Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DNV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.43 KB, 35 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC
DNV&N TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN BÁCH KHOA
3.1 Định hướng về mở rộng tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh
NHNo&PTNT Bách Khoa
DNV&N trên địa bàn thành phố Hà Nội có vai trò rất quan trọng trong việc
phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Hiện nay, tỷ trọng của khu
vực kinh tế này trong GDP của thành phố chiếm khoảng 53%, thu hút nhiều
lao động tạo công ăn việc làm, hàng năm nộp cho ngân sách Nhà Nước hơn
100 tỷ đồng. DNV&N trên địa bàn Hà Nội đang thay đổi theo hướng tích cực,
những khó khăn do cơ chế, chính sách chỉ là tạm thời khi các luật định đang
từng bước hoàn thiện và phù hợp với thực tế hơn.
3.1.1. Định hướng phát triển chung của Chi nhánh.
Nhằm phát huy những kết quả đạt được, và tạo ra được bước đột phá
tăng trưởng toàn diện về mọi mặt, chi nhánh xác định phương hướng hoạt
động trong thời gian tới:
Trên cơ sở là một ngân hàng bán lẻ, thực hiện các nghiệp vụ của một
ngân hàng hiện đại phục vụ cho các đối tượng khách hàng thuộc mọi thành
phần kinh tế trên địa bàn Quận và các vùng lân cận; phục vụ phát triển kinh tế
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng dân cư, khách hàng tiêu dùng
trên cơ sở mở rộng các kênh phân phối.
Kiểm soát tốc độ tăng trưởng, đặc biệt kiểm soát phòng ngừa rủi ro
trong hoạt động tín dụng, trong thanh toán, an toàn kho quỹ. Nâng cao trách
nhiệm ở các cấp lãnh đạo điều hành, cán bộ nghiệp vụ; chăm lo và giáo dục ý
thức cán bộ gắn bó với ngành, với nghề.
Phát triển mạng lưới và tăng thêm kênh phân phối sản phẩm Ngân hàng.
1
Kinh doanh đảm bảo thực hiện theo đúng pháp luật của Nhà nước, của
Ngành, đảm bảo hiệu quả, an toàn vốn.
Toàn thể cán bộ nhân viên trong chi nhánh thi đua lập thành tích chào
mừng NHNo&PTNT Bách Khoa thực hiện thành công IPO và thành lập tập


đoàn tài chính ngân hàng Việt Nam.
Trên cơ sở chính sách chiến lược phát triển kinh tế của quận, huyện,
Chi nhánh tiến hành phân tích, đánh giá và xây dựng chính sách đầu tư tín
dụng phù hợp với từng lĩnh vực phát triển của quận, huyện.
Tích cực chuyển dịch cơ cấu cho vay theo hướng giảm mạnh cho vay
đối với các doanh nghiệp xây lắp và mở rộng, đa dạng hoá cho vay đối với
các làng nghề truyền thống, các loại hình doanh nghiệp, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt các doanh nghiệp
có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm tín dụng, triển khai các sản phẩm tín
dụng tiêu dùng, tín dụng cá nhân (kết hợp với cung cấp dịch vụ) để dành riêng
cho nhóm khách hàng tư nhân cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ (ngoài quốc
doanh)…, gắn tăng trưởng tín dụng có hiệu quả với việc phát triển dịch vụ.
Chỉ tiếp cận và cho vay đối với các doanh nghiệp có phương án sản
xuất kinh doanh hiệu quả, có tình hình tài chính tốt.
Thực hiện phân loại, đánh giá khách hàng chính xác theo chương trình
quản lý tín dụng nội bộ để làm căn cứ đưa ra quyết định cho vay.
Chủ động phối hợp với các chi nhánh thành viên của NHNo&PTNT để
đẩy mạnh hoạt động cho vay đồng tài trợ, phân tán rủi ro tín dụng;
Chủ động tiếp cận với các ngành, các tổng công ty, chính quyền địa
phương cấp quận huyện và thành phố để nắm kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội của địa phương, nắm được các dự án đầu tư phát triển cũng như các chủ
đầu tư để lựa chọn các dự án đầu tư có đủ điều kiện, có hiệu quả để đầu tư.
2
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án, các khoản vay
Tiếp tục thực hiện theo lộ trình tái cơ cấu do TW đề ra; Kiểm soát các
khoản cho vay theo theo đúng nguyên tắc tín dụng, điều kiện tín dụng chặt
chẽ để hạn chế rủi ro.
Nghiêm túc thực hiện các quy định, quy trình trong hoạt động tín dụng
Thực hiện phân loại nợ và trích lập đầy đủ, đúng qui định quỹ DPRR;

Bổ sung và tăng cường thêm TSĐB; hoàn thiện về mặt pháp lý đối với TSĐB;
có lộ trình triệt để xử lý nợ xấu, bằng mọi biện pháp tận thu nợ hạch toán
ngoại bảng, nợ xấu, nợ quá hạn; hạn chế tối đa việc phát sinh nợ quá hạn mới,
nợ xấu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
3.1.2. Định hướng phát triển đối với DNV&N.
Trong bối cảnh hiện nay, cạnh tranh giữa các ngân hàng càng trở nên
gay gắt hơn, các ngân hàng luôn phải tìm cách để tăng được thị phần của
mình. Do đó mà đối tượng cho vay được mở rộng hơn nhiều, nếu như trước
đây các ngân hàng thường có xu hướng cho các doanh nghiệp lớn của nhà
nước vay thì bây giờ đã có sự chuyển hướng sang các thành phần kinh tế
khác, trong đó có sự mở rộng cho vay đối với các DNV&N.
Tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa cũng bắt kịp xu thế chung ấy.
Để đạt được mục tiêu phát triển hoạt động cho vay đối với DNV&N, Chi
nhánh đã đề ra một số phương hướng hoạt động đối với DNV&N như sau:
Chí nhánh cần duy trì và phát triển cho vay đối với các doanh nghiệp
có quan hệ tín dụng lâu dài tại chi nhánh, phân công đủ cán bộ tín dụng nhằm
mở rộng và phát triển chất lượng cho vay đối với các DNV&N.
Cần tiếp cận, rà soát để phân loại DNV&N nhằm đáp ứng kịp thời nhu
cầu vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, phân tích
tình hình tài chính của khách hàng để lựa chọn những khách hàng đáp ứng đủ
yêu cầu. Đẩy mạnh công tác tiếp thị để thu hút nhiều hơn nữa khách hàng đến
3
giao dịch với chi nhánh, góp phần tăng cơ cấu và tỷ trọng gửi của doanh
nghiệp, phấn đấu tăng trưởng dư nợ lành mạnh.
Từng bước giảm dần tỷ trọng cho vay DNV&N thuộc nhà nước, mở
rộng cho vay đối với các DNV&N ngoài quốc doanh, nâng cao tỷ trọng dư nợ
tài sản đảm bảo, áp dụng các biện pháp để đảm bảo và nâng cao chênh lệch
sữa lãi suất đầu ra vơi đầu vào.
Tích cực trong công tác xử lý thu hồi nợ quá hạn, nợ xấu, đôn đốc các
đơn vị có tiềm ẩn rủi ro để thu hồi nợ. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm

soát đối với những doanh nghiệp, dự án hiện nay đã và đang có dấu hiệu rủi
ro tín dụng. Đặc biệt chú trọng những giới hạn an toàn trong hoạt động khả
năng thanh khoản…
Nâng cao chất lượng công tác tự kiểm tra, kiểm soát các mặt nghiệp vụ,
thực hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai sót phát sinh để đảm bảo kinh
doanh an toàn và hiệu quả.
3.2 Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các DNV&N tại NHN
o
&PTNT
Bách Khoa:
3.2.1 Đa dạng hóa các hình thức tín dụng đối với DNV&N
DNV&N đa dạng hóa về quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh vì vậy
nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời gian vay, phương thức trả vốn và lãi vay
là không giống nhau. Chính vì vậy mà ngân hàng với phương châm: “lấy hiệu
quả kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu phục vụ”, phải đưa ra được loại
hình tín dụng phù hợp với từng yêu cầu của khách hàng. Ngoài cách cho vay
truyền thống thông qua việc thế chấp, cầm cố tài sản chi nhánh nên tiến hành
các hình thức cho vay mới như:
 Chiết khấu chứng từ có giá:
Các doanh nghiệp sở hữu các giấy tờ có giá như thương phiếu, tín phiếu
trái phiếu chưa đến hạn thanh toán nhưng doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu
4
đột xuất thì có thể đem những chứng từ có giá này đến Ngân hàng xin chiết
khấu. Chiết khấu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển
nhượng quyền sở hữu những chứng từ có giá chưa đến hạn thanh toán cho
ngân hàng thương mại để nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi
tức và phí hoa hồng (nếu có).
* Công thức chiết khấu:
(1 )
100 30

R T
K A
×
= −
×
Trong đó:
- K: là số tiền phải trả cho khách hàng khi chiết khấu
- A: là giá trị của kỳ phiếu tại thời điểm đến hạn
- R: mức lãi suất chiết khấu (% tính theo tháng)
- T: thời gian chiết khấu (thời gian xin rút trước hạn)
Phương pháp này hiện nay chi nhánh chưa áp dụng, mà chủ yếu vẫn
dừng lại ở hình thức cầm cố giấy tờ có giá để được vay vốn Ngân hàng. Việc
chiết khấu trái phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu tạo điều kiện cho Ngân hàng
chuyển dần từ hình thức cho vay ứng trước (nhiều rủi ro) sang co vay chiết
khấu các trái phiếu này khi cần đưa thêm tiền vào lưu thông.
 Hình thức hùn vốn đầu tư liên doanh, liên kết với khách hàng.
Để mở rộng tín dụng, ngân hàng không nhất thiết chỉ cho khách hàng vay
vốn của mình mà có thể lựa chọn trong số khách hàng của mình xem doanh
nghiệp nào làm ăn có hiệu quả, có triển vọng tồn tại và phát triển lâu dài thì
ngân hàng có thể thỏa thuận ký hợp đồng liên doanh, liên kết với những
doanh nghiệp đó để cùng sản xuất kinh doanh. Như vậy, ngân hàng không
những mở rộng được tín dụng của mình mà còn có điều kiện xâm nhập thị
trường, từ đó tìm ra được những mặt mạnh mặt yếu của khách hàng, đồng
5
thời vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay vứa có thu nhập cao do trực
tiếp là người đầu tư vốn, hạn chế được rủi ro cho khách hàng và cả ngân hàng.
 Cho vay bảo lãnh và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với
DNV&N:
Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, có những DNV&N, hộ
gia đình, cán bộ công nhân viên thiếu vốn phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh

doanh hoặc phục vụ đời sống nhưng không có tài sản hoặc không đủ tài sản
làm đảm bảo. Khách hàng có thể vay vốn bằng việc bảo lãnh của bên thứ 3;
hoặc đối với cán bộ công nhân viên thì tiến hành cho vay không có bảo đảm
bảo bằng tài sản, nhưng được cơ quan quản lý cam kết đảm bảo trả bằng
nguồn thu nhập từ tiền lương, trợ cấp…
 Cho vay có đảm bảo bằng các khoản sẽ thu:
Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua mua
chịu, dẫn đến làm cho doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể
giúp doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời bằng cách cho vay theo tỷ lệ nào đó
trên khoản sẽ thu. Tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản
nợ đó. Việc cho vay này có thể thông báo hoặc không thông báo cho khách
hàng thiếu nợ của doanh nghiệp, tùy thuộc vào sự thỏa thuận của hai bên.
 Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Ngân hàng cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay
trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa dịch vụ và
rút tiền mặt.
3.2.2 Thực hiện các biện pháp thẩm định kỹ trước khi cho vay và tăng
cường kiểm tra trong và sau khi cho vay:
Trước khi giải ngân một khoản vay, ngân hàng cần phải hiểu rõ mọi chi
tiết có liên quan đến khách hàng, nhằm đảm bảo cho món vay được sử dụng
một cách có hiệu quả và có khả năng hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi. Ngân
6
hàng phải tiến hành các biện pháp thẩm định, phân tích và đánh giá khách
hàng. Đây là một việc làm cực kỳ quan trọng, vì khi đã giải ngân cho người
vay thì ngân hàng chỉ có quyền sở hữu, còn quyền sử dụng khoản tiền đó
hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng. Việc phân tích, đánh giá khách hàng ít
nhất cần đảm bảo các nội dung:
- Tính khả thi của phương án hoặc dự án kinh doanh.
- Tình hình tài chính và khả năng thanh toán của khách hàng.
- Tài sản thế chấp và mức độ đảm bảo của tài sản thế chấp.

- Trình độ quản lý, uy tín và đạo đức của người lãnh đạo cũng như uy tín
của doanh nghiệp trên thị trường.
Cụ thể, trong khi phân tích, đánh giá khách hàng để cho vay ngân hàng
cần chú ý các vấn đề sau:
- Sàng lọc, điều tra và giám sát khách hàng:
Sàng lọc là việc ngân hàng lựa chọn những khách hàng vay có triển vọng
tốt để cho vay, đảm bảo thu hồi được gốc và lãi đúng hạn, đem lại lợi nhuận
cho ngân hàng. Ngân hàng thu thập thông tin khách hàng thông qua mối quan
hệ của khách hàng, chính quyền địa phương, từ trung tâm thông tin về rủi ro
tín dụng.
Tài liệu chứng minh tư cách pháp nhân hoặc thể nhân của người xin vay:
Quyết đinh thành lập, điều lệ doanh nghiệp, (nếu khách hàng là một pháp
nhân); giấy chứng minh nhân dân, số đăng ký hộ khẩu, (nếu khách hàng là
một thể nhân), bảng cân đối tài khoản hiện tại và những năm trước đó, tình
hình sản xuất kinh doanh trong nhiều năm liên tục, tình hình cung cấp nguyên
vật liệu cũng như tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ của các
công ty cổ phần thì phương pháp hữu hiệu nhất để tạo ra sự gắn bó chặt chẽ
giữa khách hàng và ngân hàng là việc ngân hàng tham gia nắm giữ một số cổ
7
phần của doanh nghiệp vay vốn. Sự gắn bó này hiện nay đang được áp dụng
mạnh mẽ trong hệ thống tài chính của các nước phát triển như Nhật Bản,
Đức…
Đối với các khách hàng là thể nhân thì việc đánh giá khả năng tài chính
của khách hàng thường rất khó khăn, bởi vì rất khó có được những số liệu
chính xác và ổn định của khách hàng, nhất là đối với chủ thể vay vốn các hộ
tư thương. Tất cả số liệu từ nguồn vốn, doanh thu hàng tháng đến lợi nhuận
thu được đều không rõ ràng. Vì vậy đối với những khách hàng thuộc loại hình
này, ngân hàng cần hết sức coi trọng khâu xem xét, đánh giá chung về đạo
đức và ý chí trả nợ của họ.

Đối với các khách hàng là các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh
pháp lệnh kế toán thống kê thì ngân hàng có thể căn cứ vào rất nhiều chỉ tiêu
kinh tế và tài chính để đánh giá tình hình tài chính và khả năng thanh toán của
họ. Trong số đó cần chú ý xem xét một số chỉ tiêu quan trọng như:
*Hệ số tài trợ:
Hệ số tài trợ của doanh nghiệp là một chỉ tiêu khái quát phản ánh khả năng tự
đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp đó. Hệ số này được tính như sau:
Nguồn vốn DN hiện có
Hệ số tài trợ =
Tổng nguồn vốn DN sử dụng
Qua công thức trên ta thấy, nguồn vốn của doanh nghiệp càng so với tổng
số nguồn vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng thì khả năng rủi ro trong tín dụng
ngày càng cao. Điều này thể hiện doanh nghiệp đang bị phụ thuộc lớn vào các
nguồn vốn khác mà không phải là bản thân doanh nghiệp, do vậy rất khó chủ
động trong quá trình sản xuất kinh doanh và thanh toán các nợ khi đến hạn.Nếu
hệ số tài trợ càng lớn,thì tình hình tài chính doanh nghiệp càng vững chắc.Trên
8
thực tế,theo kinh nghiệm của một số ngân hàng trên thế giới , nếu hệ số tài trợ
của doanh nghiệp nhỏ hơn 0,5 thì khả năng tài chính của doanh nghiệp là rất
khó khăn.Một doanh nghiệp được đánh giá là có tình hình tài chính tốt, khi hệ số
tài trợ tăng liên tục qua các kỳ và lớn hơn hoặc bằng 0,5
* Tỷ xuất lợi nhuận:(khả năng sinh lời tài chính) là khả năng
Sinh lời của một đồng vốn huy động trong năm của doanh nghiệp. Tỷ
xuất lợi nhuận có thể được tính chung cho cả vốn cố định và vốn lưu động
hoặc tính riêng cho từng loại vốn. Nếu một doanh nghiệp có tỷ xuất lợi nhuận
lớn hơn lãi xuất tiền vay ngân hàng, thể hiện doanh nghiệp đó làm ăn có lãi,
có khả năng hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi và có tĩnh lũy.Nhưng doanh
nghiệp có tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn lãi suất tiền vay ngân hàng là nhưng
doanh nghiệp có nhiều khả năng không hoàn trả được nợ vay, bởi lợi nhuận
của các doanh nghiệp tạo ra trong kỳ không đủ để trả lãi tiền vay, chưa nói

đến việc tạo ra lợi nhuận thuần túy cho bản thân các doanh nghiệp. Do vậy,để
đảm bảo an toàn vốn ,các ngân hàng không nên cho vay đối với các doanh
nghiệp loại này.
* Khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt
hay xấu. Để đánh giá chính xác khả năng thanh toán của một doanh nghiệp
cần xem xét, phân tích các chỉ tiêu:
Khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp:Là chỉ tiêu tổng hợp,
phản ánh khái quát khả năng thanh toán của doanh nghiệp đó, chỉ tiêu này
được tính bằng công thức:
Khả năng thanh toán
của doanh nghiệp
Số tiền doang nghiệp dùng để thanh toán
=
9
Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán
Trong đó :
+Số tiền có thể dùng để thanh toán gồm toàn bộ số vốn bằng tiền, các
khoản phải thu và thành phẩm hàng hoá tồn kho và đang gửi đi tiêu thụ.
+Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán gồm các khoản phải trả người
bán, người mua , các khoản nợ ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác.
Nếu một đoang nghiệp có hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1 chính tỏ doanh
nghiệp có khả năng thanh toán và tình hình tài chính bình thường và khả quan.
Nhìn chung hệ số càng lớn thì khả năng thanh toán càng tốt.Cần chú ý rằng để
đánh giá được khả năng thanh toán càng tốt cần chú ý rằng để đánh giá khả
năng thanh toán của doanh nghiệp, khi tính toán số tiền của doanh nghiệp, khi
tính toán số tiền của doanh nghiệp có thể dùng để thanh toán cần xem xét tới
khả năng chuyển hóa thành tiền của sản phẩm hàng hóa và các khỏn phải thu
để xác định một cách chắc chắn về nguồn vốn của doanh nghiệp.
Ngoài ra ta còn có thể sử dụng các chỉ tiêu về khả năng thanh toán ngắn

hạn, khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán cuối cùng để đánh giá
về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhìn chung việc phân tích các chỉ
tiêu tài chính càng được tiến hành một cách cụ thể và chính xác bao nhiêu thì
càng phòng ngừa được những rủi ro cho nguồn vốn cho vay của ngân hàng
bấy nhiêu.
Sau khi hoàn thành đầy đủ các bước phân tích tín dụng đói với khách
hàng, nếu xét thấy phương án sản xuất kinh doanh là hợp lý, mang tính khả
thi và hiệu quả kinh tế cao đồng thời khả năng tài chính của khách hàng lành
mạnh và ổn định, có khả năng hoàn trả tốt nợ gốc và lãi vay, ngân hàng sẽ xác
định số lượng, thời hạn và lãi suất cho khoản tín dụng đó.
. Hiện nay NH đang sử dụng hệ số này và áp dụng hệ số này một cách
phổ biến.
10
Thực hiện kiểm tra chặt chẽ, thường xuyên và định kỳ giám sát
khách hàng có sử dụng tiền vay đúng mục đích đề phòng những bất trắc có
thể xảy ra. Qua kiểm tra sẽ phát hiện ra được những việc kinh doanh không
bình thường để có biện pháp xử lý kịp thời, ngăn ngừa rủi ro.
Trên cơ sở kết quả công tác kiểm tra, quản lý tín dụng, Ngân hàng cần
tiến hành phân loại chất lượng các khoản vay để từ đó có bienj pháp thu hồi
nợ và lãi cho phù hợp:
Đối với những khoản vay có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng thu hồi
vốn và lãi tiền vay đúng hạn, thì phải chú ý đôn đốc việc trả nợ khi thời điểm
đáo hạn sắp đến.
- Đối với các khoản nợ vay có “vấn đề”, không được hoàn trả đúng hạn
do những khó khăn phát sinh từ điều kiện khách quan đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của khách hàng thì cần có những biện pháp điều chỉnh tình
huống kịp thời, đảm bảo khả năng thu hồi vốn, tránh nợ quá hạn phát sinh.
- Với những hợp đồng tín dụng vay số tiền lớn, thời hạn dài thì phải có
điều khoản “tình huống thay đổi”, ở đó phải quy định một số tình huống bất
ngờ có thể sảy ra và cách xử lý kèm theo. Ví dụ như chính sách thuế, chính

sách đầu tư, quản lý ngoại hối, quản lý động sản, bất động sản của Nhà nước.
Khi có thay đổi thì quan hệ tín dụng được điều chỉnh như thế nào để bảo vệ
cho quyền lợi của Ngân hàng và khách hàng vay.
- Đối với những khoản vay vi phạm hợp đồng tín dụng một cách
nghiêm trọng hoặc có nguy cơ thua lỗ, phá sản trong kinh doanh dẫn đến khả
năng thu hồi nợ vay rất khó khăn, Ngân hàng buộc phải chuyển nợ quá hạn và
tìm mọi cách thu hồi nợ, ngay cả trong trường hợp khoản vay chưa đến hạn
như đã quy định.
3.2.3 Thực hiện các bảo đảm trong kinh doanh tín dụng:
Ngày 29/12/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị đinh số 178/1999/NĐ-
11
CP quy định về bảo đảm tiền vay trong việc cấp tín dụng của các tổ chức tín
dụng đối với khách hàng vay theo quy định của luật các tổ chức tín dụng. Đây
là văn bản pháp lý quan trọng, có hiệu lực từ ngày 13/01/2000. Hướng dẫn
các biện pháp bảo đảm nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý
để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay.
Nghị định 178 ra đời đánh dấu sự phát triển và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. So với các
quy định trước đây của pháp luật thì Nghị định 178 có nhiều điểm thông
thoáng và cởi mở hơn trong việc nhận thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay. Cụ thể, là nguyên tắc tự do bình đẳng trong kinh doanh
được tôn trọng: các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các thành phần kinh tế
khác vay vốn Ngân hàng thương mại quốc doanh đều phải thế chấp cầm cố tài
sản hoặc phải được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trẩ nợ, ngoại trừ trường hợp khách hàng được tổ chức tín dụng cho
vay có bảo đảm tài sản được hình thành từ vốn vay hoặc cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản theo quy định của pháp luật. Tổ chức tín dụng có quyền
lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có
bảo đảm theo quy định của pháp luật và tự chịu trách nhiệm về quyết đinh của
mình. Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ theo cam kết, Ngân

hàng có quyền chủ động xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ.
Tuy nhiên, mục đích của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế nói
chung và đối với các DNV&N nói riêng là: Phát triển kinh tế có lợi nhuận
hợp lý, an toàn vốn, tuân thủ pháp luật. Chất lượng tín dụng Ngân hàng phải
dựa trên hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy đứng trước
nhu cầu xin vay vốn của khách hàng, điều đầu tiên cán bộ tín dụng cần phải
quan tâm đến không phải là tài sản bảo đảm tiền vay và chính là dự án hoặc
phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng.
12
Tính khả thi của dự án, phương án là nhân tố quyết định đến việc khách
hàng có khả năng trả được nợ Ngân hàng hay không. Tài sản bảo đảm tiền
vay chỉ là phương tiện cuối cùng, là nguồn trả nợ thứ hai để giúp Ngân hàng
không bị thất thoát vốn khi xảy ra rủi ro. Trong thực tế có nhiều vướng mắc
trong việc nhận tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh để bảo đảm nợ vay. Ngân
hàng, một mặt tiến hành kiến nghị với các cấp có thẩm quyền để cùng tháo
gỡ, mặt khác cần có biện pháp linh hoạt và mềm dẻo hơn trong vấn đề nhận
tài sản bảo đảm nợ vay để mở rộng được quy mô cho vay đồng thời vẫn đảm
bảo được sự an toàn vốn cho Ngân hàng.
Trên thực tế, ở địa bàn Thành phố Hà Nội việc mua bán chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà diễn ra khá phổ biến. Việc chuyển
nhượng này thường không có giấy tờ hợp pháp hoặc có nhưng chưa sử dụng
đúng quy định hiện hành. Mặc dù nó được xác định thuộc quyền sở hữu và sử
dụng của khách hàng vay nhưng việc thế chấp để vay vốn Ngân hàng lại
không đủ điều kiện. Các trường hợp này nếu cứng nhắc trong việc nhận tài
sản thế chấp theo quy định thì chi nhánh không thể cho vay được.
Sau khi xác định được tính hợp pháp về quyền sở hữu và quyền sử
dụng đất của người vay để Ngân hàng nắm được căn cứ pháp lý, tất cả các
món vay đều yêu cầu người vay tự viết đơn theo hướng dẫn của cán bộ tín
dụng. Trong đơn phải ghi rõ nội dung: Chúng tôi (vợ, chồng, con) xin cam
đoan trước ngân hàng và cơ quan pháp luật tài sản (nhà xưởng, nhà ở, cửa

hàng) thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình chúng tôi, chưa chuyển
nhượng, cho thuê, góp vốn liên doanh hoặc cho tặng người khác… Nếu nợ
đến hạn chúng tôi không trả được tiền gốc và lãi thì ngân hàng có toàn quyền
xử lý tài sản trên để thu hồi nợ gốc và lãi. Chúng tôi xin chịu mọi trách nhiệm
trước pháp luật về những lời cam kết trên… Người vay và những người đồng
sở hữu có tên trên hộ khẩu phải ký vào đơn trước sự chứng kiến của cán bộ
13
tín dụng và chính quyền địa phương.
Đối với tài sản là máy móc thiết bị day chuyền sản xuất, khi thế chấp
Ngân hàng niêm phong máy móc dây chuyền sản xuất, làm như vậy thì đảm
bảo được tài sản thế chấp, nhưng doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, như
vậy cơ sở để hoàn trả vốn Ngân hàng tiến hành phân loại, lựa chọn khách
hàng của mình, tìm những khách hàng để tin cậy, tạo điều kiện cho họ được
tiếp tục khai thác trên dây chuyền thiết bị đó, nhưng phải cam kết bảo quản
sửa chữa máy móc thiết bị khi có sự cố xảy ra và buộc khách hàng phải gửi
tiền khấu hao tài sản thế chấp vào Ngân hàng hàng tháng và cam kết phải trả
cho Ngân hàng nếu có rủi ro xảy ra.
Trong trường hợp khách hàng làm hư hại nghiêm trọng không thể phục
hồi lại tài sản thế chấp thì Ngân hàng sẽ lấy số tiền phát mại tài sản thế chấp
và có thể lấy toàn bộ hoặc một phần số tiền từ nguồn tiền gửi khấu hao đã
cam kết trong hợp đồng trên (trong trường hợp còn thiếu), đây là biện pháp
đảm bảo tương đối chắc chắn là Ngân hàng sẽ thu hồi được vốn. Tuy nhiên,
như đã nói ở phần trước việc Ngân hàng có thu được gốc và lãi hay không
phải căn cứ vào tính khả thi của dự án chứ không nên đặt vấn đề tài sản thế
chấp lên hàng đầu như là một cái lá chắn để bao bọc đồng vốn của Ngân
hàng.
Có thể nói thủ tục về tài sản thế chấp hiện nay vẫn còn là rào cản các
DNV&N. Hiện nay các doanh nghiệp này có vốn và tài sản rất nhỏ nên khi sử
dụng tài sản để thế chấp thì vay được một lượng vốn rất thấp so với năng lực
sản xuất kinh doanh của họ. Do đó các doanh nghiệp này thường phải tham

gia vay “nóng” trên thị trường tự do điều đó sẽ làm giá thành, chi phí sản xuất
của doanh nghiệp cao, giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường,
từ đó dẫn tới chỗ phá sản, giải thể, Ngân hàng không thu hồi được nợ, gây
mất ổn định cho nền kinh tế.
14

×