Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Thực trạng chuyển giá tại các công ty đa quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.56 KB, 16 trang )

Thực trạng chuyển giá tại các công ty đa quốc gia
1. Tình hình chuyển giá toàn cầu:
1.1. Chênh lệch thuế các vùng lãnh thổ trên thế giới:
Như chúng ta đã biết, muốn nền kinh tế phát triển các quốc gia, vùng lãnh
thổ phải có chính sách phát triển hợp lý để thu hút đầu tư. Chính sách thuế là một
trong những chính sách quan trọng được quan tâm đặc biệt bởi các quốc gia trong
việc kêu gọi doanh nghiệp sản xuất, thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế. Chính vì
thế ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có chính sách thuế riêng tùy vào điều kiện
của mình. Điều này đã tạo ra chênh lệch thuế trên thế giới. Đây chính là chính vì
điều đó đã tạo môi trường thuận lợi để MNC thực hiện hành vi chuyển giá.
Chúng ta xem xét sự chênh lệch thuế trên thế giới thông qua một vài số liệu
như sau:
Có rất nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ có chính sách thuế vô cùng ưu đãi, đặc
biệt ở một số quốc gia thì mức thuế áp dụng là vô cùng thấp mà chúng ta thường
gọi là “thiên đường thuế”. Có thể kể ra vài trường hợp như sau:
• Belize, Channel Islands, Isle of Man, Nauru… : không có thuế TNDN
• Bermuda: không đánh thuế trên thu nhập của nước ngoài chuyển về.
• Bosnia and Herzegovina, Cyprus… : thuế TNDN 10%
• Ireland: thuế TNDN 12,5 %
• Ukraine: thuế TNDN 15%
• Serbia : thuế TNDN là 10%
Trong khi đó thì một số quốc gia áp dụng mức thuế suất tương đối cao, cụ
thể như:
• Nhật Bản: 40,69%
• Mỹ: 39%
• Argentina: 35%
• Brazil: 34%
• Bỉ: 33,99%
• Ấn Độ : 33.99%
• Pháp : 33%
• Ý: 31,4%


• Thái Lan: 30%
1.2. Bằng chứng về được sử dụng việc chuyển giá trên thực tế:
1.2.1 Đối với các quốc gia đang phát triển:
 Trung quốc
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã vươn lên mạnh mẽ, được biết đến
là một siêu cường kinh tế mới nổi. Chính phủ Trung Quốc đang tiếp tục phát triển
luật về quyền sở hữu, đất đai và đầu tư nước ngoài (ví dụ: bằng phát minh sáng
chế, nhãn hiệu thương mại) và tìm cách để thu hút FDI, bằng cách cung cấp một
loạt các ưu đãi về thuế và các nhượng bộ cho các tập đoàn nước ngoài. Ưu đãi và
nhượng bộ bao gồm miễn thuế hai năm bắt đầu từ năm đầu tiên thu lợi nhuận và
thuế giảm 50% trong ba năm tiếp theo. Các tập đoàn nước ngoài đầu tư vào các
ngành công nghiệp công nghệ cao và các ngành công nghiệp lợi nhuận thấp, như
nông nghiệp và lâm nghiệp, có đủ điều kiện cho việc miễn thuế hai năm tiếp theo.
Các tập đoàn nước ngoài đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt được hưởng lợi từ mức
thuế suất thấp hơn đáng kể (15% so với tỷ lệ bình thường là 33%). Một số tỉnh,
thành phố cũng đã được cung cấp một loạt các ưu đãi thuế và trợ cấp. Để hỗ trợ
nền kinh tế nội địa, chính phủ đã hạn chế các công ty nước ngoài đến một số thị
trường trong nước, giữ lại một số biện pháp kiểm soát ngoại hối và áp một loại
thuế khấu trừ vào lợi nhuận chuyển về nước đối với công ty nước ngoài. Thêm vào
đó tiền tệ của Trung Quốc áp dụng tỷ giá cố định bởi quy định của chính phủ chứ
không phải thị trường.
Sự bùng nổ của nền kinh tế Trung Quốc và các ưu đãi thuế đã tạo ra nhiều
cơ hội kinh doanh kiếm lợi nhuận. Năm 1980, FDI chỉ 57 triệu đô la nhưng đã đạt
35,8 tỷ đô la vào năm 1995. Vào cuối những năm 90, khoảng 140.000 doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài được hoạt động tại Trung Quốc. Tại thời điểm này
khoảng 54%, 63% và 70% của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài báo cáo hoạt
động thua lỗ 7.1 tỷ đô la cho cơ quan thuế tương ứng các năm 1993, 1994 và 1995.
Các báo cáo trên lỗ đã hướng các công ty đa quốc gia để suy ngẫm việc rút khỏi
Trung Quốc. Tuy nhiên, vào năm 2000 FDI vào đã đạt 40,7 tỷ đô, tăng lên kỷ lục
92,4 tỷ đô la trong 2008. Năm 2004, số lượng các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài

hoạt động tại Trung Quốc đã tăng đến 490.000. Tuy nhiên cho giai đoạn 1996-
2000, khoảng 60%- 65% của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài báo cáo lỗ và
không trả tiền thuế. Trang web của Chính phủ Trung Quốc tuyên bố trốn thuế
thông qua chuyển giá chiếm đến 60% tổng số thuế trốn của các công ty đa quốc
gia. Theo một khảo sát năm 2007 do Cục thống kê quốc gia của Trung Quốc công
bố dường như 2/3 thua lỗ của các công ty nước ngoài công ty nước ngoài bởi họ đã
cố tình thực hiện báo cáo sai sự thật và chuyển giá để trốn thuế.
Trung Quốc đã tăng cường đưa ra các quy định về việc chuyển giá và cũng
nên kiên quyết hơn trong điều tra việc chuyển giá. Cơ quan thuế thông báo rằng
trước năm 2005 họ điều tra khoảng 1.500 trường hợp chuyển giá hàng năm, nhưng
sau khi kiểm toán một cách kiên quyết cứng rắn hơn các con số đã giảm khoảng
300 trường hợp và mang lại khoản thuế bổ sung khoảng 460 triệu nhân dân tệ. Kết
quả điều tra trong năm 2007 dẫn đến 192 trường hợp, nhưng khoản thuế lên tới 987
triệu nhân dân tệ.
Một số nghiên cứu đã xác định việc sử dụng chuyển giá một cách sáng tạo,
đặc biệt là điều chỉnh giá nhập khẩu và xuất khẩu nhằm chuyển lợi nhuận từ Trung
Quốc đến các nơi mong muốn. Trong một nghiên cứu của ngành công nghiệp ô tô,
kết luận rằng “một mức giá cao hơn giá thị trường đối với trang thiết bị, các bộ
phận và nguyên liệu thô,..., công ty nước ngoài có thể bỏ qua các quy định về
chuyển lợi nhuận về nước, và cuối cùng có thể thông báo mức thu nhập trong nước
thấp hơn”. Hơn nữa, vì các công ty liên doanh dựa vào các thành phần và mua
công nghệ từ công ty mẹ, các nhà đầu tư nước ngoài có ý định kéo dài thời gian
mua hàng để tối đa hóa lợi nhuận tạo ra từ giá chuyển giao. Một nghiên cứu ước
tính rằng giá xuất khẩu của Trung Quốc thực hiện bởi các tập đoàn đa quốc gia
định đang dưới giá trung bình 17%, trong khi hàng nhập khẩu đắt hơn trung bình
9%. Cơ quan thuế Trung Quốc cho rằng trốn thuế của các công ty đa quốc gia gây
ra thiệt hai hơn 30 tỉ nhân dân tệ (4,36 tỷ đô la) trong các khoản thu thuế bị mất
hàng năm và cho rằng, "... hầu như 90 phần trăm doanh nghiệp nước ngoài đang
kiếm tiền bất một cách bất hợp pháp. ... phổ biến nhất, họ sử dụng chuyển giá để
tránh thuế các khoản thanh toán ... ". Mặc dù kiểm soát tiền tệ chặt chẽ, Trung

Quốc được ước tính mất khoảng 100 tỷ đô la vốn mỗi năm, chủ yếu bởi việc đinh
sai giá nhập và xuất khẩu.
 Nga
Một nền kinh tế mới nổi, cũng đã cung cấp nhiều bằng chứng về tác động
của chuyển giá trên thực tế. Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, nền kinh tế Nga
bị suy giảm đáng kể. Sự sụt giảm trong GDP khoảng -14%, -8,7%, -12,7%, -4,2%
và -3,6% tương ứng cho năm 1992, 1993, 1994, 1995 và 1996, tương đương
khoảng 42% giá trị đầu ra của quốc gia. So với Trung Quốc, mức FDI cho đến gần
đây là tương đối thấp. FDI tích lũy cho các năm 1991 đến năm 2003 chỉ 19,6 tỷ đô
la so với 350 tỷ đô la của Trung Quốc trong cùng kỳ. Trên tổng số 1.270 tỷ đô la
FDI trên toàn thế giới vào năm 2000, Nga đã nhận được FDI của chỉ 4.4 tỷ. Do sự
thiếu hụt FDI đáng kể, chính phủ Nga đã tìm cách làm khôi phục lại nền kinh tế
thông qua tự do hóa thị trường, phân cấp lập kế hoạch kinh tế, sự mất giá tiền tệ, tư
nhân hóa các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, và liên doanh với các tập đoàn đa
quốc gia nước ngoài . 89 vùng của Nga đã được trao quyền tự quản lý đưa ra ưu
đãi thuế và trợ cấp một cách đáng kể. Một loạt vùng thuế thấp và miễn thuế cũng
đã được lập ra.
Quy định chuyển giá lần đầu tiên được đưa ra tại Nga vào năm 1999. Một số
vấn đề đã được đưa ra trong lĩnh vực dầu khí, là lĩnh vực có đóng góp lớn cho nền
kinh tế Nga. Đầu năm 2004, một báo cáo của Ngân hàng Thế giới nói rằng các
quốc gia xuất khẩu dầu và khí đốt chiếm 25% GDP của đất nước hơn 9% so với số
liệu báo cáo chính thức. Lý do chính cho sự khác biệt được cho là do các tập đoàn
đã khai thác nhiều sơ hở của thuế, để tiến hành chuyển giá - kể cả việc tạo ra một
loạt công ty thương mại trong và ngoài nước để mua dầu với chi phí thấp từ các địa
điểm sản xuất và sau đó bán nó lại một lần nữa thông qua trung gian. Ngân hàng
Thế giới thông báo rằng, nhiều công ty lớn của Nga được hưởng lợi từ chuyển giá
bằng cách sử dụng các công ty thương mại để tránh thuế. Các công ty bán sản
phẩm của họ cho các công ty con kinh doanh với mức giá dưới giá thị trường; các
công ty con kinh doanh sau đó bán sản phẩm cho khách hàng theo giá thị trường và
bỏ túi phần chênh lệch... thông thường các công ty ma được đăng ký tại những

vùng sâu vùng xa .... một số biến mất ngay sau khi kết thúc các giao dich với khách
hàng. Ví dụ, tại Nga dầu có giá bán 10 đô/tấn đã được bán cho công ty con ở nước
ngoài của nhà xuất khẩu tại giá 10 đô/tấn và sau đó bán lại cho khách hàng nước
ngoài theo giá thị trường khoảng 120 đô/tấn, với lợi nhuận được đăng ký và giữ lại
tại các công ty ở nước ngoài. Một báo cáo của Phòng Kiểm toán của Nga ghi nhận
rằng 80% số than xuất khẩu từ Nga được bán thông qua các công ty ở nước ngoài.
Các công ty đăng ký kinh doanh ở nước ngoài tích lũy nguồn thu quan trọng từ
than, vì các nhà sản xuất của Nga bán cho họ với giá giảm 30-54% của giá thị
trường thế giới. Kết quả là các công ty tránh được những khoản thuế, vì lợi nhuận
không được ghi nhận tại Nga.
Công ty khí đốt của Nga là Gazprom đã tạo ra Itera, một công ty trực thuộc
có trụ sở tại Jacksonville Hoa Kỳ. Khí đốt với mức giá trong nước Nga là 2 đến 4
đô/1000m3, đã được bán tại giá đó vào Mỹ, và Itera sau đó bán trở lại Nga tại mức
giá khoảng 30 tỷ đến 90 đô/1000m3 và lợi nhuận được giữ lại ở Mỹ. Một nghiên
cứu khác ước tính rằng từ năm 1995 đến 1999, chỉ 25 mặt hàng xuất khẩu từ Nga
sang Mỹ đã bán dưới giá khoảng 7,24 tỷ đô la trong khi nhập khẩu với giá cao
khoảng 1.68 tỷ đô, kết quả là có sự chuyển vốn sang Mỹ khoảng 8,92 tỷ đô la. Với
thuế ở mức 25%, khoảng vốn đó sẽ mang lại doanh thu đáng kể có để đầu tư cơ sở
hạ tầng xã hội. Trong khi mức độ tăng của chuyển vốn từ Nga là con số ước đoán,
thì Goskomstat ( Cục thống kê liên bang) ước tính rằng từ năm 1990 đến 1995 có
thể số tiền được chuyển khỏi Nga lên đến 400 tỷ đô la đã được đưa ra tới Mỹ, Anh,
Síp, Thụy Sĩ, Hà lan và Đan mạch.
Thất thu thuế và đi kèm việc vốn bị chuyển ra nước ngoài là cơ sở pháp lý
cho việc truy tố của công ty năng lượng tư nhân lớn nhất của Nga, Yukos (thuộc sở
hữu của Tập đoàn Menatep). Yukos người sáng lập và cựu giám đốc điều hành

×