* Về giao thông: Hà Tây chỉ có 20% đường tốt, 40% đường trung bình, 50%

đường xấu. Hà Tây có cả đường sông, đường thuỷ, đường sắt, đường bộ và hàng
không. Đường sắt có tổng chiều dài khoảng 42,5km, đường thuỷ gồm các tuyến
sông do trung ương quản lý dài khoảng 148km, địa phương quản lý dài 7km. Có
các cảng Sơn Tây, Hồng Vân, Vạn Điểm (thuộc Sông Hồng), Vân Đình, Tế Tiêu
(Thuộc sông Đáy). Hà Tây có hai sân bay: Hoà Lạc, Miếu Môn, hiện các sân bay
này thuộc bộ quốc phòng quản lý. Trong tương lai dự kiến xây dựng Hoà Lạc
thành sân bay du lịch và xây dựng Miếu Môn thành sân bay Quốc tế.
* Về thông tin liên lạc: Trang bị máy điện thoại tính đến hết năm 1999 có
100% số xã có điện thoại và 1,59 máy/ 100 dân.
* Về điện lưới: Tính đến hết năm 2000 tỉnh đã có 100% số xã được sử dụng
điện lưới quốc gia với tổng số hộ nông thôn sử dụng điện chiếm khoảng 98,6%
tổng số hộ của toàn tỉnh.
Trong thời gian tới từ 2001 đến 2005 Hà Tây sẽ:
+ Nắm bắt và tranh thủ những đIều kiện thuận lợi nhất để phát triển kinh tế
với tốc độ cao và bền vững, phấn đấu đạt mức bình quân chung của cả nước vào
năm 2010.
+ Tận dụng những cơ hội để phát triển mạnh kinh tế đối ngoại, phát triển
kinh tế theo hướng “mở cửa và hướng ngoại”. Hà Tây phấn đấu đạt kinh ngạch
xuất khẩu so với năm 2000 vào năm 2005 tăng gấp 1,5-2 lần và vào năm 2010 gấp
3-4 lần.
+ Từng bước nâng cao đời sống và mức thu nhập của dân cư, phấn đấu vào
năm 2010 cơ bản không còn hộ nghèo.
+ Từng bước tăng cường văn hoá giáo dục, y tế, và giải quyết các vấn đề xã
hội khác theo tinh thần nghị quyết trung ương V khoá VIII của Đảng nhằm cải
thiện đời sống tinh thần của nhân dân.
+ Giai đoạn 2001-2005 Hà Tây cố gắng đạt:
* GDP của tỉnh tăng với tốc độ 8%/ một năm với giá trị GDP theo giá hiện
hành đạt trên dưới 15.000 tỷ đồng với cơ cấu GDP, NN-CN&XDCB-TMDV lần
lượt tương ứng là 35%-35%-30%.
* GDP/ người là 5,01 triệu đồng theo giá hiện hành.

*Kinh ngạch xuất khẩu đạt 70-80 triệu USD.
* Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt trên 1 triệu tấn. Giá trị sản xuất
nông nghiệp tăng bình quân 4,5-5% một năm.
* Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân trên 12% một năm.
+ Giai đoạn 2005-2010:
* Nhịp tăng trưởng GDP: 9-12% một năm.
* Cơ cấu kinh tế NN-CN&XDCB-TMDV: 23%-40%-37%.
* GDP/ người một năm đạt: 940 USD.
* Lương thực quy thóc: 12-13 triệu tấn năm 2010, đưa ngành rau quả thành
ngành chính để cung cấp cho Hà Nội và các khu công nghiệp.
* Giá trị sản lượng công nghiệp tăng từ 11-11,5%, hình thành và xây dựng
các khu công nghiệp và 17 cụm công nghiệp trên địa bàn.
* Du lịch cố gắng thu hút 2,5 triệu lượt khách trong đó khách quốc tế
khoảng 450-500 nghìn lượt. Hình thành các cụm du lịch Hà Tây.
* Phấn đấu đến 2010 đường quốc lộ đi qua tỉnh100% bê tông nhựa, các tỉnh
lộ được được trải nhựa hoặc đá dăm nhựa đạt tỷ lệ 50%.
* Phấn đấu đến năm 2005 có 5,6 máy điện thoại / 100 dân, năm 2010 co 7,5
máy điện thại/ 100 dân.
Tóm lại Hà Tây là tỉnh có nhiều tiềm năng về nguồn nhân lực, đất đai và tài
nguyên. Nhân dân Hà Tây có tri thức khá cao có đời sống tinh thần phong phú đa
dạng. Kinh tế Hà Tây những năm qua phát triển khá tốt, mọi hàng hoá đều có sản
lượng khá cao đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nhân dân trong tỉnh về hàng hoá đó
đồng thời còn dư thừa cho xuất khẩu. Nông nghiệp của tỉnh có nhiều thành tựu, các
mặt hàng chủ yếu của nông nghiệp có mức sản lượng cao, chất lượng khá, phục vụ
khá tốt cho hoạt động thương mại. Nguồn hàng hoá của nông nghiệp phong phú đa
dạng. Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng khá, đã tạo ra nhiều
sản phẩm phục vụ sản xuất và tiêu dùng nội tỉnh và xuất khẩu. Nhu cầu và sức mua
của nhân dân trong tỉnh chưa được cao, còn thấp, các nhu cầu chủ yếu vẫn tập
trung vào hàng hoá thiết yếu phục vụ cho tiêu dùng và sản xuất. Tuy vậy nhu cầu
này khá lớn và đa dạng đây là yếu tố thuận lợi cho việc phát triển hoạt động

thương mại. Hàng hoá của tỉnh sản xuất ra tuy nhiều nhưng chất lượng chưa cao và
giá thành khó cạnh tranh. Thị trường vẫn là điều khó khăn nhất của sản phẩm của
tỉnh. Tỉnh cũng có nhu cầu rất lớn về một số mặt hàng như nguyên nhiên vật liệu
cho sản xuất, hàng công nghiệp tiêu dùng, máy móc trang thiết bị, khoa học kỹ
thuật... phục vụ cho sản xuất. Trong giai đoạn tới hàng hoá của tỉnh làm ra ngày
càng nhiều, nhu cầu về các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng ngày càng tăng do
vậy vấn đề thị trường ngày càng trở lên quan trọng và cấp bách. Phát triển hoạt
động thương mại trong thưòi gian tới là tất yếu đối với Hà Tây vì hoạt động
thương mại phát triển sẽ giải quyết vấn đề thị trường cho các hoạt động khác...mà
vấn đề thị trường là vấn đề then chốt cho phát triển kinh tế ở Hà Tây hiện nay.
II) MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN VỀ SỞ THƯƠNG MẠI HÀ TÂY
1) Quá trình lịch sử hình thành và phát triển của sở.
Ngày 14/3/1951 chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Sở Mậu Dịch. Sau
ba tháng người lại ký sắc lệnh thành lập các chi Sở mậu dịch ở ba tỉnh Hà Đông,
Sơn Tây, Hoà Bình. Đây là tiền thân của Sở thương mại và du lịch Hà Sơn Bình và
Sở Thương Mại Hà Tây ngày nay. Sau khi thành lập ba chi Sở đã đi vào hoạt động
và có những đóng góp quan trọng cho việc kháng chiến của nhân dân ta. Thời kỳ
chiến tranh chống Pháp mặc dù địch càn quét phá hoại nhưng đội ngũ cán bộ của
Sở vẫn bám trụ, tổ chức kinh doanh và cung cấp những mặt hàng thiết yếu cho
quân đội và các cơ quan, nhân dân, chuẩn bị các mặt hàng để phục vụ các chiến
dịch lớn. Mạng lưới thương nghiệp của ba tỉnh cũ ở vùng địch hậu vẫn phát triển.
Thời kỳ hoà bình lập lại (1958-1960) ba chi Sở trở thành ba Ty thương nghiệp trực
thuộc ba tỉnh, trực thuộc Ty có các công ty chuyên doanh. Mạng lưới thương
nghiệp được củng cố và phát triển phục vụ nhân dân các hàng hoá thiết yếu quan
trọng, phục vụ đủ nguyên, nhiên vật liệu cho hoạt động công nông nghiệp. Thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ (1961-1975) ba Ty vẫn tiếp tục hoạt động tốt, phục vụ đắc
lực cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và kháng chiến chống mỹ.
Mạng lưới thương nghiệp phát triển nhanh với số lượng lớn các cửa hàng công ty,
HTXMB. Đội ngũ cán bộ của Ty tăng nhanh về số lượng, chất lượng, lao động
ngày càng được nâng cao. Từ 1975 đến trước 1986 ba Ty thương nghiệp đã tập

trung củng cố mạng lưới thương nghiệp, Mạng lưới HTXMB, hạn chế rất tốt sự
phát triển của tư thương, cung cấp đầy đủ các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân,
quân đội và phục vụ cho hoạt động sản xuất công nông nghiệp. Từ 1986 đến 1991
Sở thương mại du lịch Hà Sơn Bình được thành lập. Sở đã chỉ đạo các công ty
chuyển đổi cơ chế kinh doanh làm ăn cho phù hợp với chủ trương của Đảng, thị
trường hàng hoá của tỉnh đã có bước phát triển mới. Thương nghiệp Nhà nước dần
mất đi vai trò chủ đạo, thay vào đó là sự phát triển của tư thương. Chức năng và
nhiệm vụ của Sở thay đổi căn bản, tương đối giống như ngày nay. Sở không còn
trực tiếp can thiệp vào thị trường và các công ty nữa mà thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước về thương mại. Từ cuối năm 1991 đầu năm 1992 tỉnh Hà Sơn Bình
tách thành Hà Tây và Hoà Bình, Sở thương mại du lịch Hà Tây được thành lập với
chức năng và nhiệm vụ cơ bản giống như ngày nay. Năm 1994 do yêu cầu của phát
triển kinh tế Sở thương mại du lịch Hà Tây tách thành Sở thương mại và Sở du lịch
Hà Tây. Hoạt động của Sở giống như ngày nay.
Lịch sử hình thành và phát triển của Sở là lịch sử hào hùng vẻ vang. Từ khi
thành lập đến nay Sở đã có đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế nói chung
và hoạt động thương mại nói riêng của tỉnh.
2) Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Sở Thương Mại Hà Tây.
2.1) Chức năng: Sở Thương Mại Hà Tây là cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh Hà Tây, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thương
mại trên địa bàn tỉnh theo quy định cuả pháp luật.
2.2) Nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Thương Mại Hà Tây.
2.2.1) Về công tác quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thị trường.
+ Lập quy hoạch, kế hoạch về phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh trình
UBND tỉnh phê duyệt. Căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt, xây dựng
các đề án, chương trình, phát triển thương mại cụ thể của tỉnh trình UBND tỉnh phê
duyệt và tổ chức thực hiện các đề án, chương trình đó.
+ Xét hoặc tham gia xét duyệt các chương trình, đề án của tỉnh có liên quan
đến thương mại.
+ Duyệt kế hoạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

trên đại bàn tỉnh theo uỷ quyền của bộ thương mại và UBND tỉnh.
+ Tổ chức thực hiện và giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thương
mại.
+ Tiến hành tổ chức khảo sát và nghiên cứu thị trường trong và ngoài tỉnh,
thị trường nước ngoài để phục vụ công tác phát triển thương mại của tỉnh.
+ Tổng hợp và xử lý các thông tin về thị trường trên địa bàn tỉnh về tổng
mức lưu chuyển hàng hoá, tổng cung, tổng cầu và mức dự trữ lưu thông các mặt
hàng thiết yếu, các mặt hàng thuộc diện chính sách đối với đồng bào dân tộc miền
núi, kinh ngạch xuất nhập khẩu...
+ Trên cơ sở cân đối cung cầu hàng hoá trên địa bàn tỉnh phối hợp với các
sở quản lý ngành khác chỉ đạo các doanh nghiệp hoạt động thương mại trên địa bàn
tỉnh thực hiện việc cung ứng các mặt hàng thiết yếu, các mặt hàng thuộc diện chính
sách để đảm bảo nhu cầu thị trương trong tỉnh, góp phần bình ổn, thực hiện chính
sách thương mại ưu đãi đối với miền núi, dân tộc theo quy định của pháp luật.
+ Cung cấp thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, các cơ quan Nhà nước có liên quan.
2.2.2) Về công tác phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện pháp luật về thương
mại.
+ Trình UBND tỉnh ban hành các văn bản theo thẩm quyền để cụ thể hoá các
văn bản quy phạm pháp luật về thương mại.
+ Ban hành các văn bản hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ đối với các hoạt
động thương mại trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.
+ Kiến nghị UBND tỉnh và các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi hoặc ổ xung
các quy điịnh có liên quan đến hoạt động thương mại.
+ Phổ biến hướng dẫn giáo dục pháp luật thương mại đối với thương nhân
trên địa bàn tỉnh để đảm baỏ việc thực hiện đúng quy định của pháp luật về thương
mại.
+ Chủ trì cùng các sở, ban ngành có liên quan hướng dẫn tiêu dùng họp lý,
tiết kiệm.
+ Cấp giấy phép kinh doanh giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối

với thương nhân kinh doanh hàng hoá dịch vụ thương mại.
+ Thực hiện việc đăng ký thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh của
thương nhân Việt Nam trên địa bàn tỉnh.
+ Thực hiện việc đăng ký thành lập văn phòng địa diện chi nhánh ở nước
ngoài cho các doanh nghiệp hoạt động thương mại đặt trụ sở chính trên địa bàn
tỉnh.
+ Thực hiện việc đăng ký hoạt động cho văn phòng đại diện, chi nhánh của
thương nhân nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
+ Thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về HTX thương mại dịch vụ
thương mại trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.
+ Quản lý hoạt động xúc tiến thương mại trên địa bàn tỉnh.
+ Thực hiện các nhiệm vụ mà Bộ thương mại đã phân cấp hoặc uỷ quyền
cho UBND tỉnh, hoặc các nhiệm vụ khác về thương mại do UBND tỉnh giao và
theo quy định của pháp luật.
2.2.3) Về công tác thanh kiểm tra kiểm soát thị trường.
+ Chỉ đạo cơ quan kiểm kiểm soát thị trường thuộc Sở theo quy định của
pháp luật.
+ Chỉ đạo cơ quan kiểm tra, kiểm soát thị trường thuộc Sở phối hợp với các
lực lượng chức năng khác trên địa bàn tỉnh trong việc kiểm tra kiểm soát thị trường
nhằm thực hiện các nhiệm vụ đấu tranh chống buôn lậu, buôn bán hàng quốc cấm,
hàng giả, hàng kém chất lượng, đầu cơ lũng đoạn thị trường kinh doanh trái phép,
gian lận thương mại và các hành vi khác vi phạm pháp luật thương mại trên địa
bàn tỉnh.
+ Giám sát, kiểm tra việc thi hành pháp luật của văn phòng địa diện, chi
nhánh của thương nhân Việt Nam, thương nhân nước ngoài trên địa bàn tỉnh và xử
lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
+ Chủ trì hoặc tham gia giải quyết có liên quan đến lĩnh vực quản lý về
thương mại.
2.2.4) Về công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có đăng ký kinh
doanh thương mại trên địa bàn tỉnh.

Đối với các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh thương mại được UBND tỉnh
giao cho Sở thực hiện quyền sở hữu.
+ Trình UBND tỉnh quyết định thành lập, sát nhập, giải thể, tổ chức lại, bán,
khoán, cho thuê, cổ phần hoá doanh nghiệp.
+ Trình UBND tỉnh quyết định việc phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ và định
hướng kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm cảu doanh nghiệp.
+ Trình UBND tỉnh quyết đinh bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh
Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng doanh nghiệp.
+ Phối hợp với cơ quan quản lý Nhà nước về tài chính doanh nghiệp trong
việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp.
+ Phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền giám sát, kiểm tra phương án tiền
lương, tiền thưởng của doanh nghiệp.
+ Phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền xem xét và đề nghị UBND tỉnh
quyết định cử người quản lý phần vốn của Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ
phần hoá mà Nhà nước có cổ phần chi phối, hoặc cổ phần đặc biệt.
+ Phối hợp với các cơ quan có liên quan kiểm tra, hướng dẫn, giám sát việc
thực hiện các chế độ, quyền lợi của người lao động theo quy định của bộ luật lao
động và quy định của pháp luật.
+ Giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm
của doanh nghiệp.
+ Yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện chế độ báo cáo thống kê, tình hình
hoạt động thương mại và các mặt công tác khác theo quy định của Tổng cục thống
kê, Bộ thương mại và các cơ quan hữu quan khác.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước có hoạt động thương mại thuộc tỉnh do các
Sở chuyên ngành khác quản lý.
+ Phối hợp với Sở quản lý chuyên ngành trình UBND tỉnh quyết định việc
phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ và định hướng kế hoạch kinh doanh hàng năm của
doanh nghiệp.
+ Phối hợp với Sở quản lý ngành giám sát, kiểm tra việc thực hiệ kế hoạch
kinh doanh hàng năm của doanh nghiệp.

+ Yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện chế độ báo cáo tình hình hoạt động
thương mại theo quy định của Bộ thương mại và các cơ quan hữu quan khác.
Đối với doanh nghiệp TW đóng trên địa bàn tỉnh và doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác đăng ký kinh doanh thương mại tại tỉnh.
+ Yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện chế độ báo cáo thống kê và tình hình
hoạt động thương mại theo quy định của Bộ thương mại và các cơ quan hữu quan
khác.
2.2.5) Về công tác đào tạo.
+ Căn cứ vào nhu cầu và xu hướng phát triển thương mại của tỉnh lập quy
hoạch, kế hoạch đào tạo cán bộ làm công tác thương mại cho tỉnh.
+ Tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
... cho cán bộ công chức thuộc Sở quản lý và doanh nghiệp hoạt động thương mại
trên địa bàn tỉnh.
2.2.6) Thực hiện các công tác và nhiệm vụ khác do Tỉnh uỷ và UBND tỉnh giao cho.
2.2.7) Chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ quản lý Nhà nước về thương mại
đối với các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại ở cấp huyện, thị xã trong tỉnh.
3) Tổ chức của Sở Thương Mại Hà Tây.
Sở bao gồm :
+ Giám đốc, các Phó giám đốc.
+ Các phòng chuyên môn giúp việc : 4 phòng.
+ Các đơn vị trực thuộc:
*Các doanh nghiệp trực thuộc: 16 doanh nghiệp.
*Chi cục quản lí thị trường.
3.1) Giám đốc là người điều hành mọi công việc của Sở, là người có quyền quyết
định cao nhất, chịu trách nhiệm cao nhất về công việc của Sở trước UBND tỉnh.
Các phó giám đốc là người giúp việc cho Giám đốc, được Giám đốc phân công
phụ trách một số lĩnh vực công việc cụ thể, chịu trách nhiệm trước Giám đốc về
lĩnh vực công việc được phân công.
3.2) Phòng tổ chức, phòng hành chính: là tổ chức tham mưu giúp Giám đốc Sở
thực hiện chức năng quản lý công tác cán bộ, hành chính, quản trị thuộc thẩm

quyền của Giám đốc Sở.
3.3) Phòng kế hoạch tổng hợp: là phòng giúp Giám đốc Sở thực hiện chức năng
quản lý công tác quy hoạch, kế hoạch thống kê và thông tin thương mại, các hoạt
động xúc tiến thương mại, quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và xây dựng cơ bản
thuộc thẩm quyền của Giám đốc Sở.
3.4) Phòng quản lý hành chính thương mại: là phòng tham mưu giúp Giám đốc
Sở thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về cơ chế , chính sách Nhà nước có liên
quan đến hoạt động thương mại trên địa bàn.
3.5) Thanh tra Sở: giúp Giám đốc Sở công tác thanh tra, kiểm tra , kiểm soát việc
thực hiện pháp luật thương mại của các doanh nghiệp, thương nhân trên địa bàn,
giải quyết các đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân đối với cán bộ thuộc thẩm
quyền quản lý của Sở.
3.6) Chi cục quản lý thị trường: là cơ quan giúp Giám đốc Sở thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu
tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại trên địa bàn.
III) NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA TỈNH HÀ TÂY
Hà Tây giáp Hà Nội, Hà Nam, Hoà Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, là tỉnh thuộc
vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, là tỉnh án ngữ giữa Hà Nội các tỉnh vùng
ĐBSH, Đông Bắc với vùng Tây Bắc do vậy hàng hoá ra vào tỉnh phong phú đa
dạng vì hàng hoá các tỉnh cung cấp cho vùng Tây Bắc phải đi qua Hà Tây. Điều
này rất thuận lợi cho tỉnh phát triển các loại hình dịch vụ thương mại gắn liền với
lưu thông hàng hoá. Ngoài ra tỉnh cũng có lợi thế hơn các tỉnh khác trong việc
cung cấp các hàng hoá cho vùng Tây Bắc vì ở gần hơn chi phí vận chuyển rẻ hơn.
Hà Tây giáp Hà Nội đây vừa là thuận lợi vừa là khó khăn. Bởi vì Hà Nội là thủ đô
của cả nước, là trung tâm kinh tế-chính trị-văn hoá-khoa học kỹ thuật của cả nước.
Hà Nội có điều kiện phát triển thương mại, là nơi tiêu dùng hàng hoá nông sản
thực phẩm, nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất tiêu dùng rất lớn. Đây là một thị
trường rất hấp dẫn và là nơi tiêu thụ rất nhiều sản phẩm của các tỉnh. Hà Tây gần
Hà Nội nên có lợi thế hơn các tỉnh khác trong việc cung cấp hàng hoá nhất là hàng

nông sản, thực phẩm đồng thời cũng dễ dàng mua các hàng hoá phục vụ tiêu dùng
và sản xuất của nhân dân trong tỉnh và phục vụ cho xuất nhập khẩu. Điều này
khiến cho hoạt động thương mại của tỉnh phát triển. Tuy nhiên đây cũng là một
thách thức lớn đối với các hàng hoá của Hà Tây bởi gần nơi có hàng hoá nhiều và
có khả năng cạnh tranh cao do vậy hàng hoá của tỉnh rất có thể sẽ thua ngay trên
sân nhà và mất thị trường trong tỉnh nhất là các hàng hoá công nghiệp, hàng công
nghệ và một số hàng khác. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thương mại
Hà Tây.
Hà Tây có nhiều đường giao thông quan trọng của cả nước đi qua như
đường quốc lộ số 1,6,32..., có cả đường hàng không, đường sắt, đường thuỷ nên
giao thông thuận tiện hàng hoá lưu thông dễ dàng. Điều này sẽ khiến cho hoạt
động thương mại phát triển vì hàng hoá các tỉnh miền nam, miền trung, vùng Tây
Bắc sẽ qua Hà Tây vào Hà Nội và các tỉnh khác, cạnh các con đường sẽ là các cửa
hàng, điểm mua bán, điểm dịch vụ... sầm uất.
Kinh tế Hà Tây mười năm qua liên tục phát triển, hàng hoá làm ra ngày càng
nhiều về số lượng, chủng loại hàng, chất lượng được nâng cao dần. Đây là điều
kiện để phát triển thương mại vì có hàng hoá mới có thể tiến hành hoạt động
thương mại được.
Nhân dân trong tỉnh có truyền thống tốt đẹp, có thói quen tiêu dùng không
cầu kỳ, giữa các vùng dân cư rất hoà thuận... điều này sẽ khiến cho lưu thông hàng
hoá dễ dàng hoạt động thương mại diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên mức thu nhập của
dân cư còn thấp nhu cầu chưa cao sẽ khiến cho hoạt động thương mại bị hạn chế.
Thương nhân Hà Tây mấy năm gần đây tuy phát triển nhanh về số lượng
nhưng trình độ còn nhiều hạn chế, nhận thức tư tưởng chưa có tầm chiến lược. Đây
là một khó khăn đối với hoạt động thương mại của Hà Tây.
IV) THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI HÀ TÂY.
1) Thực trạng GDP thương mại dịch vụ.
Trong các năm qua GDP thương mại dịch vụ của tỉnh liên tục tăng trưởng, tỷ
trọng ngày càng cao trong GDP toàn tỉnh. Giai đoạn 1991-1996 tỷ trọng GDP
thương mại dịch vụ so với GDP của tỉnh dao động trong khoảng 4,6%-5,6% trong

khi mức bình quân của cả nước là 12,8%-13,8%. GDP thương mại so với GDP
dịch vụ nói chung cũng chiếm tỷ lệ thấp (15%-21% ) so với mức trung bình chung
cả nước (31%-36,5% ). Điều đó chứng tỏ sự đóng góp của hoạt động thương mại
vào tổng GDP của tỉnh còn rất nhỏ chưa xứng với tiềm năng và lợi thế so sánh về
thương mại của tỉnh. Giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng GDP TMDV khoảng 8,8%/
năm cao hơn tốc độ tăng GDP của tỉnh (7,3% ). Năm 2000 GDP dịch vụ bằng
khoảng 152% so với nó năm 1995. Năm 1998 GDP TM chiếm khoảng 26,45%
GDP dịch vụ, khoảng 7,26% GDP của tỉnh. NHìn chung GDP TM đã có mức tăng
trưởng khá hơn (khoảng 12%/ năm ) chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP của
tỉnh. Điều đó cho thấy hoạt động thương mại đã có bước tiến bộ so với thời kỳ
trước nhưng so với yêu cầu thì vẫn còn chưa đạt. Hoạt động thương mại chưa khai
thác hết tiềm năng và lợi thế về thương mại của tỉnh, còn nhiều yếu kém trong
khâu tổ chức mạng lưới, tìm kiếm và khai thác thị trường .
2) Thực trạng tình hình lưu chuyển hàng hoá xã hội.
Năm 2000 tổng mức lưu chuyển hàng hoá xã hội (LCHHXH) cả tỉnh đạt
5372 tỷ đồng tăng 10% so với năm 1999, trong đó LCHH bán lẻ là 2780 tỷ đồng
tăng 11,6% so với năm 1999. Khu vực kinh tế trong nước đóng góp phần lớn trong
tổng mức LCHHXH và LCHH bán lẻ, trong đó kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng
khá cả bán buôn và bán lẻ. Theo Sở Thương Mại Hà Tây và Cục Thống Kê tỉnh thì
tình hình LCHHXH tỉnh thời kỳ qua năm sau đều tăng hơn năm trước, tỷ trọng
kinh tế Nhà nước trong tổng mức LCHHXH đều chiếm khoảng 25-27%. Có thể
thấy thực trạng mức LCHHXH của tỉnh qua bảng:
(Đơn vị tính: Tỷ đồng)
STT
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng mức LCHHXH
1672,6 1797,7 2066 2489 2780
I Phân theo TPKT
1 Kinh tế Nhà nước 453,3 488,1 523 657 810,8
2 Kinh tế tập thể 11 13 16,6

3 Kinh tế tư nhân cá thể 129,3 1395,6 1511,5 1796 1916,9
4 Kinh tế hỗn hợp 20,7 23 40,5
II Phân theo NKT
1 Thương mại 812,9 850,9 1161 1398 1699,2
2 Khách sạn nhà hàng 153,3 162,5 270 325 430
3 Dịch vụ 100,9 120,1 63 76 6
4 Sản xuất trực tiếp bán 605,4 664,2 571 699 609,1
Nguồn: Sở Thương Mại & Cục Thống Kê tỉnh Hà Tây.
3) Thực trạng tình hình lưu thông hàng hoá ra vào tỉnh Hà Tây.
Trong các năm qua hàng hoá ra vào tỉnh Hà Tây phần lớn được vận chuyển
bằng đường bộ theo các quốc lộ 1, 6, 32,...Do Hà Tây là tỉnh nông nghiệp, hàng
công nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ nhu cầu hàng hoá tiêu dùng trên địa bàn không lớn
nên khối lượng hàng hoá lưu thông ra vào địa bàn còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với
các tỉnh trong vùng và cả nước. Tuy nhiên khối lượng hàng hoá lưu thông qua địa
bàn Hà Tây chủ yếu giữa Hà Nội và các vùng trong cả nước chiếm tỷ trọng rất lớn.
Đây là một thuận lợi lớn cho tỉnh để phát triển các loại hình dịch vụ thương mại
cho khách vãng lai.
Hàng hóa ra khỏi tỉnh Hà Tây chủ yếu là hàng nông sản, thựuc phẩm, một số
hàng công nghiệp như máy kéo, vật liệu xây dựng, hàng dệt may, mây tre đan...
Các hàng hoá này được tiêu thụ ở nước ngoài và các tỉnh vùng đồng bằng sông
Hồng (chủ yếu là Hà Nội), vùng Đông Bắc, Tây Bắc. Nhìn chung sản phẩm của
tỉnh bước đầu đã phát triển cả về số lượng chủng loại... nhưng khâu tổ chức khai
thác thị trường còn hạn chế.
Hàng hoá vào tỉnh Hà Tây chủ yếu là vật tư, nguyên nhiên liệu cho sản xuất,
hàng công nghiệp tiêu dùng, thực phẩm công nghệ, hàng tư liệu sản xuất,... Nguồn
cung cấp chủ yếu cho tỉnh là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và
một số tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng. Ngoài ra một số tỉnh vùng Tây Bắc, vùng
Đông Bắc cũng cung cấp cho tỉnh một số nguyên nhiên vật liệu, lâm sản, khoáng

×