Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

PHÂN TÍCH đặc điểm sọ mặt TRÊN PHIM sọ NGHIÊNG từ XA kỹ THUẬT số ở TRẺ EM 7 TUỔI THEO PHƯƠNG PHÁP RICKETTS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.63 MB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGA

PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM SỌ MẶT
TRÊN PHIM SỌ NGHIÊNG TỪ XA
KỸ THUẬT SỐ Ở TRẺ EM 7 TUỔI
THEO PHƯƠNG PHÁP RICKETTS
Chuyên ngành: Răng hàm mặt
Mã số: 62722801

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN BÁC SỸ NỘI TRÚ BỆNH VIỆN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Nguyễn Thị Thu Phương

Hà Nội - 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO RĂNG HÀM MẶT
BẢN CAM KẾT
Tôi là: Nguyễn Thị Nga
Học viên lớp: Bác sĩ Nội trú Răng Hàm Mặt

Khóa 39

Tôi xin cam đoan:


1

Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của
PGS. TS: Nguyễn Thị Thu Phương. hoàn toàn không sao chép, trùng lặp
với bất cứ nghiên cứu nào đã có trước đây

2

Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên
cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội ngày

tháng

năm 2016

Người viết cam đoan

Nguyễn Thị Nga


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH



6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội phát triển kéo theo sự quan tâm của cộng đồng đến thẫm mĩ
khuôn mặt và chức năng bộ răng. Đã từ rất lâu chỉnh nha đã trở thành một
chuyên ngành riêng biệt góp phần tạo nên vẻ đẹp của khuôn mặt. Từ năm
1931, phim sọ nghiêng ra đời đã làm cho công việc của các bác sĩ chỉnh nha
logic và dễ dàng hơn. Phim không những cung cấp cho bác sĩ chỉnh nha rất
nhiều thông tin về tình trạng bệnh của bệnh nhân để đưa ra kế hoạch điều trị
tối ưu, mà còn có thể tiên đoán được những tăng trưởng bình thường cũng
như bất thường, sự thay đổi có thể xảy ra khi quá trình điều trị chấm dứt.
Từ nhiều thập niên qua, hàng loạt phương pháp phân tích trên phim sọ
nghiêng đã ra đời để khảo sát và mô tả các đặc điểm của cấu trúc sọ mặt răng.
Như phương pháp của Down, Tweed, Steiner, Wits, Ricketts…. Tác giả của
mỗi phương pháp có một cơ sở lí luận riêng trong việc chọn các điểm chuẩn,
mặt phẳng tham chiếu và cách đánh giá đặc điểm hình thái sọ mặt. Các
phương pháp này có những đặc trưng khác nhau cũng như ưu và nhược điểm
riêng [Alexander Jacobson, #3][1].
Năm 1961, trên cơ sở tổng hợp những nghiên cứu của các phân tích
trước đây, Ricketts đã phân tích trên mẫu lớn với nhiều điểm chuẩn, tác giả
tập trung đánh giá tương quan và vị trí của xương hàm dưới so với nền sọ và
đồng thời đưa ra khả năng tiên đoán sự tăng trưởng của cấu trúc sọ mặt- răng
theo tuổi. Ông sử dụng các tâm điểm hình học của nền sọ và xương hàm dưới,
ít thay đổi trong quá trính tăng trưởng do đó cho kết quả chính xác hơn trong
tiên đoán sự tăng trưởng. Ông lấy số đo trung bình của trẻ em Caucasian 9
tuổi làm chuẩn sau đó đưa ra các giá trị không thay đổi và các giá trị thay đổi
theo tuổi kèm theo mức độ thay đổi trung bình mỗi năm [1],[2],[3].
Trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về phân tích phim theo Rickets,

hầu hết là các nghiên cứu dọc để đánh giá được sự tăng trưởng của trẻ em.


7

NeZu (1976) [4]và Kyu Ho Yang (1998) [5] tiến hành nghiên cứu trên trẻ em
ở Nhật Bản và Hàn Quốc, họ đưa ra các chỉ số trung bình ở trẻ 9 tuổi và nhận
thấy rằng có sự khác biệt chủng tộc các giá trị này so với nghiên cứu của
Ricketts trên người da trắng. Ở Việt Nam, Lê Võ Yến Nhi (2009) [6] đánh giá
thay đổi sọ mặt ở trẻ em từ 10 đến 14, Lê Nguyên Lâm (2014) [7] đã nghiên
cứu tăng trưởng cấu trúc sọ mặt răng ở trẻ 12 – 15 tuổi theo phân tích
Ricketts. Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào đưa ra được chỉ số trung
bình của trẻ Việt Nam 7 tuổi và so sánh giá trị này với chủng tộc khác.
Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Phân
tích đặc điểm sọ mặt trên phim sọ nghiêng từ xa kỹ thuật số ở trẻ em 7 tuổi
theo phương pháp Rickkets” với hai mục tiêu.
1. Xác định một số chỉ số xương và phần mền ở trẻ em 7 tuổi trên phim
sọ nghiêng từ xa theo phương pháp Rickkets.
2. Nhận xét mối tương quan giữa xương và phần mền trên phim
cephalametric.


8

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Sự tăng trưởng của phức hợp sọ mặt
1.1.1. Sự tăng trưởng của xương sọ
Khi sinh ra, xương sọ chỉ là những mảnh xương xốp được bao bọc bởi
màng xương, dần dần màng xương sẽ tạo nên khớp xương đặc ở mặt trong và

ngoài từ mô liên kết của nó. Sự tạo xương theo bề mặt này làm tăng thể tích
khối lượng xương sọ. Xương sọ tăng trưởng theo các cách sau:
-

Sự đắp xương bề mặt: sự gia tăng khối lượng não bên trong nên có hiện
tượng tiêu xương ở mặt trong các xương sọ đi liền với hiện tượng đắp
xương ở mặt ngoài. Hai hiện tượng này giúp khối xương sọ gia tăng kích
thước theo ba chiều trong không gian mà không có sự gia tăng đáng kể

-

khối lượng của nó.
Sự tạo xương ở các đường khớp xương: sự cốt hóa xương từ các đường
khớp sụn làm cho xương lớn lên. Do các đường khớp này có ở cả ba chiều

-

không gian nên sự tạo xương giúp sọ phát triển tất cả các hướng.
Sự tăng trưởng của nền sọ: trái với vòm sọ, các xương nền sọ được tạo thành
ban đầu dưới hình thức sụn và sau đó được biến đổi thành xương bởi sự hình
thành xương từ sụn. Những vùng phát triển quan trọng ở nền sọ là các đường
khớp sụn giữa xương bướm và giữa các xương bướm và xương sàng [8].

1.1.2. Sự tăng trưởng của xương mặt
Khối xương mặt gồm hai xương hàm trên, hai xương lệ, hai xương mũi,
xương lá mía, hai xương khẩu cái, hai xương gò má, hai xương xoăn mũi
dưới, xương hàm dưới và xương móng. Tuy nhiên ở đây chúng ta đặc biêt chú
ý đến:
-


Xương hàm trên và xương khẩu cái.
Xương hàm dưới.

1.1.2.1: Sự tăng trưởng của xương hàm trên


9

Xương hàm trên tăng trưởng xuống dưới và ra trước so với nền sọ bằng
hai cách:
- Nền sọ tăng trưởng làm đẩy xương hàm trên ra trước.
- Sự tăng trưởng ở các đường khớp.
Xương hàm trên tăng trưởng theo ba chiều không gian, sự tăng trưởng
của nó ảnh hưởng lớn đến tầng mặt giữa [8],[9].
• Theo chiều rộng:
- Do đường khớp xương ở hai bên đường dọc giữa của hai mấu khẩu cái xương
hàm trên và hai mấu ngang của xương khẩu cái.
- Sự đắp xương ở thân xương hàm ở mặt ngoài và sự tạo xương ổ do mọc răng.
• Theo chiều cao:
- Sự phát triển của nền sọ
- Sự tăng trưởng của vách mũi các đường khớp xương (trán - hàm, gò
má- hàm trên, chân bướm - khẩu cái).
- Sự phát triển xuống dưới của mấu khẩu cái xương hàm trên và mấu ngang của
xương khẩu cái
- Do sự tăng trưởng của xương ổ răng về phía mặt nhai.
• Theo chiều trước sau.
- Ảnh hưởng của sự di chuyển ra trước của nền sọ
- Chịu ảnh hưởng gián tiếp của sự tạo xương ở các đường khớp của xương sọ mặt (vòm miệng - chân bướm, bướm sàng, gò má - thái dương, đường khớp
giữa xương bướm),
- Đường khớp giữa xương hàm trên và xương gò má, xương khẩu cái (mảnh

ngang)
1.1.2.2. Sự tăng trưởng của xương hàm dưới [10]


10

Trong tất cả các xương mặt, xương hàm dưới trải qua sự tăng trưởng ở
hầu hết các giai đoạn và được chứng minh có sự biến đổi đa dạng nhất về mặt
hình thái. Xương hàm dưới tăng trưởng bằng hai cách.
-

Từ xương sụn: sau khi xương đã thành hình, tế bào sụn xuất hiện thành
những vùng riêng biệt (lồi cầu, mỏm vẹt, góc hàm). Sau khi sinh, chỉ có



sụn lồi cầu còn tồn tại và hoạt động cho tới 16 tuổi, có khi đến 25 tuổi.
Vùng khác của xương hàm dưới đều được hình thành và tăng trưởng

bằng sự bồi đắp xương/tiêu xương trực tiếp ở bề mặt.
Theo chiều rộng:
Là kết quả của 2 quá trình tiêu xương ở mặt trong và bồi đắp xương ở

mặt ngoài. Sự đắp thêm xương là ở bờ sau cành lên xương hàm dưới và sự
tiêu xương ở bờ trước nhưng với tốc độ chậm hơn.


Theo chiều cao
Sự tăng trưởng theo chiều cao của xương hàm dưới là sự kết hợp của


những yếu tố:
-

Sự tăng trưởng của xương ổ răng.
Sự đắp xương ở mặt ngoài.

Chiều cao của mặt là kết hợp sự phát triển cân xứng của cành lên, sự
phát triển về mặt nhai của xương hàm trên và xương hàm dưới, xương ổ của
hai hàm cùng với sự ăn khớp của hai hàm và sự phát triển của nền sọ


Theo chiều trước sau:
Trên cành lên xương hàm dưới có sự đắp thêm xương ở bờ sau và sự tiêu

xương ở bờ trước nhưng sự tiêu xảy ra với tốc độ chậm hơn.
Sự tạo hình lại ở phía sau do hiện tượng bồi, tiêu xương sẽ tạo thêm
khoảng cho răng hàm lớn vĩnh viễn mọc.
Do góc tạo bởi nhánh đứng và nhánh ngang xương hàm dưới, đầu lồi cầu
nghiêng ra sau và ra ngoài nên tạo xương ở lồi cầu làm tăng kích thước
xương hàm dưới theo chiều trước sau hơn là chiều cao.


11

1.1.3. Sự xoay của các xương hàm và hướng mọc răng
Hướng mọc răng của các răng hàm trên là xuống dưới và hơi ra trước.
Trong sự tăng trưởng bình thường, xương hàm trên thường xoay ra trước vài
độ (hướng đóng), nhưng cũng có thể xoay nhẹ về phía sau (hướng mở). Sự
xoay ră trước sẽ làm nghiêng các răng cửa trên ra trước, tăng độ nhô của
chúng. Trong khi sự xoay ra sau sẽ làm các răng cửa đứng thẳng hơn và giảm

độ nhô [8],[10].
Hướng mọc răng của các răng cửa hàm dưới là hướng lên trên và ra
trước. Sự xoay bình thường của xương hàm dưới đưa phân trước xương hàm
dưới lên trên (hướng đóng) làm cho răng cửa dưới đứng thẳng hơn. Khi
xương hàm dưới xoay về phía trước quá mức trong kiểu mặt ngắn, các răng
cửa có xu hướng cắn sâu trái lại trong kiểu mặt dài, xương hàm dưới xoay
hướng ngược lại, xuống dưới và ra sau (hướng mở). Kiểu xoay này kết hợp
với cắn hở phía trước (nếu độ trồi răng cửa không đủ bù trừ) làm lùi xương
hàm dưới, chiều cao tầng mặt dưới và góc mặt phẳng hàm dưới sẽ tăng. Sự
xoay xương hàm dưới cũng làm các răng cửa dưới hướng ra trước và làm vẩu
răng [8],[9],[10].
1.2. Lịch sử kỹ thuật đo sọ mặt
1.2.1. Sự hình thành và phát triển
Phương pháp khoa học xác định cấu trúc sọ mặt hay còn gọi là phép đo
sọ mặt (craniometry) có lịch sử phát triển lâu đời. Đầu tiên là phép đo sọ mặt
của các nhà khảo cổ học và các nhà giải phẫu tiến hành trên sọ người chết.
Sau đó các nhà khảo cổ học đã sáng chế ra dụng cụ đo xương sọ khô và chuẩn
hóa các phương pháp đo đạc, nhưng kỹ thuật này không thể áp dụng trên
người sống.
Sau đó phương pháp đo sọ mặt trên người sống được ra đời dựa trên các
nghiên cứu dọc lâu dài. Kỹ thuật đo đạc cấu trúc sọ mặt trên người sống còn


12

dựa vào các điểm mốc xương, người ta gọi là kỹ thuật Cephalometry. Tuy
nhiên kỹ thuật này có nhược điểm là không chính xác do phải đo qua da, mô
mền và gây phiền phức cho bệnh nhân.
Năm 1895, Roentgen phát minh ra tia X đã tạo nên một cuộc cách mạng
trong ngành Y nói chung và trong nha khoa nói riêng. Các cấu trúc sọ mặt bắt

đầu được tiến hành nghiên cứu dựa trên các phim XQ sọ mặt.
Năm 1931, Broadbent (Mỹ) và Holfrath (Đức) đồng thời giới thiệu kỹ
thuật chuẩn chụp phim sọ nghiêng (Sử dụng máy XQ năng lượng cao, tấm
định vị đầu và thước đo), kỹ thuật tạo ra hình ảnh có kích thước 1:1 so với vật
chụp. Từ đó đến nay, phim sọ nghiêng đã trở thành công cụ hữu ích trong
chẩn đoán, điều trị và nghiên cứu của chuyên ngành chỉnh hình răng mặt [11],
[12].
1.2.2. Kỹ thuật chụp phim Cephalometric
1.2.2.1. Máy chụp phim sọ nghiêng
- Thiết bị chứa tia X.
- Hệ thống ghi nhận hình ảnh (hộp đựng phim): ghi nhận hình ảnh chụp
được sau khi tia X xuyên qua các vật thể chụp. Phim chụp có kích thước
8x10inch (203x254mm) hoặc 10x12 inch (254x305mm).
- Bộ cố định giữ đầu bệnh nhân:đầu bệnh nhân được cố định ở trung tâm
thiết bị đỡ đầu. Thanh trán cằm giữ phía trước của trán và được định vị tại
phần gốc mũi của bệnh nhân. Thanh dọc có chứa núm định vị ống tai ngoài
giữ cho mặt phẳng Frankfort của bênh nhân song song với nền nhà.
- Khoảng cách từ bộ phát tia đến đầu bệnh nhân là 5 feet (60”, 152,4cm)
[11] [12].


13

Hình 1.1: Sơ đồ chụp phim sọ mặt nghiêng [12]
1.2.2.2. Tư thế bệnh nhân [11],[12]
- Bệnh nhân được ngồi hoặc đứng.
- Đầu được giữ thẳng tự nhiên hướng ra phía trước và nằm ở trung tâm
của bộ cố định.
- Mắt nhìn thẳng, má hướng về phía hộp đựng phim.
- Bệnh nhân cắn các răng khít với nhau ở tư thế cắn khít trung tâm. Môi dưới

ở tư thế nghỉ, thư giãn, sàn miệng song song với mặt đất.
- Tia trung tâm khu trú vào hố yên.
1.2.2.3. Vị trí phim [11],[12]
Các yếu tố khuếch đại bị ảnh hưởng bởi khoảng cách từ tấm giữ phim
đến mặt phẳng đứng dọc giữa của bệnh nhân.
Để giảm thiểu sai số khuếch đại giữa các bệnh nhân và để đạt được một
số đo nhất định trên một bệnh nhân qua nhiều lần chụp khác nhau, khoảng
cách đề ra là 15cm. Tuy nhiên, trên thực tế, tấm giữ phim càng sát đầu bệnh
nhân càng tốt.
1.2.2.4. Tiêu chuẩn phim [2],[12]
- Chất lượng phim chụp tốt.


14

- Hai lỗ tai trùng nhau.
- Thấy được các điểm mốc trên phim và mô mềm.
1.2.3. Ứng dụng và hạn chế của phim đo sọ mặt


Nghiên cứu tăng trưởng sọ mặt
Nghiên cứu dọc sử dụng phim đo sọ mặt cung cấp thông tin về:
- Các kiểu tăng trưởng khác nhau.
- Mẫu hình chuẩn bình thường, từ đó các nghiên cứu khác dựa vào để so
sánh.
- Dự đoán tăng trưởng trong tương lai.
- Tiên lượng kết quả của một kế hoạch điều trị cụ thể.
- Chẩn đoán khiếm khuyết sọ mặt:
- Phim sọ mặt giúp cho việc xác định, định vị và định lượng nguồn gốc
của vấn đề, kết quả quan trọng nhất là phân biệt giữa lệch lạc răng và

xương.
- Phim đo sọ mặt cho phép bác sĩ chỉnh nha định lượng được mối tương
quan sọ - mặt – răng và qua đó có thể đánh giá chính xác hơn mức độ
sai lệch của bệnh nhân so với chuẩn bình thường.



Lập kế hoạch điều trị [2],[11].
Qua việc giúp chẩn đoán và tiên lượng hình thái sọ mặt tăng trưởng

trong tương lai, phim đo sọ mặt sẽ hữu ích trong việc xây dựng một kế hoạch
điều trị rõ ràng. Thậm chí, trước khi bắt dầu điều trị chỉnh nha, bác sĩ có thể
dự đoán được vị trí cuối cùng của răng trong phạm vi cấu trúc sọ mặt của
bệnh nhân để đạt được kết quả thẩm mỹ và ổn định.
Phim cũng giúp phân biết được những trường hợp có thể điều trị bằng
khí cụ thay đổi tăng trưởng hay cần phải được phẫu thuật chỉnh hình trong
tương lại


15



Đánh giá quá trình điều trị [2],[11].
Theo dõi dọc qua chồng phim đo sọ mặt giúp bác sĩ chỉnh nha đánh giá

tiến triển của quá trình điều trị và giúp cho việc định hướng các thay đổi
mong muốn.



Phân tích sự tái phát sau điều trị [2],[11].
Phim đo sọ mặt giúp xác định nguyên nhân tái phát sau khi điều trị chỉnh

nha và sự ổn định của bệnh nhân sai khớp cắn đã được điều trị, đánh giá
những thay đổi sau điều trị.
1.3. Các phương pháp phân tích phim Cephalometric
Ban đầu, chuyên ngành chỉnh hình răng mặt không biết đến phân tích
phim Cephalometrics do quan niệm cần phải giữ lại tất cả các răng trên cung
hàm và lấy tương quan răng để đánh giá tương quan hai hàm. Nhưng đến
1934, vấn đề nhổ răng được đặt ra và người ta thấy cần phải có các phân tích
về mối tương quan giữa xương hàm với xương hàm, giữa xương hàm với
răng, do đó có nhiều phương pháp phân tích phim Cephalometrics ra đời.
Mục đích của phân tích phim sọ nghiêng là để đánh giá mối quan hệ theo
chiều ngang và chiều đứng của năm thành phần chính cấu tạo nên sọ mặt.
- Xương sọ và nền sọ
- Xương hàm trên (phần không có răng và xương ổ răng).
- Xương hàm dưới (phần không có răng và xương ổ răng).
- Xương ổ răng và răng hàm trên.
- Xương ổ răng và răng hàm dưới.
Có hai hướng cơ bản về phân tích phim sọ nghiêng.
- Dựa vào số đo các góc và đoạn thẳng của bệnh nhân để đưa ra những
so sánh với chuẩn bình thường bằng phép tính toán.


16

- Dựa vào các dữ liệu của bệnh nhân để so sánh với các mô hình chuẩn
qua đó có thể thấy sự khác biệt với chuẩn bình thường mà không cần phải làm
các phép tính toán.
Từ nhiều thập niên qua, hàng loạt phương pháp phân tích trên phim sọ

nghiêng đã ra đời để khảo sát và mô tả các đặc điểm của cấu trúc sọ mặt răng.
Tác giả của mỗi phương pháp có một cơ sở lí luận riêng trong việc chọn các
điểm chuẩn, mặt phẳng tham chiếu và cách đánh giá đặc điểm hình thái sọ
mặt. Các phương pháp này có những đặc trưng khác nhau cũng như ưu và
nhược điểm riêng [1],[10].
1.3.1. Phân tích Downs [1],[11],[13]
Downs thực hiện nghiên cứu trên 20 trẻ em nam và nữ tuổi 12 – 17 có
khớp cắn hoàn hảo và hài hòa về mặt sinh lý của hệ thống cơ mặt. Ông lấy
mặt phẳng Frankfort làm mặt phẳng tham chiếu và đo đạc 10 kích thước định
lượng (5 về xương và 5 về răng)
Kết quả nghiên cứu so sánh với các nghiên cứu tương tự đã giúp Downs
đưa ra các kết luận:
- Có một mẫu đại diện cho dạng trung bình ở các cá thể có khớp cắn
hoàn hảo.
- Có một sự dao động đáng kể ở hai bên số trung bình của mẫu đại diện.
Điều này cho thấy khi đánh giá sự cân bằng và hài hoà của khuôn mặt sự
thay đổi với giá trị trung bình là rất thường gặp.
Sự thay đổi quá mức so với trị số trung bình là bằng chứng của sự hài hoà
hay bất tương xứng của những vùng riêng lẻ. Vorhies và Adams đã mô tả đa giác
minh hoạ những số đo sọ theo phân tích Downs và gọi là đa giác Downs.


17

Hình 1.2: Đa giác trong phân tích Down [2]
Đa giác Downs gồm một trục thẳng đứng biểu hiện các giá trị trung bình
của các số đo khác nhau, các giá trị bên phải hoặc bên trái trục này là giá trị
tối đa hoặc tối thiểu, được nối lại với nhau thành hình zic zắc. Các giá trị nằm
bên phải của đa giác sẽ có khuynh hướng hạng II. Ngược lại, các giá trị nằm
bên trái của đa giác sẽ có khuynh hướng hạng III.

Theo chiều đứng, đa giác được chia thành hai phần: nửa trên của đa giác
biểu thị các giá trị về xương, nửa dưới biểu thị các giá trị về răng.
Một người có đường biểu diễn liên tục trong giới hạn của đa giác cho
thấysự thăng bằng và hài hoà của khuôn mặt và ngược lại.
1.3.2. Phân tích Tweed [1],[10]
Tam giác chẩn đoán của Tweed bao gồm góc mặt phẳng Frankfort - mặt
phẳng hàm dưới (FMA), góc mặt phẳng Frankfort - răng cửa dưới (FMIA),
góc răng cửa dưới - mặt phẳng hàm dưới (IMPA). Mối tương quan giữa 3
góc phim này đưa đến cho những nhà lâm sàng các thông tin về hướng phát


18

triển đứng của bệnh nhân, mối tương quan giữa răng cửa dưới với nền
xương, và độ nhô tương đối hoặc sự thiếu hụt của mặt. Giá trị trung bình của
FMA, FMIA, và IMPA lần lượt là 25, 68 và 87 độ và những góc này thay đổi
đáng kể với những kiểu mặt khác nhau. Nếu kiểu xương theo chiều đứng
phát triển một cách bình thường thì những giá trị này sẽ biểu thị cho một
khuôn mặt hài hòa.

Hình 1.3: Tam giác Tweed [1]
Mục tiêu của phương pháp phân tích Tweed:
- Xác định vị trí răng cửa dưới cần đạt được khi điều trị.
- Tiên lượng kết quả điều trị trên hình tam giác Tweed.
1.3.3. Phương pháp phân tích Steiner [1],[11]
Phương pháp này được Cecil Steiner công bố vào năm 1950. Ông đã
chọn trong các nghiên cứu của Downs, Wylie W., Thomson, Brodie, Riedel,
Holdaway những yếu tố có ý nghĩa để giải thích những vấn đề chỉnh hình
răng mặt. Các giá trị trung bình trong phương pháp Steiner được rút ra từ
những người có khớp cắn bình thường.

Steiner lựa chọn nền sọ trước (đường nối Sella và Nasion) làm mặt
phẳng tham chiếu để đánh giá tương quan hai hàm. Mặt phẳng này ít bị di
lệch dù tư thế đầu có bị xoay khi chụp phim. Hơn nữa, điểm S và Na dễ xác
định trên phim sọ nghiêng.


19

Hình 1.4: Các điểm chuẩn và mặt phẳng chuẩn trong phân tích Steiner [1]
1.3.4. Phân tích Harvold và Wits [1],[2]
Cả Harvold và Wits đều độc lập mô tả mức độ nặng do mất cân xứng
giữa hai hàm.
Harvold đo chiều dài của hàm trên và hàm dưới, sự khác nhau giữa các
số đo chỉ mức độ bất cân xứng giữa hai hàm.

Hình 1.5. Phân tích Harvold và Wits [2]
Để đánh giá mức độ chênh lệch của hàm trên và hàm dưới, Wits vẽ
đường vuông góc từ điểm A của hàm trên và điểm B của hàm dưới đến mặt
phẳng khớp cắn. Hình chiếu của điểm A và B trên mặt phẳng khớp cắn là
AO và BO. Đo khoảng cách AO – BO. Nếu điểm BO nằm trước AO số đo
mang dấu “-”, ngược lại mang dấu +.


20

Theo Wits, giá trị AO – BO ở nam: -2mm đến 4mm, ở nữ: -4,5mm đến
1,5mm. Loại I xương khi AO – BO: -1mm đến 2mm. Loại II xương khi AO –
BO >3mm. Loại III xương khi AO –BO: < -2mm.
Tuy nhiên, phương pháp phân tích của Wits sẽ khó xác định trong trường
hợp cắn hở vì khó xác định được mặt phẳng khớp cắn.

1.3.5. Phân tích Mc Namara [1], [10]
Phương pháp phân tích phim được Mc Namara đưa ra năm 1983 nhằm
giúp cho quá trình lập kế hoạch điều trị của các nhà chỉnh nha và phẫu thuật
điều trị sai lệch xương. Các số đo Mc Namara đưa ra là tổng hợp của các phân
tích trước đó bao gồm của Ricketts, Harvold, Bolton, Burlington, mẫu nghiên
cứu tại trường Ann Arbro. Mc Namara đã sử dụng mặt phẳng Frankfort và
mặt phẳng Ba – Na để làm mặt phẳng tham chiếu.
Độ đài xương hàm trên được tính bằng khoảng cách từ lồi cầu (điểm Co)
tới điểm A. Độ dài xương hàm dưới được tính bằng khoảng cách từ lồi cầu
(điểm Co) tới điểm Gnathion (theo Mc Namara thì Gn là giao giữa N-Pog và
Go-Me). Đây là chiều dài quy ước. Sự khác biệt giữa chiều dài xương hàm
trên và xương hàm dưới xác định mức độ chênh lệch giữa khối xương hàm
trên và xương hàm dưới.
- Ở người có kích thước mặt nhỏ, mức độ chênh lệch 20 – 23mm.
- Ở người có kích thước mặt trung bình, mức độ chênh lệch 25 – 27mm.
- Ở người có kích thước mặt lớn, mức độ chênh lệch 30 – 33mm.
Nếu mức độ chênh lệch mà vuợt quá các giá trị trung bình trên cần xác
định nguyên nhân là hàm trên hay hàm dưới hay do cả hai hàm.
Đánh giá tương quan hàm trên và hàm dưới theo chiều đứng.
Chiều cao tầng mặt dưới được đo bằng khoảng cách từ ANS – Me,
xương hàm trên phát triển quá mức theo chiều đứng làm hàm dưới xoay
xuống dưới và ra sau, làm tăng chiều dài tầng mặt dưới. Ngược lại xương hàm
trên kém phát triển theo chiều đứng làm cho hàm dưới xoay lên trên và ra
trước do đó giảm chiều cao tầng mặt dưới.


21

Hình 1.6: Phân tích Mc Namara [2]
1.3.6. Phân tích của Sassouni [1], [2]

Phương pháp Phân tích của Sassouni là phương pháp đầu tiên nhấn mạnh
sự liên hệ theo tỉ lệ giữa các phần sọ mặt cả về chiều dọc cũng như chiều
ngang. Sassouni chọn các mặt phẳng ngang sau:
- Mặt phẳng nền sọ. (SN).
- Mặt phẳng khẩu cái
- Mặt phẳng cắn khớp
- Mặt phẳng hàm dưới.
Theo Sassaouni, khi khuôn mặt có tỉ lệ cân đối, các mặt phẳng này có xu
hướng gặp nhau tại một điểm. Độ nghiêng giữa các mặt phẳng với nhau phản
ánh tỉ lệ khuôn mặt theo chiều đứng. Nếu các đường thẳng này hội tụ sớm và
phân kì nhanh ngay sau khi gặp nhau có nghĩa là khuôn mặt đó cao ở phía
trước và thấp ở phía sau, trên lâm sàng thường biểu hiện khớp cắn hở. Ngược
lại các đường thẳng hội tụ về phía xa khuôn mặt trên lâm sàng biểu hiện khớp
cắn sâu.


22

Hình 1.7: Phân tích của Sassouni [10]
1.4. Giới thiệu về phân tích Ricketts
1.4.1. Lịch sử về phân tích Ricketts
Năm 1961, trên cơ sở tổng hợp những nghiên cứu của các phân tích
trước đây, Ricketts R. M. đã phân tích trên mẫu lớn với nhiều điểm chuẩn, tác
giả tập trung đánh giá tương quan và vị trí của xương hàm dưới so với nền sọ
và đồng thời đưa ra khả năng tiên đoán sự tăng trưởng của cấu trúc sọ mặtrăng theo tuổi. Nguồn gốc nghiên cứu của Ricketts được thực hiện trên chủng
tộc da trắng gồm 454 nam, 546 nữ, là những ca lâm sàng có các vấn đề chỉnh
nha thông thường, loại bỏ ca hạng III phẫu thuật, ca chấn thương khớp thái
dương hàm và các bệnh nhân hở hàm ếch đã phẫu thuật.
Như vậy, với cỡ mẫu 1000 trong đó hạng I (399 trường hợp), hạng II chi
1(367 trường hợp), hạng II chi 2 (217 trường hợp), hạng III (17 trường hợp). Về

18 tuổi 3 - 6 tuổi (617 trường hợp), 10 tuổi (497 trường hợp),11 - 14 tuổi (343
trường hợp), 15 - 18 tuổi (217 trường hợp), 19 - 44 tuổi (33 trường hợp) [3].


23

Dịch vụ dữ liệu Rocky Mountain phối hợp với những nghiên cứu ban
đầu của Ricketts đã thiết kế một phân tích đo sọ vi tính hóa để định lượng
những đặc trưng về sọ mặt được chi tiết hơn. Kết quả là có một phương pháp
đo sọ khoa học hơn và chính xác hơn dùng làm công cụ lập kế họach điều trị.
Trong khoảng thời gian các số liệu chuẩn đo sọ thỉnh thoảng đã được tái đánh
giá để phản ánh số lượng lớn thông tin thu được từ tất cả các ca đã phân tích.
Trong khi phân tích căn bản chỉ lồng ghép khoảng 10 yếu tố, phân tích sau
lồng ghép 50 số đo sọ. Những giá trị này cho phép máy tính giúp đỡ chẩn
đoán ca bệnh, tiên đoán sự tăng trưởng tương lai và lập kế hoạch các mục tiêu
điều trị dựa trên những thông tin quan trọng hơn nhiều so với những điều thu
thập được từ phân tích 10 yếu tố. Ngoài ra, các chuẩn có thể được điều chỉnh
theo tuổi, kích thước và đặc trưng dân tộc hoặc chủng tộc để tạo ra một khung
phiên giải đo sọ. Các số đo phim mặt nghiêng và mặt thẳng trong phân tích
máy tính của Rocky Mountain được liệt kê cùng với những chuẩn và độ lệch
lâm sàng đối với bệnh nhân da trắng [3],[14].


24

1.4.2. Các điểm chuẩn và mặt phẳng trong phân tích Ricketts [1],[15]

Hình 1.8: Các điểm chuẩn trong phân tích Ricketts [1]
-


N (Nasion): giao điểm khớp trán mũi
Or: điểm thấp nhất bờ dưới ổ mắt.
Po (Porion): điểm cao nhất của bờ trên ống tai ngoài.
Ba (Basion): điểm dưới nhất của bờ trước lỗ chẩm.
Pt: giao điểm của giới hạn trước của lỗ tròn và thành sau của khe chân

-

bướm hàm.
CC (center of cranium): giao của hai đường Ba-N và Pt-Gn.
CF (center of face): giao của FH và đường vuông góc với nó từ Pt (hình

-

chiếu của Pt lên FH)
ANS (Anterior Nasal Spine): điểm gai mũi trước.
PNS (Posterior NasalSpine): điểm gai mũi sau.
Điểm A (Submental hoặc điểm A): điểm sau nhất của xương ổ răng

-

hàm trên.
PM: điểm trên cằm.
Pog (Pogonion): điểm trước nhất của cằm.
Gn (Gnathion): điểm trước nhất và dưới nhất của cằm.
Go (Gonion): điểm dưới nhất và sau nhất của góc hàm dưới.
Xi: trung tâm cành cao xương hàm dưới.


25


Các mặt phẳng chuẩn trên phim sọ nghiêng theo phân tích Ricketts.

Hình 1.9: Mặt phẳng trong phân tích Ricketts [1]
-

Mặt phẳng Frankfort: Đi qua Porion và Orbital.
Mặt phẳng mặt: Đi qua Nasion và Pogonion.
Mặt phẳng xương hàm dưới: Đi qua Gonion và menton.
Mặt phẳng PtV: Mặt phẳng tiếp xúc với khuyết chân bướm hàm và

vuông góc với mặt phẳng Frankfort.
- Mặt phẳng Basion và Nasion chia thành hai khối sọ mặt và sọ não.
- Mặt phẳng khớp cắn: Nối các răng cối lớn thứ nhất và răng tiền cối.
- Đường A – Pog: Nối từ A đến Pogonion.
- Đường thẩm mỹ: Từ nhô của mũi đến Pogonion.
Các trục:
-

Trục mặt: Từ Pt đến Gnathion.
Trục lồi cầu: Từ DC đến Xi.
Trục hàm dưới: Từ Xi đến PM.

1.5. Các nghiên cứu sử dụng phân tích Ricketts trong và ngoài nước


×