Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA GIỐNG CHÓ BẢN ĐỊA DẠNG SÓI (CANIS FAMILIARIS FABRICIUS) TRONG CÔNG TÁC HUẤN LUYỆN CHÓ TÌM KIẾM, PHÁT HIỆN BOM MÌN TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.02 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------

Ngô Quang Đức

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA GIỐNG
CHÓ BẢN ĐỊA DẠNG SÓI (CANIS FAMILIARIS FABRICIUS)
TRONG CÔNG TÁC HUẤN LUYỆN CHÓ TÌM KIẾM, PHÁT
HIỆN BOM MÌN TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ: ĐỘNG VẬT HỌC

Hà Nội – 2019


BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------

Ngô Quang Đức


NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA GIỐNG
CHÓ BẢN ĐỊA DẠNG SÓI (CANIS FAMILIARIS FABRICIUS)
TRONG CÔNG TÁC HUẤN LUYỆN CHÓ TÌM KIẾM, PHÁT
HIỆN BOM MÌN TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 8420103
LUẬN VĂN THẠC SĨ: ĐỘNG VẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
Hướng dẫn 1: TS. Bùi Xuân Phương……………
Hướng dẫn 2: TS. Ngô Xuân Tường…………….

Hà Nội - 2019


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ này là do tự bản thân tôi thu thập được,
các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực,
khách quan. Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả

Ngô Quang Đức


ii


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã
được sự quan tâm, giúp đỡ của người thân, thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và
các cơ quan, đơn vị. Tôi vô cùng biết ơn tất cả những sự giúp đỡ nhiệt tình đó!
Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS. Bùi Xuân
Phương, Phó Viện trưởng Viện Sinh thái Nhiệt đới/Trung tâm Nhiệt đới ViệtNga, TS. Ngô Xuân Tường Trưởng phòng Động vật học có xương sống, Viện
Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật/Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam người thầy đã tận tâm hướng dẫn, động viên, hỗ trợ truyền thụ và bồi
dưỡng kiến thức chuyên môn trong suốt quá trình học tập và thực hiện nội
dung nghiên cứu của Luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo Khoa Sinh thái và Tài
nguyên Sinh vật, Học viện Khoa học và Công nghệ đã đã quan tâm và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn Ban lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, các đồng chí,
đồng nghiệp làm việc tại Viện Sinh thái Nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt –
Nga/Bộ Quốc phòng, Trường Trung cấp 24 Biên phòng/Bộ Tư lệnh Bộ đội
Biên phòng đã quan tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho chúng tôi thực
hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin được bảy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, người
thân, bạn bè, những người luôn động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu cũng như hoàn thành luận văn này

Hà Nội, tháng năm 2019
Học viên

Ngô Quang Đức


iii


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
CV

: Hệ số biến động

Max

: Giá trị lớn nhất

Mean

: Trung bình mẫu

Min

: Giá trị nhỏ nhất

n

: Số lượng mẫu

P

: Sắc xuất của FA

SE

: Sai số trung bình mẫu



iv

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thang điểm đánh giá khả năng tìm kiếm, phát hiện bom mìn của chó.31
Bảng 3.1. Các dạng màu lông của giống chó bản địa dạng sói.......................32
Bảng 3.2. Các dạng kiểu tai của giống chó bản địa dạng sói………………..34
Bảng 3.3. Một số chỉ số hình thái của giống chó bản địa dạng sói….............35
Bảng 3.4. Một số chỉ tiêu sinh sản của giống chó bản địa dạng sói................36
Bảng 3.5. Khả năng thị giác của giống chó bản địa dạng sói giai đoạn chó choai...39
Bảng 3.6. Khả năng thị giác của giống chó bản địa dạng sói giai đoạn trưởng
thành...............................................................................................................................40
Bảng 3.7. Khả năng thị giác của giống chó bản địa dạng sói giai đoạn chó
trưởng thành theo tính biệt.................................................................................41
Bảng 3.8. Khả năng thính giác của giống chó bản địa dạng sói giai đoạn chó
choai....................................................................................................................42
Bảng 3.9. Khả năng thính giác giống chó bản địa dạng sói ở giai đoạn trưởng
thành................................................................................................................43
Bảng 3.10. Khả năng thính giác của giống chó bản địa dạng sói ở giai đoạn
trưởng thành theo tính biệt..............................................................................44
Bảng 3.11. Khả năng khứu giác của giống chó bản địa dạng sói giai đoạn chó
choai ở thời điểm 3 tháng tuổi..................................................................................46
Bảng 3.12. Khả năng khứu giác của giống chó bản địa dạng sói giai đoạn chó
trưởng thành ở thời điểm 9 tháng tuổi...............................................................47
Bảng 3.13. Khả năng khứu giác của giống chó bản địa dạng sói giai đoạn chó
trưởng thành tại thời điểm 9 tháng tuổi theo tính biệt.......................................48


v

Bảng 3.14. Tính trạng trội hành vi của giống chó bản địa dạng sói...............50

Bảng 3.15. Tỷ lệ các dạng thần kinh của giống chó bản địa dạng sói............51
Bảng 3.16. Kết quả huấn luyện giống chó bản địa dạng sói tìm kiếm, phát
hiện bom mìn..................................................................................................52


vi

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Minh họa một số phép đo được thực hiện trên chó…....................20
Hình 3.1. Giống chó bản địa dạng sói màu xám............................................33
Hình 3.2. Các dạng kiểu tai của giống chó bản địa dạng sói.........................33


vii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................i
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT......................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG...............................................................................iv
DANH MỤC CÁC HÌNH................................................................................vi
MỤC LỤC.......................................................................................................vii
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU...........................................................4
1.1. ĐẶC ĐIỂM LOÀI CHÓ NHÀ...............................................................4
1.1.1. Vị trí phân loại của chó nhà ........................................................................ 4
1.1.2. Đặc điểm hình thái chung của chó nhà ...................................................... 4
1.1.3. Đặc điểm của các cơ quan giác quan ......................................................... 7
1.1.4. Cơ chế tập tính của động vật....................................................................... 9
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ CHÓ BẢN ĐỊA VIỆT NAM................12

1.2.1. Đặc điểm các giống chó bản địa Việt Nam .............................................12
1.2.2. Tình hình nuôi dạy chó nghiệp vụ ở Việt Nam.......................................15
1.3. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CHÓ TÌM KIẾM, PHÁT HIỆN BOM MÌN..16
1.3.1. Tình hình sử dụng chó tìm kiếm, phát hiện bom mìn trên thế giới .........16
1.3.2. Tình hình sử dụng chó trong tìm kiếm bom mìn tại Việt Nam .............17
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...............19
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU..............................................................19
2.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU......................................19
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.........................................................19
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh sản của giống chó
bản địa dạng sói ....................................................................................................19
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm phát triển các cơ quan giác quan của
giống chó bản địa dạng sói ..................................................................................21
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm các tính trạng trội hành vi và thần
kinh của giống chó bản địa dạng sói...................................................................25


viii

2.3.4. Nghiên cứu khả năng tìm kiếm, phát hiện bom mìn của giống chó bản
địa dạng sói. ..........................................................................................................28
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN..................................................32
3.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI, SINH SẢN CỦA GIỐNG CHÓ
BẢN ĐỊA DẠNG SÓI.................................................................................32
3.1.1. Các dạng màu lông của giống chó bản địa dạng sói...............................32
3.1.2. Các dạng kiểu tai của giống chó bản địa dạng sói ..................................33
3.1.3. Chỉ số hình thái của giống chó bản địa dạng sói .....................................34
3.1.4. Đặc điểm sinh sản của giống chó bản địa dạng sói trong điều kiện nuôi
nhốt ........................................................................................................................36
3.2. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN CÁC CƠ QUAN GIÁC QUAN CỦA

GIỐNG CHÓ BẢN ĐỊA DẠNG SÓI..........................................................38
3.2.1. Đặc điểm thị giác giống chó bản địa dạng sói.........................................38
3.2.2 Đặc điểm thính giác của giống chó bản địa dạng sói ..............................41
3.2.3. Đặc điểm khứu giác của giống chó bản địa dạng sói giai đoạn chó choai
và chó trưởng thành ..............................................................................................45
3.3. ĐẶC ĐIỂM TÍNH TRẠNG TRỘI HÀNH VI VÀ THẦN KINH CỦA
GIỐNG CHÓ BẢN ĐỊA DẠNG SÓI..........................................................49
3.3.1. Đặc điểm tính trạng trội hành vi của giống chó bản địa dạng sói .........49
3.3.2. Các dạng thần kinh của giống chó bản địa dạng sói...............................50
3.4. KHẢ NĂNG TÌM KIẾM, PHÁT HIỆN BOM MÌN CỦA GIỐNG
CHÓ BẢN ĐỊA DẠNG SÓI........................................................................51
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................53
4.1. KẾT LUẬN...........................................................................................53
4.2. KIẾN NGHỊ..........................................................................................54
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................55
PHỤ LỤC 1..................................................................................................58
PHỤ LỤC 2..................................................................................................64
PHỤ LỤC 3..................................................................................................67
PHỤ LỤC 4..................................................................................................70
PHỤ LỤC 5..................................................................................................74
PHỤ LỤC 6 .................................................................................................77


1

MỞ ĐẦU
Trải qua nhiều năm chiến tranh, đất đai và con người Việt Nam đã bị
ảnh hưởng nặng nề bởi số lượng bom mìn, đạn dược. Theo số liệu tổng kết,
riêng số bom, đạn quân đội Mỹ đã sử dụng ở Việt Nam khoảng 15.350.000
tấn. Hiện nay, tỷ lệ bom đạn chưa nổ chiếm khoảng 5% số lượng bom đạn đã

sử dụng [1]. Tổng diện tích đất bị ô nhiễm bom mìn lên tới 6,6 triệu ha, chiếm
khoảng 20% diện tích cả nước. Điều này không chỉ gây nhiều khó khăn trong
sản xuất và đời sống của người dân, mà còn cản trở sự phát triển kinh tế - xã
hội. Bom mìn sót lại sau chiến tranh còn gây ra nhiều thương vong và tổn thất
cho người dân và gánh nặng cho xã hội. Theo thống kê chưa đầy đủ: Cả nước
đã có 42.132 người bị chết và 62.163 người bị thương, do bom mìn sót lại sau
chiến tranh gây ra. Trung bình mỗi năm bom mìn sót lại sau chiến tranh đã
cướp đi tính mạng của 1.535 người và 2.272 người khác phải mang thương tật
suốt đời [2].
Trước yêu cầu cấp thiết của thực tế, việc triển khai thực hiện công tác
rà phá bom mìn sau chiến tranh tại Việt Nam đòi hỏi phải được đầu tư nghiên
cứu về phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện nhằm nâng cao năng suất,
hiệu quả và an toàn, đẩy nhanh tiến độ khắc phục bom mìn sau chiến tranh
phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trên thế giới, việc sử dụng chó nghiệp vụ trong tìm kiếm phát hiện
bom mìn đã được thực hiện từ lâu và cho thấy những ưu điểm của phương
pháp này. Chó tìm kiếm phát hiện bom mìn nhanh hơn, diện tích tìm kiếm lớn
hơn, và đặc biệt là tránh thương vong rất lớn cho người trong công tác rà phá
bom mìn.
Ở Việt Nam hiện nay, việc sử dụng chó vào công tác nghiệp vụ tìm
kiếm và phát hiện chất nổ nói chung và tìm kiếm và phát hiện bom mìn nói
riêng còn chưa được chú trọng. Ngay tại các Trung tâm huấn luyện nghiệp vụ
lớn của cả nước là Cục Cảnh sát quản lý, huấn luyện và sử dụng động vật
nghiệp vụ (K204)/Bộ Công An và Trường Trung cấp 24 Biên Phòng/Bộ Tư
lệnh Biên phòng mới chỉ dừng ở việc đào tạo cơ bản chó trong tìm kiếm các


2

chất nổ thông thường. Số lượng cũng như chủng loại chó sử dụng trong

nghiệp vụ này còn thiếu và ít so với yêu cầu của nhiệm vụ. Các giống chó
thường được sử dụng chủ yếu vẫn là những giống nhập nội như Cooker,
Labrado, Becgie và gần đây là giống Malinois. Việc lựa chọn giống chó bản
địa phục vụ công tác tìm kiếm bom mìn sau chiến tranh là một nhu cần cấp
thiết hiện nay ở Việt Nam.
Để làm cơ sở cho việc lựa chọn, nhân giống, huấn luyện giống chó bản
địa dạng sói tìm kiếm, phát hiện bom mìn còn lại sau chiến tranh tại Việt
Nam, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh
học của giống chó bản địa dạng sói (Canis familiaris Fabricius) trong công
tác huấn luyện chó tìm kiếm, phát hiện bom mìn tại Việt Nam”.
Ghi chú: Giống ở đây là đối tượng vật nuôi gọi theo ngôn ngữ chăn nuôi
Mục đích của đề tài
- Xác định được các đặc điểm về hình thái, sinh sản của giống chó bản
địa dạng sói;
- Xác định được đặc điểm phát triển của các cơ quan giác quan phục vụ
cho việc chọn chó bản địa dạng sói phục vụ huấn luyện tìm kiếm, phát hiện bom
mìn;
- Đánh giá được đặc điểm các tính trạng trội hành vi và thần kinh của
giống chó bản địa dạng sói phục vụ cho việc chọn chó bản địa dạng sói phục
vụ huấn luyện tìm kiếm, phát hiện bom mìn;
- Bước đầu đánh giá được khả năng tìm kiếm, phát hiện bom mìn của
giống chó bản địa dạng sói.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Kết quả của đề tài làm cơ sở khoa học cho những
nghiên cứu tiếp theo, đồng thời đưa ra cái nhìn khái quát về giống chó bản địa
dạng sói, giúp hiểu được một số đặc điểm về hình thái, sinh học, đặc điểm về
tập tính của chúng, từ đó thấy được khả năng huấn luyện nghiệp vụ của giống
chó này và có những nghiên cứu hữu ích khác phục vụ cho nhu cầu của con
người và xã hội.



3

Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài sẽ làm cơ sở, phương pháp luận
cho công tác huấn luyện chó nghiệp vụ nói chung, huấn luyện chó bản địa nói
riêng. Góp phần xây dựng và hoàn thiện các quy trình chọn, nhân giống và
huấn luyện chó nghiệp vụ.


4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐẶC ĐIỂM LOÀI CHÓ NHÀ
1.1.1. Vị trí phân loại của chó nhà
Chó nhà thuộc lớp thú (Mammalia), thuộc bộ Ăn thịt (Carnivora).
Những đại diện của bộ này sống ở khắp các lục địa, ngoại trừ Nam cực.
Những loài bản địa không có ở Úc và trên những đảo của đại dương. Chó nhà
phổ biến trên khắp thế giới. Nguồn gốc của các loài ăn thịt ghi nhận được từ
các loài ăn côn trùng nguyên thủy ở kỷ nguyên phấn trắng. Hiện nay, bộ ăn
thịt có khoảng 13 họ và 270 loài còn tồn tại [3,4].
Tuy nhiên, chó nhà thường không được động vật học coi là đối tượng
nghiên cứu chính như một đơn vị loài mà chúng thường là đối tượng nghiên
cứu trong các lĩnh vực dịch tễ, bệnh tật hay ở một khía cạnh về mặt xã hội
[5,6].
Họ chó phổ biến rất rộng ở khắp nơi: Cả khu vực Âu - Á, Châu Phi,
Châu Mỹ, Trung Mỹ về phía nam đến tận Costa Rica. Chúng sống ở tất cả các
sinh cảnh khác nhau, từ đầm lầy tới xa mạc và núi cao. Theo tính chất dinh
dưỡng là động vật ăn thịt song nguồn thức ăn của họ chó rất đa dạng và phong
phú bao gồm cả thực vật và động vật.
1.1.2. Đặc điểm hình thái chung của chó nhà

Khái niệm ngoại hình của chó là toàn bộ cơ thể thống nhất của nó, song
để cho dễ quan sát người ta thường quan sát ngoại hình thông qua bốn phần
chính: Ngoại hình của đầu, cổ, thân và các chi. Trong mỗi phần người ta lại
chia thành những mục khác nhau.
Ngoại hình đầu: Xương sọ và xương hàm là phần chính của đầu. Đầu
được phân chia thành những phần sau đây: gáy cùng với bờm gáy, đỉnh đầu,
tai, trán; ở phần mõm có: mắt, sống mũi, đỉnh mũi, má, hàm trên và hàm dưới,
môi mồm và răng.
Về hình dáng đầu thường có hình tròn, hình nhọn (chóp), hình vuông
và hình chữ nhật. Mõm có thể là mõm ngắn, mõm bình thường và mõm dài,


5

chiều dài của mõm được thể hiện bằng tỷ lệ chiều dài mõm so với chiều dài
của trán. Mõm còn có kiểu hình khác nhau như: thẳng, hóp, hếch.
Tai, hình dáng và chiều dài của tai rất khác nhau và phụ thuộc vào sự
phát triển của sụn vành tai. Phân loại tai thành tai đứng, tai chúc, tai cụp và
còn tai xẻ (nhân tạo).
Mắt biểu thị đặc tính theo màu sắc, hình dáng, khe mắt, chiều sâu và
chiều rộng của hố mắt, độ mỏng và độ khô của mí mắt.
Mõm và răng, hình dạng của mõm phụ thuộc vào sự phát triển của hàm
và môi. Mõm của loại chó to có 42 răng ổn định. Trong số đó có 12 răng cửa,
4 răng nanh và 26 răng hàm. Ở hàm dưới số răng hàm nhiều hơn ở hàm trên là
2 chiếc. Được thể hiện cụ thể ở công thức tính số răng của chó: M= (R3/3C1/1-Rm4/4-M2/3) x 2 = 42.
Môi, môi khô phác họa rõ mồm và môi ướt và xốp thường có nếp nhăn
ở hai bên mép (gọi là môi dày).
Ngoại hình của cổ: người ta chia phần cổ gồm 7 đốt sống. Chiều dài
của cổ phụ thuộc vào chiều dài thân các đốt sống. Để xác định chiều dài của
cổ người ta so sánh cổ với chiều dài của đầu. Cổ gồm có những phần sau đây:

họng cổ, mang cổ và sống cổ. Độ uốn nếp và trễ của da ở khu vực cổ gọi là
“yếm cổ”. Chó có cổ ngắn, to có nhiều nếp nhăn ở bờm, biểu thị sự “sung
sức” của nó.
Góc cổ so với mình gọi là khuỷu cổ. Khuỷu cổ có góc đẹp nhất là 45
độ, nếu góc lớn hơn hoặc nhỏ hơn sẽ tạo thành khuỷu cổ cao hơn hoặc thấp
hơn.
Ngoại hình của mình: Mình chó được chia thành những phần sau đây:
bướu vai, lưng, eo lưng, mông, đuôi, ngực và lồng ngực, bụng bẹn. Ở chó đực
là phần thịt thừa ở chó cái là phần vú.
Bướu vai: là phần mình được giới hạn ở phía trước là cổ, ở phía sau là
lưng, ở hai bên là hai bả vai. Cơ sở của bướu vai là 4 – 5 mấu có ngạnh của
đốt sống ngực.


6

Lưng: là phần mình giữa bướu vai và thắt lưng, bên phải và bên trái
được giới hạn bằng rẻo sườn của lồng ngực, nó bao gồm khoảng 8 – 9 đốt
sống lưng và những đoạn trên của xương sườn lưng được đánh giá theo chiều
rộng, chiều dài và hình dáng.
Eo lưng: là phần mình bị giới hạn bởi lưng ở phía trước, bởi mông ở
phía sau và ở hai bên vùng bẹn. Phần eo lưng gồm bảy đốt sống của eo lưng
có mấu thẳng đứng và nằm ngang.
Đánh giá eo lưng cũng giống như đánh giá lưng. Eo lưng võng thường
được gọi là eo xệ. Chó có eo lưng ngắn, rộng và hơi vồng lên là eo lưng đẹp.
Mông: là phần mình bị giới hạn phía trước bởi eo lưng ở phía sau là
đuôi và hai bên là đùi. Xương chậu và xương cùng nằm ở phần mông. Khi
đánh giá mông cần chú ý đến chiều rộng và chiều dài, độ tròn và đường chóp
của nó. Mông thường có các dạng như sau: rộng, hẹp, dài, ngắn, phẳng, tròn,
thẳng, xệ, hếch và “mông treo”. Chó có loại mông tương đối rộng (đặc biệt là

chó cái), dài, tròn và hơi xệ là loài chó tốt.
Đuôi: đuôi gồm 20 – 22 đốt sống đuôi xét theo chiều dài, thì đuôi có
loại dài, loại ngắn loại ngắn nhân tạo. Xét về mặt hình dáng, người ta phân
loại thành: đuôi thẳng, đuôi hình lưỡi câu, hình vành khuyên, hình thanh
kiếm, hình lưỡi liềm và hình xoắn ốc.
Ngực và lồng ngực được đánh giá theo chiều rộng, chiều dài, chiều sâu,
thể tích và hình dáng. Lồng ngực thường có dáng phẳng, ô van cụt, hình thùng
(ống). Đối với tất cả các giống chó cần phải có lồng ngực rộng, tương đối sâu
và dài.
Chiều rộng ngực được đo ở phía trước, giữa các khớp vai, chiều sâu
được đo theo đường thẳng đứng (đường dây dọi) ngay phía sau hai chân
trước, tính từ bướu vai xuống đến xương ngực, đo vòng ngực bằng thước dây
ngay sau chân trước (nách).
Bụng: là phần có thành bụng mềm, đoạn từ xương sườn cụt đến xương
chậu. Về hình dáng, bụng có dạng thon đều, béo mỡ và xệ. Đối với tất cả các
giống chó cần có dáng bụng thon đều mới tốt.


7

Ngoại hình của chi: Chi được đánh giá theo hình dáng, độ nở nang, cơ
bắp và độ mở của các góc khớp.
Chi ngực (chi trước), gồm xương bả vai, vai, khuỷu, cẳng chân, cổ
chân, khớp đốt bàn chân và bàn chân.
Tư thế đứng của chó được coi là đúng, trong trường hợp nếu các chi
được đặt thẳng lên mặt đất, song song với nhau và mở ra bằng chiều rộng của
ngực. Bàn chân có hình vòm các ngón chân kín sát nhau và áp sát mặt đất.
Các góc khớp mở như sau: khớp vai 90 – 100 độ, khớp khuỷu 120 – 130 độ.
Chi sau gồm đùi, gối, cẳng chân, khớp gối, xương bàn chân và bàn chân.
Khi nhìn từ phía sau các chi sau phải song song với nhau, có các góc của đốt

khớp như sau: góc đùi khoảng 80 – 85 độ, góc mỏ khớp gối 125 – 135 độ.
1.1.3. Đặc điểm của các cơ quan giác quan
Các cơ quan cảm giác cấu tạo một cách đặc biệt để tiếp nhận kích thích
đưa đến từ môi trường bên ngoài và từ chính cơ thể. Các cơ quan này làm cho
động vật có khả năng tiếp xúc được với môi trường xung quanh và thích ứng
được đối với môi trường. Các cơ quan cảm giác cấu tạo bởi các cơ quan thụ
cảm, các đường dẫn ở vùng ngoại biên và các trung tâm ở vỏ bộ não. Trong
cơ thể chia thành các cơ quan phân tích như sau: Thị giác, khứu giác, thính
giác, vị giác và xúc giác.
* Cơ quan thị giác
Các các quan phân tích thị giác cho khả năng thu nhận thế giới bên
ngoài một cách rõ ràng. Cơ quan phân tích thị giác được cấu tạo từ nhãn cầu,
các cơ quan phù trợ và bảo vệ, các đường thần kinh dẫn tuyến và trung tâm
thần kinh tại vỏ não.
Nhãn cầu được cấu tạo từ 3 lớp (màng trắng, màng mạch và võng mạc),
từ môi trường khúc xạ ánh sáng (nhãn mắt), thuỷ tinh thể, dịch nhãn cầu, các
mạch máu và dây thần kinh.
Màng mắt trong của mắt hay võng mạc có cấu trúc rất phức tạp và là bộ
phận chủ yếu của mắt. Ở võng mạc diễn ra sự biến đổi kích thích ánh sáng


8

sang quá trình kích thích thần kinh. Võng mạc được cấu tạo bởi các tế bào
cảm thụ ánh sáng (tế bào hình nón và tế bào hình que), đó là các cơ quan thụ
cảm thị giác. Đối với các cơ quan thụ cảm thị giác khi ánh sáng tác động lên
chúng thì làm xuất hiện xung đột hần kinh. Các xung đột thần kinh này theo
dây thần kinh thị giác được chuyền đến trung ương thị giác nằm ở thuỳ chẩm
của não bộ.
Thị giác của chó có những đặc thù riêng của nó. Chó không có khả

năng nhìn thấy vật cùng một lúc bằng hai mắt, nghĩa là mỗi mắt của chó có thị
trường của mình. Như phần lớn động vật có vú, chó là bị mù màu hay còn gọi
là lưỡng sắc biến dị và có tầm nhìn về màu xanh và đỏ tương đương với
những người bị mù màu. Bởi vậy chó chó thể nhìn thấy màu xanh lam và màu
vàng nhưng khó để phân biệt giữa màu xanh lá cây và màu đỏ bởi vì chó chỉ
có hai loại tế bào hình nón trong khi đó ở người có ba loại tế bào này và chó
sử dụng màu sắc thay vì ánh sáng để phân biệt ánh sáng hoặc màu xanh lam
màu vàng. Chó ít nhạy cảm với sự khác biệt về sắc thái màu xám hơn con
người và cũng có thể phát hiện độ sáng ở mức khoảng một nửa độ chính xác
của con người.
* Cơ quan khứu giác
Các cơ quan thụ cảm khứu giác nằm ở các biểu mô khứu giác, sâu
trong đường ống trên ở mũi. Ở chó vùng khứu giác rộng khoảng 250 đến 400
mm2, và do 125 đến 224 triệu tế bào khứu giác tạo thành. Mỗi 1 tế bào lại có
vô số lông mao rất nhỏ, nhờ đó mà khả năng nhạy cảm khứu giác của chó
được tăng lên nhiều lần.
Sự nhạy cảm cao đối với các chất có trong không khí: là tính chất nổi
bật của các tế bào cơ quan thụ cảm khứu giác. Người ta đã chứng minh được
chó có thể phát hiện được 1 phân tử hơi trong 1 lít không khí, và có thể tiếp
nhận được 1 phân tử hơi trong 1 lít nước. Các phân tử hơi từ không khí thâm
nhập vào vùng khứu giác, tiếp xúc với các lông mao của tế bào thụ cảm và
gây nên sự khử cực mạnh của các nơ-ron thần kinh khứu giác. Nơ-ron đã
được khử cực này sinh ra các xung động hưng phấn có cường độ tần số, biên
độ và thời hạn nhất định trong dây thần kinh khứu giác. Sự phối hợp các xung


9

động hưng phấn của các dây nền dây chằng rộng khác nhau, mạng thông tin
về mùi hơi đến các tế bào thần kinh hành khứu giác và trung tâm thần kinh

khu khứu giác thùy thái dương của vỏ não.
Trong khi ở não người, vùng vỏ não chi phối thị giác lớn thì ở chó vùng
vỏ não chi phối khứu giác lớn hơn, thùy khứu giác của chó gồ gề gấp 40 lần
so với ở người với 125 đến 220 triệu tế bào thụ cảm ở những giống chó săn
thì vượt quá tiêu chuẩn với gần 300 triệu thụ thể. Bởi vậy chó nói chung có cơ
quan khứu giác nhạy hơn 100000 – 1000000 lần so với con người. Với mũi
luôn ẩm ướt bởi dịch mũi giúp chó định hướng mùi tốt hơn trong không khí.
Nhờ có cơ quan phân tích khứu giác mà chó có thể xác định được nồng
độ và cường độ của mùi hơi, mùi hơi mới hay cũ (độ lâu). Người ta đã chứng
minh được rằng: Chó có thể phân biệt được các nguồn hơi theo độ lâu với độ
chênh lệch nhau trong khoảng từ 3 – 5 phút. Còn trí nhớ nguồn hơi của chó có
thể cho phép phân biệt được các nguồn hơi giống nhau. Các phản xạ có điều
kiện đối với mọi tính chất mùi hơi đều có thể dễ dàng được hình thành ở chó,
điều này cho phép ta có thể huấn luyện và sử dụng thành công chó nghiệp vụ
về lĩnh vực giám định nguồn hơi và truy vết.
* Cơ quan thính giác
Cơ quan thính giác là tai. Tai được cấu tạo bởi phần tai ngoài, tai giữa
và tai trong. Cơ quan thính giác của chó có khả năng thu nhận dải tần số
khoảng 40 Hz đến 60.000Hz, có nghĩa là chó có thể phát hiện âm thanh vượt
xa giới hạn của con người. Ngoài ra tai chó có thể cử động cho phép chó
nhanh chóng xác định vị trí của một âm thanh, có khoảng hơn 18 cơ giúp chó
điều khiển tai như nghiêng, xoay, nâng lên, hạ xuống.
Chó có cơ quan thính giác rất nhạy cảm, điều này được sử dụng trong
việc tập luyện (phát lệnh bằng giọng nói). Lệnh do giọng nói của người phát
ra đối với chó chỉ là kích thích âm thanh. Chó có thể phân biệt khẩu lệnh theo
cường độ và ngữ điệu của nó.
1.1.4. Cơ chế tập tính của động vật


10


* Cơ sở sinh học của tập tính động vật:
Cơ chế hình thành, điều khiển tập tính động vật chính là cơ chế hoạt
động của hệ thần kinh, gồm các cơ quan tiếp nhận cảm giác trong, ngoài, cơ
quan vận động và cơ quan điều khiển. Mỗi hoạt động bất kì của cơ chế đều là
một phần của tập tính động vật. Để một hoạt động thực hiện, cơ chế cần có cơ
quan tiếp nhận cảm giác, tín hiệu, tiếp thu mọi kích thích bên ngoài và bên
trong cơ thể.
Để thực hiện các hoạt động đa dạng và tổng hợp, hầu hết cơ thể động
vật đều có một hện thần kinh phát triển, điều khiển thống nhất, đáp ứng phù
hợp với các yếu tố môi trường xung quanh.
* Các nhân tố trong và nhân tố ngoài
- Tập tính động vật rất đa dạng, có thể thay đổi theo thời gian, thời
điểm khác nhau. Tuy chịu cùng một loại kích thích cũng có những phản ứng
ngay cả khi không có kích thích bình thường.
- Các kích thích trong của một tập tính được biết rõ đó là hoocmon. Tập
tính hôn phối được một hệ thống hoocmon điều khiển do tuyến sinh dục và
mấu não dưới tiết ra. Một tập tính hôn phối đầy đủ, từ khoe mẽ, tán tỉnh, chọi
nhau, canh tổ, nuôi con... chỉ thể hiện được nếu các hoocmon sinh dục được
tiết theo một trật tự nhất định.
- Các kích thích trong khác là do các cơ quan thụ cảm trong. Ví dụ, con
thú buồn đái khi các cơ quan thụ cảm ở thành bàng quan phản ứng với áp suất
tăng dần của nước tiểu. Nhịp thở gấp của con thú là do khu trung ương hô hấp
của hành tủy báo hiệu, nồng độ khí CO2 đã tăng trong máu.
- Hệ thần kinh trung ương có thể chủ động gây tập tính. Ví dụ, mèo đói
thích bắt chuột để ăn, nhưng mèo no cũng vẫn thích bắt chuột.
- Kích thích bên trong lại do ngoại cảnh điều khiển hoocmon của mấu
não dưới và tuyến sinh dục tiết ra là nguyên nhân trong thực sự của tâp tính
giao phối. Nhưng sự tiết hoocmon đó lại do những nhân tố ngoài gây ra như
sự thay đổi độ dài ngày.



11

Những ví dụ trên chứng tỏ, tác dụng của ngoại cảnh rất quan trọng,
nhưng đa số động vật đã có cơ chế tập tính ở ngay trong cơ thể. Tập tính có
thay đổi với sự tiếp xúc ngoại cảnh, nhưng đây chỉ là sự thay đổi đơn giản của
một tập tính đã được khởi động. Như vậy, tập tính được hình thành có thể do
các tác nhân bên ngoài hoặc các tác nhân bên trong, nhưng cũng có thể do sự
kết hợp cả hai yếu tố đó.
* Sự kết hợp của các nhân tố
Nhân tố trong là gốc phát triển tập tính, nhưng vẫn kết hợp chặt chẽ với
nhân tố bên ngoài trong sự thành hình tập tính. Thử phân tích một chuỗi động
tác của chim trong hiện tượng hôn phối. Đây là một dây chuyền phức tạp của
nhiều sự kiện với tầm quan trọng khác nhau.
Tập tính hôn phối bắt đầu bằng độc chiếm lãnh thổ của chim đực, tiếp
theo là sự rủ rê chim cái để ghép đôi, xây tổ, ấp trứng và sau cùng là nuôi con.
Pha xây tổ: lúc đầu nó làm khung tổ bằng cỏ và sau đó, lót tổ bằng lông
chim. Trong quá trình này, chim thu nhặt cỏ ít dần và tha lông tăng dần.
Hoocmon điều khiển tập tính xây tổ, vì chim có thể làm tổ trái mùa nếu nó
được tiêm hoocmon sinh dục là chất oestrogen. Nhưng sự thay thế dần cỏ
bằng lông không do hoocmon mà do kích thích ngoài điều khiển. Khi chim
mái nằm giữa đống vật liệu thu lượm được đặt trong tổ nó bị cỏ làm ngứa
ngáy. Trong thời kì đẻ trứng, bụng chim rụng lông tạo thành “tấm ấp”. Sự
dụng lông do hoocmon tiết ra điều khiển do sự có mặt của chim đực và dựng
khung tổ. Tất cả những nhân tố đó góp phần tạo nên “tấm ấp”. Tấm ấp rất
nhạy cảm và do bị cỏ kích thích, chim chuyển sang pha kiếm lông lót tổ. Nằm
trên lông, tất nhiên sự kích thích “tấm ấp” của chim cái giảm tới tối tiểu. Các
pha khác của tập tính hôn phối cũng tuần tự tiếp diễn như thế. Cơ chế đầy đủ
cứ vận hành có trật tự: hoocmon và kích thích ngoài tác động lẫn nhau ở mỗi

pha tạo nên tập tính thích ứng.
* Tập tính trội
Trong một thời điểm, từ một địa điểm con vật chỉ sử dụng một tập tính
nhất định, trong nhiều trường hợp con vật không thể thực hiện hai, ba tập tính


12

đồng thời. Tập tính được thực hiện đó gọi là tập tính trội. Trong tình huống
này, con vật có khả năng chọn trong số lớn hình ảnh, âm thanh hay kích thích
khác thích hợp với yêu cầu đó
* Tập tính xung đột
Trong nhiều trường hợp, con vật bị kích thích mạnh, đồng thời bằng
nhiều kiểu và hai hay ba kiểu tập tính không thể trội hơn nhau. Khi đó có một
tập tính xung đột. Ví dụ: trên ranh giới lãnh thổ, xuất hiện một cá thể đực
khác, thì trong con đực này đồng thời bị kích thích tấn công và bỏ chạy khi
gặp chủ nhân của lãnh thổ đó.
Các động tác của tập tính xung đột này rất thú vị, thường được các cá
thể khác nhận biết. Đây là các tín hiệu cơ sở của ngôn ngữ động vật. Trong
nhiều tình huống, con vật nổi giận, nhưng đồng thời lại sợ hãi hay có cảm xúc
khác, hậu quả của tập tính đó rõ ràng như nhau.
Như vậy, tập tính xung đột là cùng một lúc phải đối phó với các tình
huống khác nhau, con vật buộc phải chọn lọc tình huống có lợi và xử lý kịp thời.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ CHÓ BẢN ĐỊA VIỆT NAM
1.2.1. Đặc điểm các giống chó bản địa Việt Nam
Theo Phạm Sỹ Lăng và Cs, (1993) [7] chó nhà Việt Nam hiện nay có
thể có 5 nòi: Chó vàng, Chó Mèo, Chó Lào (ba nòi chó này có thể có nguồn
gốc từ chó sói lớn hiện còn sống ở nước ta), Chó Bắc Hà, Chó Phú Quốc.
Theo Lê Vũ Khôi, (2003) [8] họ chó Canidae ở Việt Nam cho thấy có 5
loài bao gồm: sói lửa (Cuon alpinus), cáo (Vulpes vulpes), lửng chó

(Nyctereutesprocyonoides), chó rừng (Canis aureus) và một loài chó nhà.
Nhìn chung những nghiên cứu cơ bản về chó nhà tại Việt Nam hầu như
có rất ít, chỉ là những thống kê không cơ bản về hình thái bên ngoài, chưa đưa
ra được tên khoa học.
Theo kết quả nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2007 - 2011, Trung
tâm Nhiệt đới Việt- Nga đã tiến hành nghiên cứu thành phần khu hệ chó bản


13

địa Việt Nam tại các tỉnh phía Bắc và Trung Việt Nam, tổng số có 14 dạng và
giống được ghi nhận bao gồm: Việt Dingo, Dingo lùn, Dingo lớn, H’mông
cộc đuôi, H’mông lông dài, Bắc Hà, Akita, Laika, Sharki, Dạng kéo xe, Sapei,
Chó Lào, Phú Quốc và Dạng sói có được bản đồ phân bố các giống chó tại
khu vực nghiên cứu [9].
Đặc điểm một số giống chó nội:
1) Chó Việt Dingo
Việt Dingo hay còn được gọi là giống chó “Vàng”, chó “Gié”. Chúng
được nuôi phổ biến ở các vùng nông thôn, có tầm vóc trung bình, chiều cao
trước: 47,48 cm, trọng lượng trưởng thành là 15,5 kg. Đây là một trong những
giống chó săn được nhân dân ta nuôi để giữ nhà.
Chúng thường có màu lông vàng hay vàng nhạt đôi khi có xuất hiện các
màu lông khác như xám, trắng,…đầu to rộng, trán rộng, phẳng giữa trán có
rãnh khá sâu chia đầu thành hai phần bằng nhau. Chiều dài của đầu chiếm 1/3
so với chiều cao trước của chó. Chiều dài mõm khoảng 1/3 chiều dài đầu.
Chiều rộng của xương hộp sọ khoảng 1/2 chiều dài đầu.
2) Chó Dingo lớn
Dingo lớn có nhiều đặc điểm giống với Việt Dingo, chúng cũng có màu
lông vàng, tai dựng, người dân vẫn gọi Việt Dingo và Dingo lớn là một loại
giống chó “Vàng”. Tuy nhiên giữa chúng có sự khác nhau đáng kể. Điểm

khác biệt dễ nhận thấy giữa Việt Dingo và Dingo lớn là ở tầm vóc và kiểu
dáng đầu, đôi khi có cả sự khác nhau về kiểu đuôi.
Tầm vóc của Dingo lớn to cao hơn so với Việt Dingo bởi chúng có
những cặp chân thon, cao, chắc khoẻ, khi trưởng thành chiều cao trước
52,5cm, trọng lượng 20,27kg, có cá thể đạt tới 25kg.
Kiểu đầu của giống Dingo lớn trông dài và thon hơn so với Việt Dingo.
Tỷ lệ giữa rộng đầu và dài đầu là 1/2, tỷ lệ dài mõm và dài đầu khoảng 1/2.
Phần lớn các cá thể thuộc giống Dingo lớn có kiểu đuôi dài, thẳng và hơi cụp
xuống. Trong khi đó kiểu đuôi của Việt Dingo lại có hình xoắn ốc, hướng lên
trên và lệch về một phía.


14

3) Giống chó H’mông lông dài
Một trong những đặc điểm rất dễ nhận dạng chúng là giống H’mông
lông dài có bộ lông khá dài giống với giống Bắc Hà song những chiếc lông
dài này không chỉ có ở trên mình mà nó còn mọc lan rộng sang hai bên mõm
và toàn bộ mặt.
Đầu của chúng trông gần giống với giống Việt Dingo, với mõm ngắn
rộng, tỷ lệ giữa chiều dài đầu với chiều cao trước là 1/3; tỷ lệ chiều dài mõm
với chiều rộng đầu là 1/2 và tỷ lệ giữa chiều rộng đầu - chiều dài đầu là 1/2.
Hành vi ứng xử của chúng rất hung dữ nhưng đôi khi lại thân thiện,
chúng luôn có trạng thái đề phòng với người lạ.
4) Giống chó H’mông cộc đuôi
Đây có thể coi là một trong những giống chó tuyệt vời của Việt Nam.
Chúng có tầm vóc trung bình khá, có những cá thể đặc biệt to lớn. Khi trưởng
thành chúng đạt chiều cao trước 48,36 cm, trọng lượng trung bình đạt 17,05kg.
Về kiểu hình: Lông màu đen, đôi khi xuất hiện màu vằn vện như màu
lông hổ. Đầu to, lớn với trán phẳng, rộng, tỷ lệ giữa dài đầu và chiều cao trước là

1/3, tỷ lệ giữa rộng đầu và dài đầu khoảng 1/3, tỷ lệ giữa chiều dài mõm và chiều
dài đầu là 1/2, hai tai thường dựng đứng hoặc dựng nhưng 1/4 phía đỉnh tai lại rủ
xuống. Đuôi bị cộc bẩm sinh với độ dài khác nhau nhưng dao động từ 3 đến
15cm, đây là một trong những đặc điểm quan trọng để nhận dạng giống chó này.
Chúng sở hữu một trí thông minh tuyệt vời, những con chó con dễ dàng
bắt chước các động tác của chó trưởng thành và chúng có khả năng nhớ tốt.
Bởi vậy hướng sử dụng có thể dùng giống chó này vào hoạt động huấn luyện
chó nghiệp vụ phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau.
5) Giống chó Bắc Hà
Bắc Hà là tên gọi của giống chó được tìm thấy ở huyện Bắc Hà tỉnh
Lào Cai. Chúng xuất hiện nhiều ở các bản vùng cao hay ngay cả ở các trung
tâm huyện, thị trấn, thành phố.
Đặc điểm nổi bật của giống chó này là chúng có bộ lông rất dài màu


15

đen hay đôi khi xuất hiện màu pha tạp.
Kiểu đầu của chúng nhìn tương đối vuông và có đặc điểm gần giống
với giống Việt Dingo, tỷ lệ chiều rộng đầu với chiều dài đầu là 1/2; tỷ lệ giữa dài
mõm và dài đầu là 1/3; hai tai của chúng dựng hoặc một phần nhỏ của đỉnh tai rủ
xuống.
Tính cách chúng thân thiện nhưng sẵn sàng hung dữ với kẻ thù, chúng
có trí nhớ tốt nhưng hệ thần kinh dễ bị chai lì.
6) Giống chó Phú Quốc
Chó Phú Quốc là giống chó của Việt Nam hiện đang được nhân
giống ra nhiều. Chó Phú Quốc thường có bụng thon, trên lưng lông mọc
có hình xoắn, hay lật theo kiểu rẽ “ngôi”, là một trong ba quần thể chó
có đặc tính xoáy lưng là chó Phú Quốc Việt Nam, chó xoáy lưng Thái
Lan và chó xoáy lưng châu Phi. Bộ lông mượt sát (1-2 cm) rất ngắn, màu

vàng xám, màu nâu xám hoặc đen. Bàn chân của chó Phú Quốc khi đứng
sẽ chụm hẳn lại theo một thế rất vững.
7) Giống chó bản địa dạng sói
Giống chó bản địa dạng sói có tầm vóc trung bình và quan sát theo mặt
cắt ngang có hình thể hơi dài. Chúng có cấu trúc cơ thể nhẹ nhàng, rắn chắc
và kết cấu đầu, mình, các chi cân đối một cách tự nhiên, không có xu hướng
phát triển thô kệch hoặc thể tạng béo phệ.
Đây là một dạng của một giống chó cổ xưa (có thể là cổ xưa nhất trong
lịch sử động vật), có hình dáng giống như loài sói nhỏ ở Trung Quốc và Ấn
Độ, bởi vậy tạm gọi là giống chó bản địa dạng sói. Hiện nay quần thể giống
chó này đang có xu hướng giảm về số lượng và có khả năng bị lai tạp với các
giống chó khác. Tại Việt Nam chủ yếu giống chó này được tìm thấy ở hạ lưu
sông Mã thuộc tỉnh Thanh Hoá.
1.2.2. Tình hình nuôi dạy chó nghiệp vụ ở Việt Nam
Từ năm 1954, Bộ Quốc Phòng và Bộ Công An nước ta đã tiến hành tổ
chức nuôi chó nghiệp vụ. Các cơ sở như Trường 24 và Trung Tâm 32 đã được


×