Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Chương 2 THỰC TRẠNG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.69 KB, 19 trang )

Chương 2 THỰC TRẠNG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam
2.1.1. Thực trạng các doanh nghiệp ở các doanh nghiệp Việt Nam
Những năm gần đây cùng với xu hướng hội nhập nền kinh tế nước ta
đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Cụ thể năm 2007, tốc độ tăng trưởng
GDP là 8,44%, trong quý 1 năm 2008 đạt 7,4%. Tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu hàng hoá năm 2007 tăng 23,9% so với năm 2006. Trong đó kim ngạch
xuất khẩu tăng 20,5% và kim ngạch nhập khẩu tăng 27% (so với kế hoạch 15%)
do việc thực hiện cam kết mở cửa thị trường và cắt giảm thuế thu nhập
khẩu...Giá trị xuất khẩu hàng hoá Việt Nam năm 2007 ước đạt 48 tỷ. Tuy nhiên
trong hiện nay, tình hình kinh tế gặp nhiều bất lợi do tác động của kinh tế thế
giới, những bất cập yếu kém trong quản lý điều hành kết hợp các nguyên nhân
nội sinh từ nền kinh tế. Như giá dầu thô quý 1 năm 2008 tăng gần 40% so với
giá bình quân năm 2007 và dự báo tiếp tục ở mức cao như hiện nay.Thậm chí có
dự báo cao hơn, lên đến 150 USD\thùng.Giá phôi thép đầu năm 2008 đã tăng
45,1% so với cuối năm 2007, hiện giá chào hàng đã lên tới 900USD\tấn.Giá


phân Urê, giá bột mỳ, giá gạo tháng 3 năm 2008 đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ
năm 2007. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng cao ước tính tăng 12,06% so với
tháng 12 năm 2006. Quý 1 năm 2008 lạm phát cao vẫn ở mức 2 con số, giá tiêu
dùng tháng 3 tăng 9,19% so với tháng 12 năm 2007; nhập khẩu tăng tới hơn 7 tỷ
USD và bằng 56,5% kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy đất nước ta vừa đứng trước
những cơ hội mới, vừa có những thách thức mới tác động đến các hoạt động
kinh doanh và hoạt động tổ chức quản lý của các doanh nghiệp. Đồng thời sự ra
đời của Luật doanh nghiệp 2005, đã có những tác động tích cực đến q trình
phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam, góp phần tạo mơi trường kinh doanh
bình đẳng, thơng thống hơn cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Về mơi
trường chính sách, tiếp theo sự ra đời của các Nghị định, hướng dẫn Luật doanh
nghiệp, Luật đầu tư, mơ hình một cửa liên thơng nhằm đơn giản hố các quy


định về thủ tục hành chính trong ba khâu đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế và
cấp giấy phép khắc dấu cho doanh nghiệp. Trong 5 tháng đầu năm 2007, đã có
20.300 doanh nghiệp thành lập - đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký
135.000 tỷ đồng. Cả năm 2007 có 54.000 doanh nghiệp mới thành lập với tổng
số vốn gần 22 tỷ USD. Xét tình hình chung của từng loại hình doanh nghiệp:
Thứ nhất doanh nghiêp nhà nước khơng chỉ lớn hơn so với các loại hình
doanh nghiệp khác về quy mơ, doanh nghiệp nhà nước cịn rất mạnh nhờ có vị
trí đắc địa,diện tích rộng, thương hiệu được tồn tại nhiều năm...và quan trọng
cịn có các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chủ quản đứng đằng sau. Nhờ vậy một số
doanh nghiệp nhà nước có lợi thế được hưởng nhiều chính sách đặc biệt nên có
kết quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh khá cao. Về số lượng, các doanh
nghiệp nhà nước hiện nay đã giảm nhanh chóng hiện còn khoảng hơn 3% trong
tổng số các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế quốc dân.Nguyên nhân là
do kết quả của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần,đặc biệt là khi Luật
Doanh nghiệp 2005 ra đời và thực hiện chủ trương của nhà nước về sắp xếp lại
các doanh nghiệp nhà nước, giải thể những doanh nghiệp nhỏ, làm ăn thua lỗ,


chuyển sang cổ phần hóa. Năm 2007, theo kế hoạch sẽ sắp xếp khoảng 650
doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, cổ phần hố khoảng 550 doanh nghiệp, gồm
các Tổng Cơng ty, ngân hàng thương mại lớn, doanh nghiệp hoạt động cơng
ích... Trong 5 tháng đầu năm 2007, ước tính đã sắp xếp, chuyển đổi được 80
doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá 45 doanh nghiệp; giải thể, phá sản: 4; giao
bán: 4; chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: 5; hợp nhất,
sáp nhập: 20; chuyển sang mơ hình mẹ con. Trong năm 2007 đã thực hiện cổ
phần hố 20 Tổng Cơng ty và ngân hàng thương mại. Cơ chế chính sách phát
triển doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng chưa kịp
thời, đồng bộ và thiếu tập trung, nhất quán. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và
vừa chưa chủ động xây dựng chiến lược phát triển lâu dài và còn thiếu kế hoạch
kinh doanh, đào tạo, quản lý cụ thể; các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang lúng

túng trong việc liên kết, nhất là liên kết trong cùng một hiệp hội ngành nghề để
giúp đỡ nhau phát triển. Chính quyền địa phương nhận thức về hoạt động của
hiệp hội cũng chưa được đầy đủ.
Thứ hai là các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta ngày càng tăng về số lượng.
Các doanh nghiệp tư nhân bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hộ gia đình (khơng kể hộ gia đình trong lĩnh
vực nơng, lâm, thủy hải sản) đã tăng nhanh về số lượng trong thời gian
ngắn.Năm 2003 là 92.602 doanh nghiệp. Tính riêng năm 2007 sẽ có khoảng gần
40.000 doanh nghiệp tư nhân đã thành lập và đăng ký kinh doanh. Trong đó hai
loại hình doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn có số
lượng tăng nhanh nhất.Tuy nhiên, loại hình doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn
có tỷ lệ tăng cao hơn. Mặc dù số lượng các công ty cổ phần thấp nhất nhưng lại
có tổng số vốn đăng ký là cao nhất trong các loại hình doanh nghiệp Về quy mô
của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phần lớn được xếp vào các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đăng ký khơng q 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm khơng q 300 người). Tính đến thời


điểm hiện nay thì số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới khoảng 98% trên
tổng số doanh nghiệp tư nhân trên toàn quốc.Doanh nghiệp tư nhân vẫn tập
trung chủ yếu vào ngành thương nghiệp, dịch vụ, khách sạn; tiếp đến là ngành
công nghiệp; ngành xây dựng vận tải;...Các doanh nghiệp tư nhân tập trung
nhiều nhất ở các vùng trọng điểm, chủ yếu ở các tỉnh thành phố có nền kinh tế
phát triển như: Bà Rịa – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình
Dương, Đà Nẵng, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương,
Hưng Yên ...
Thứ ba, về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Cùng với chính sách
mở cửa, và sự ra đời của luật đầu tư các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
tăng nhanh về số lượng và quy mơ hoạt động. Số doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi chiếm khoảng 17% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động hiện nay.

Năm 2007, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) đổ vào Việt Nam đã
vượt con số 15 tỷ USD, vượt 15% kế hoạch dự kiến. Tổng số dự án cấp trong
năm 2007 đạt khoảng 1300 dự án, với tổng vốn 14 tỷ USD. Công nghiệp vẫn
đang là ngành thu hút vốn đầu tư lớn nhất, với 7,55tỷ USD, chiếm 56,4% tổng
vốn đầu tư đằng ký. Sau công nghiệp là ngành dịch vụ với 5,65 tỷ USD. Doanh
thu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2007 ước đạt gần 40 tỷ
USD, tăng 25% so với năm 2006. Các doanh nghiệp này thu hút hơn 13.000 lao
động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngồi lên 1.25
triệu người. Lượng vốn đầu tư chủ yếu tập trung ở các khu công nghiệp, khu
chế xuất.
2.1.2 Khái quát hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay
Nền kinh tế nước ta trong năm qua tăng trưởng nhanh thứ hai Châu Á,
bước lên vũ đài toàn cầu. Các nhà đầu tư hoan nghênh Việt Nam như một con
hổ năng động nhất Đông Nam Á . Tính chung đến cuối năm 2007, giá trị sản
xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994) ước tăng 17% so với năm 2006. Trong
đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,4%; khu vực ngoài nhà nước tăng


20,9%; đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngồi tăng 18%. Nếu xét cả quy mơ
và tốc độ kim ngạch xuất khẩu thì khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi
đạt kết quả cao. Trong đó khu vực doanh nghiệp FDI, năm 2007 đạt kim ngạch
xuất khẩu 27,75 tỷ USD (kể cả dầu thô) chiếm tỷ trọng 57,5% tổng kim ngạch
cả nước và tăng 20,5% so với năm 2006.Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước
chỉ đạt 20,25 tỷ USD chiếm 42,2% tổng kim ngạch cả nước và tăng 20,6% năm
2006.
Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ 70% tài sản quốc gia
và hàng năm đóng góp 40% tổng thu ngân sách nhà nước. Vốn đầu tư của khu
kinh tế nhà nước luôn luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng đầu tư xã hội, chiếm
khoảng 46%, quy mơ lao động bình qn một doanh nghiệp nhà nước cao 499,5
người. Nhưng tỷ lệ đóng góp vào GDP không cân xứng chỉ ở mức 37% - 39%,

theo báo cáo của Kiểm toán nhà nước: lợi nhuận trước thuế của các doanh
nghiệp nhà nước là rất thấp từ 0,18% đến 0,8% trong đó các tập đồn có vẻ rất
mạnh như cơng nghiệp đóng tàu là 0,42%, dệt may là 0,8%. Các tập đồn, tổng
cơng ty nhà nước được vay tới 80% lượng vốn từ ngân hàng Thương mại, các tổ
chức tín dụng và cũng là khu vực có nợ nước ngoài lớn nhất chiếm tới 70%
lượng vay. Một số doanh nghiệp được chính phủ vay hộ tiền để kinh doanh đầu
tư hay đầu tư hay được nhà nước bảo lãnh cho các khoản vay của mình. Các
doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực độc quyền, hay có nhiều lợi thế về
mặt bằng, về nền tảng từ trước như: cảng biển, điện lực, nước sạch, bưu chính
viễn thơng, dịch vụ đóng tàu, khai thác và chế biến than, xi măng, sắt thép, rượu
bia và nước giải khát, đầu tư xây dựng nhà ở, dầu khí, dịch vụ vận tải, đường sắt
và hàng khơng...thì làm ăn có hiệu quả. Hiện nay tổng số nợ vốn vay ngân hàng
của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh khoảng 80.000 - 95.000 tỷ đồng. Một
số các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ, cơng trình giao
thơng, xây dựng, chế biến nơng sản, may mặc, cung ứng vật tư hàng hóa ,in ấn
và bao bì, mía đường...thuộc địa phương là những công ty thuộc sự quản lý của
tỉnh thành phố. Số nợ xấu của khối doanh nghiệp này ước tính cũng lên tới


2.500 - 3.000 tỷ đồng. Các tổng công ty xây dựng, cơng ty vận tải là nhóm
doanh nghiệp có số nợ quá hạn cao nhất, kéo dài nhất. Số nợ ước tính hiện nay
lên tới 12.300 tỷ chủ yếu là nợ xấu. Theo đánh giá của Bộ Tài chính hiện nay
chỉ có 44,4% doanh nghiệp nhà nước được phân loại theo nhóm A (tức là có
lãi), 39,5% thuộc nhóm B và số cịn lại thuộc nhóm. Các doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ chiếm khoảng 19,5% tổng số các doanh nghiệp nhà nước. Có nhiều
nguyên nhân tạo ra lỗ và nợ lớn như: nguyên nhân do máy móc thiết bị hiện có
cịn hạn chế; hoặc là cũ kỹ về thời gian sử dụng, chờ thanh lý nhưng không tận;
hoặc là lạc hậu về trình độ thiết bị kỹ thuật cơng nghệ lên đến 10 năm - 30 năm;
hoặc được đầu tư hiện đại nhưng không huy động được hết công suất (nhiều
doanh nghiệp chỉ đạt 50% - 60%); hoặc do ham đầu tư lớn dẫn đến chi phí khấu

hao quá cao, chi phí lãi vay lớn; nguyên nhân do sử dụng nguyên vật liệu vượt
định mức, lãng phí trong đầu tư sản xuất, sản phẩm hư hỏng; hoặc do vốn chủ
sở hữu ít, tỷ lệ vốn vay lớn trong khi mặt bằng lãi suất ở Việt Nam là khá cao
thường có mức là 2 chữ số, cao hơn tỷ lệ lợi nhuận sản xuất kinh doanh bình
quân chung. Hiện nay tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước đã bước sang
giai đoạn quan trọng, đó là cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước lớn. Theo báo cáo
vẫn còn khoảng 2.200 doanh nghiệp nhà nước loại lớn tổng vốn là 31 tỷ USD,
tương đương 31% GDP. Năm 2007 dự tính thực hiện cổ phần hóa các doanh
nghiệp lớn với tổng giá trị 10 tỷ USD. Thủ tướng chính phủ đã tiến hành phê
duyệt 69 dự án phải sắp xếp đối với doanh nghiệp nhà nước. Thực tế cho thấy
tiến trình cổ phần hóa sẽ tiến hành trên nguyên tắc thị trường gắn liền với niêm
yết thị trường chứng khốn. Cổ phần hóa đã thúc đẩy sự phát triển của thị
trường vốn. Có stới 2\3 công ty niêm yết trên thị trường chứng khốn là các
cơng ty cổ phần hóa. Các cơng ty này hoạt động minh bạch hơn, quản trị doanh
nghiệp cũng tốt hơn và giá trị doanh nghiệp tương đương với giá trị thị trường.
Kết quả một cuộc điều tra trên 850 doanh nghiệp sau cổ phần hóa cho thấy bình
qn vốn điều lệ tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận sau thuế tăng
139,7% đóng góp vào ngân sách nhà nước tăng 24,9% thu nhập chung của


doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng có 49%, trong khi đó, con số này của các doanh
nghiệp ngồi quốc doanh là 137% đóng góp vào ngân sách nhà nước tăng
24,9% thu nhập trung bình tăng 12% và mức cổ tức trung bình chia cho các cổ
đơng cũng tăng 17,11%.
Đối với doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam
hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Song trên thực tế nhiều doanh
nghiệp đã vườn lên, có khả năng cạnh tranh và giữ được thị phần tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ, kinh doanh có lãi khơng chỉ ở thị trường nội địa mà
cịn có khả năng xâm nhập vào thị trường quốc tế, ngay cả những thị trường khó
tính như: Nhật, Mỹ, Đài Loan, Hàn Quốc...theo số liệu thơng kê, chỉ tính riêng

năm 2006 đã có 19 nhóm sản phẩm, dịch vụ được xếp vào nhóm mặt hàng có
khả năng cạnh tranh cao của các doanh nghiệp tư nhân. Hiện nay, phần lớn các
doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có thị trường xuất khẩu đa dạng, các doanh
nghiệp tư nhân có khả năng năng động cao khi xâm nhập vào thị trường thế
giới. Tuy nhiên, các doanh nghiệp tư nhân hiện nay gặp nhiều hạn chế do giá
thành sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm và mẫu mã kém, thiếu nguồn nhân
lực. Lao động vừa thừa thiếu không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh hiện tại.
Về lao động kỹ thuật: lực lượng lao động có chun mơn kỹ thuật cịn hạn chế
và chuyển biến chậm 84,48% lực lượng lao động khơng có chun mơn kỹ
thuật. Tính hợp tác giữa các doanh nghiệp cùng ngành và giữa các ngành kém.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Trong q trình tồn
cầu hóa,thị trường trong nước trở thành một bộ phận quan trọng của thị trường
thế giới. Các doanh nghiệp nước ta nói chung buộc phải tiến hành hoạt động
kinh doanh trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Doanh
nghiệp thay vì chỉ chú trọng tới thị trường nội địa như trước kia thì phải tìm
cách mở rộng thị trường quốc tế thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia.Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng
kể góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế cũng như thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chỉ xét trong quý I năm 2008, các doanh


nghiệp đầu tư nước ngồi đã góp vốn đầu tư thực hiện trên 1,68 tỷ USD, tăng
24% so với vốn thực hiện của cùng kỳ năm trước. Doanh thu của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài trong qúy I năm 2008 ước tính đạt 7.600 triệu USD,
tăng 27% so với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị xuất khẩu ước đạt 5.398
triệu USD, tăng 20% so với cùng kỳ; nhập khẩu đạt 6100 triệu USD, tăng 39%
so với cùng kỳ năm trước, nộp ngân sách 355 triệu USD, tăng 19% so với cùng
kỳ.Trong tháng 3 năm 2008, khối doanh nghiệp đâù tư nước ngoài đã thu hút
thêm được 12.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư
nước ngồi tính đến thời điểm này lên 1.172 nghìn lao động, tăng 13% so với

cùng kỳ năm trước. Như vậy, cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát
triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đã góp phần giải phóng
lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể: Về tăng trưởng kinh
tế. Tỷ lệ đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng
GDP của cả nước tăng dần qua các năm. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi thường ở mức 15% - 20% \ năm
trong qua, cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Giá trị kim ngạch
xuất khẩu tăng nhanh. Về thu hút lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi đã góp phần giải quyết việc làm cho lao động, tham gia phát triển
nguồn nhân lực cho cả nước. Thông qua đó, góp phần đáng kể trong việc đào
tạo tay nghề, tiếp thu kỹ năng, công nghệ, và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, rèn
luyện tác phong lao động công nghiệp cho lao động Việt Nam. Thông qua hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngồi, cơng nghệ và kỹ thuật tiên tiến từ nước ngoài
đã được chuyển giao và thực hiện sản xuất trong nước. Trong đó thể hiện rõ
nhất là các thiết bị trong ngành Bưu chính viễn thơng, cơng nghiệp lắp ráp và
chế tạo ôtô, xe máy, kỹ thuật điện tử, tin học...Cùng với việc chuyển giao kỹ
thuật là việc từng bước chuyển giao quy trình quản lý tiên tiến, tay nghề và trình
độ quản lý của nhân lực Việt Nam vì thế được nâng lên đáng kể. Đầu tư trực
tiếp nước ngồi thơng qua doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đã góp phần


đẩy nhanh q trình hình thành các khu cơng nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế
trọng điểm và mũi nhọn của nền kinh tế. Sự phát triển của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi đã thúc đẩy cao cạnh tranh trong nội bộ nền kinh tế.
Trước đây hầu hết các lĩnh vực do kinh tế nhà nước đảm nhận. Hiện nay trừ một
số ngành nghề mà nhà nước độc quyền còn lại hầu hết các ngành nghề sản xuất
kinh doanh khác các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đều tham gia.
Trong đó nhiều lĩnh vực, ngành nghề đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn như:
Lương thực, thực phẩm, chế biến, điện tử, điện lạnh, công nghệ thơng

tin...Chính sự phát triển phong phú đa dạng đó đã tác động mạnh tới các doanh
nghiệp nhà nước, buộc các khu vực kinh tế nhà nước phải cải tổ, sắp xếp lại, đổi
mới công nghệ, phương thức kinh doanh, dịch vụ để tồn tại và đứng vững trên
thị trường. Qua đó, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy sự
cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế khác, làm cho nền kinh tế trở nên năng
động, đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn buộc cơ chế quản lý của nhà nước phải
đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế
thị trường.
2.2. Thực trạng hoạt động ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp
nước ta
2.2.1. Thực trạng trong quá trình chuẩn bị ký kết hợp đồng của các doanh
nghiệp
Hoạt động thương mại trong thời kỳ hội nhập ngày nay quá phong phú đa
dạng và phức tạp. Vì vậy, khi giao kết hợp đồng thương mại đòi hỏi các doanh
nghiệp Việt Nam cần nắm bắt, hiểu biết tốt những thông tin về mặt hàng, đối
tác, thị trường, pháp luật cũng như phải chuẩn bị kỹ năng, kinh nghiệm đàm
phán, soạn thảo các hợp đồng chặt chẽ. Trước hết xem xét q trình chuẩn bị
thơng tin.
Trong thời đại ngày nay, thời đại của thông tin và bùng nổ thông tin, dù là
giao dịch thương mại hay trong bất kỳ lĩnh vực nào, người nắm bắt được thơng
tin nhanh chóng, chính xác nhất sẽ là người chiến thắng. Nhận thức được vai trò


quan trọng này của thông tin đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh, các doanh
nghiệp Việt Nam đã không ngừng củng cố, xây dựng hệ thống thông tin của
doanh nghiệp, tăng cường hoạt động tìm kiếm, xử lý nguồn thông tin. Hệ thống
thông tin kinh tế, xã hội phát triển đã giúp cho doanh nghiệp cập nhật được
nguồn thông tin phong phú và đa dạng. Nhìn chung các doanh nghiệp ngày nay
nhạy bén hơn trong cơng tác tìm kiếm thơng tin. Nguồn thơng tin được tìm kiếm
là về thị trường, sản phẩm, tìm đối tác, bạn hàng, cập nhật các thông tin về luật

pháp trong nước cũng như quốc tế...Có 3 nguồn thơng tin quan trọng nhất mà
các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng là: Thu thập thông tin qua Internet,các
phương tiện thông tin đại chúng; thông qua các tổ chức xúc tiến của Chính Phủ
và thơng qua các nguồn thông tin từ đối tác, bạn hàng. Các khách hàng cung cấp
những thông tin cần thiết cho các nhà cung ứng lần đầu tiên. Cụ thể trong các
doanh nghiệp xuất khẩu thì có đến 52,7% các doanh nghiệp tiến hành thu thập
thông tin qua con đường này, chứng tỏ các nhà xuất khẩu Việt Nam rất tin
tưởng vào khách hàng nước ngồi; có 43,6% số doanh nghiệp dựa vào các
nguồn thông tin trên Internet; 40% các doanh nghiệp thu thập thông tin qua các
tổ chức hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ; và chỉ có 21,85% lấy thơng tin từ các
đại sứ quán và tham tán thương mại ở nước ngồi, cịn lại là thu thập thơng tin
từ các nguồn khác nhau như hội chợ thương mại, các hoạt động điều tra khảo
sát thị trường... Các doanh nghiệp tìm kiếm thơng tin qua các tổ chức xúc tiến
của Chính Phủ chủ yếu từ các kênh chính thức từ Phịng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, câu lạc bộ doanh nghiệp, công báo, cục xúc tiến thương mại
Việt Nam.... Theo thống kê, cụ xúc tiến thương mại đã thực hiện cung cấp và hỗ
trợ trực tiếp \ gián tiếp các thông tin về kinh tế, thương mại, đầu tư, cơ hội kinh
doanh và hợp tác cho trên 1000 lượt doanh nghiệp. Năm 2007, chương trình xúc
tiến thương mại quốc gia đã hỗ trợ gần 4500 lượt doanh nghiệp tham gia các
hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước. Có hơn 2300 hợp đồng, bản
thỏa thuận, ghi nhớ được ký kết, với tổng giá trị trên 400 triệu USD. Trong các
hội chợ triển lãm trong nước đã thu hút được 1580 lượt doanh nghiệp tham gia


với tổng giá trị hợp đồng, thỏa thuận hợp tác ký kết tại hội chợ lên tới 288 triệu
USD. Tháng 7\2007, tại hội chợ Las Vegas Market, Hoa Kỳ đã có 16 doanh
nghiệp Việt Nam tham gia và tại hội chợ Trung Quốc - ASEAN lần thứ tư
(tháng 10\2007) có 90 doanh nghiệp Việt Nam tham gia. Tại hai hội chợ này đã
có hơn 200 hợp dồng đã được ký kết tại hội chợ, trong đó giá trị các hợp đồng
ký tại hội chợ Las Vegas Market là 134.000 USD, tại hội chợ Trung Quốc ASEAN là 800 tỷ đồng. Nguồn tin từ Phịng Thương mại cơng Việt Nam

(VCCI), trong khuôn khổ chuyến thăm ở Mỹ từ ngày 18 đến ngày 24\6\2007,
bên cạnh các hoạt động nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ tổ chức
3 diễn đàn xúc tiến thương mại về đầu tư tại các trung tâm thương mại - tài
chính lớn của Mỹ. Chủ tịch nước sẽ sắp xếp thời gian để tham dự một số sự kiện
trong số những hoạt động của giới doanh nghiệp. Trong 120 doanh nghiệp tháp
tùng Chủ tịch nước bên cạnh các tập đồn lớn, các tổng cơng ty Nhà nước thì
cịn có rất nhiều các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác. Trong khi
đó, rất nhiều doanh nghiệp Mỹ đang làm ăn tại Việt Nam cũng cử đại diện về
nước để làm việc với đối tác Việt Nam ngay trên đất Mỹ.Trong các buổi gặp gỡ
sắp tới của các doanh nghiệp hai bên, mối quan tâm chính của doanh nghiệp
Việt Nam là xúc tiến thương mại, tìm kiếm các bạn hàng để mở rộng xuất khẩu
sang thị trường tiềm năng này. Đồng thời tìm kiếm các đối tác đầu tư cho các
lĩnh vực quan trọng như công nghiệp: hạ tầng và cơng nghệ cao. Trong khi đó,
phía doanh nghiệp Mỹ bày tỏ nhiều sự quan tâm vào các lĩnh vực dịch vụ tài
chính ngân hàng, đầu tư cơng nghiệp, cơng nghệ cao và dịch vụ, tìm kiếm
nguồn cung hàng hóa lớn...Theo dự kiến, trong chuyến đi này, Vietnam Airlines
và Tập đoàn sản xuất máy bay hàng đầu của Mỹ Boeing có thể sẽ ký kết hợp
đồng kinh doanh. Đây sẽ là một trong các hợp đồng lớn nhất trong chuyến đi
này. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp khác sẽ chính thức ký các hợp đồng
hàng trăm triệu USD. Sự kiện này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã rất
thành cơng trong việc tìm kiếm hợp đồng từ Chính phủ.


Nhìn vào cách tiếp cận thơng tin chúng ta thấy rằng: Đa số các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn còn thụ động, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc thu nhận
thông tin qua những nguồn nhất định, chứ chưa chủ động trong việc tìm kiếm
thơng tin. Điều này, một phần do thói quen của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác do hạn chế của các doanh nghiệp
Việt Nam mà chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những hạn chế ở đây
bao gồm cả các hạn chế về vốn, về am hiểu thơng tin thị trường trong và ngồi

nước. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì cơng tác thu thập thơng tin và xử lý
thông tin diễn ra khá chậm.. Nguyên nhân là các doanh nghiệp này không đủ
khả năng tài chính để tự tìm kiếm thơng tin cần thiết cho hoạt động kinh doanh.
Trên thực tế, thì các doanh nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, các
doanh nghiệp nhỏ thì khá thụ động trong việc tìm kiếm thơng tin, chủ yếu chỉ
dựa trên những thơng tin sẵn có Theo số liệu thống kê nghiên cứu của tổ chức
DANIDA\dự án Erenca thì có đến 28,6% số doanh nghiệp nhà nước thu thập
thông tin từ các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu. Ngược lại chỉ có gần 19% số cơng ty
trách nhiệm hữu hạn và 14% công ty cổ phần tìm kiếm thơng tin từ nguồn này,
doanh nghiệp có vốn nước ngồi thì cũng rất hạn chế dựa trên các nguồn thơng
tin này. Điều này có thể do các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài là những đối tượng mới gia nhập so với doanh nghiệp nhà
nước và các doanh nghiệp này thiếu sự hỗ trợ trực tiếp từ nhà nước chính. Vì
vậy các doanh nghiệp tư nhân đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn nước ngồi
phải tích cực tìm cách mở rộng kinh doanh của mình, chủ động tìm kiếm nhiều
nguồn thơng tin khác.Theo quy mô doanh nghiệp, cách tiếp nhận thông tin ta
thấy: Doanh nghiệp có quy mơ lớn hơn thì cần nhiều thơng tin hơn các doanh
nghiệp có quy mơ nhỏ hơn đồng thời có dấu hiệu lo ngại rằng doanh nghiệp nhỏ
có khả năng tiếp cận thị trường hạn chế hơn so với các doanh nghiệp có quy mơ
lớn hơn. Doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thường rất quan
tâm đến vấn đề thông tin và triển khai nghiên cứu, có chiến lược phát triển từ rất
sớm. Loại doanh nghiệp là doanh nghiệp nhỏ và vừa, do năng lực có hạn, khơng


có chính sách rộng về thị trường trong và ngồi nước nên việc nắm bắt và triển
khai thực hiện còn yếu, Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp thơng tin. Tuy
đã đăng tải thông tin trên trang web, nhưng do đặc điểm ở Việt Nam tỷ lệ doanh
nghiệp cập nhật thông tin trên trang web không nhiều, nên Nhà nước đã cho in
ấn tài liệu phát không. Theo phản ánh từ cả phía doanh nghiệp và các thương vụ
của Việt Nam tại nước ngồi, hiện nay có tình trạng vừa thừa vừa thiếu thông

tin. Nhiều thông tin thị trường nước ngồi rất cần cho doanh nghiệp nhưng lại
khơng có hoặc đến chậm. Mặt khác, các thương vụ lại phản ánh khá nhiều tài
liệu từ phía doanh nghiệp Việt Nam được soạn thảo với nội dung không trọng
tâm, trọng điểm, khơng phân biệt rõ đối tượng đọc và trình bày không chuyên
nghiệp làm giảm hiệu quả thu hút quan tâm của khách hàng nước ngồi, thậm
chí tạo ra tác dụng ngược chiều. Như vậy, hệ thống quản lý thông tin trong các
doanh nghiệp Việt Nam chưa được đầu tư quan tâm đúng mức để có thể thu
thập cũng như tạo điều kiện cho các đối tác tiếp cận nhằm thúc đẩy hoạt động
kinh doanh thương mại giữa các doanh nghiệp.
Mặc dù, các doanh nghiệp có thể tiếp cận với rất nhiều nguồn thông tin
phong phú nhưng khả năng tiếp cận xử lý các thơng tin của các doanh nghiệp
cịn yếu nhất là những thị trường trên thế giới. Hiện nay, cũng khơng ít các
doanh nghiệp do thiếu thơng tin về đối tác, hàng hóa như: mẫu mã, quy cách,
chất lượng sản phẩm, chủng loại sản phẩm...dẫn đến những đổ vỡ trong các hợp
đồng thương mại. Một ví dụ gần đây là việc tranh chấp hợp đồng thương mại
giữa công ty Dũng Hải và công ty Stemcor là một bài học đắt giá. Là doanh
nghiệp chuyên sản xuất, kinh doanh các mặt hàng thép có thâm niên nhập khẩu
nguyên vật liệu từ nước ngoài nên khi nhận được thư chào hàng của đại diện
công ty trách nhiệm hữu hạn Stemcor (SEA) có trụ sở tại 350 đường Orcgard,
số 18 Shaw House, Singapore và văn phịng đại diện tại số 2, Ngơ Quyền, Hà
Nội về mặt hàng thép lá cán nóng có chiều dài ''tối thiểu 600 - 1200 mm,tối đa
1500 - 4000 mm, tỷ lệ cong vênh chiếm 5%\500 tấn''; công ty Dũng Hải đã tiến
hành ký kết hợp đồng thương mại số SP 27929T với SEA và hàng đã được


chuyển về bãi của công ty Dũng Hải. Nhưng sau khi thanh toán và nhận hàng,
Dũng Hải nhận ra hàng của mình của mình tồn là ''sắt vụn''. Lúc này bản hợp
đồng thương mại mới bộc rõ những khuyết điểm bất lợi cho người mua. Hợp
đồng này cho thấy rõ điểm sơ hở nhất là điều khoản về chất lượng hàng hố chỉ
quy định "hàng gồm nhiều loại” và khơng có chi tiết hàng hóa với tình trạng

"mức độ gỉ nhẹ". Chất lượng quyết định giá trị hàng hoá nhưng điều khoản chất
lượng trong chất lượng rất sơ sài, không có sự mơ tả cụ thể. Điều này đã khiến
bên mua không thể biết giá trị thật sự của lô hàng. Về giám định hàng hố, theo
hợp đồng thì 2 bên bắt buộc phải mời công ty SGS giám định nếu bên mua thấy
có vấn đề về chất lượng nhưng phải thực hiện ngay tại cảng. Nếu muốn mời cơ
quan giám định khác thì phải được sự đồng ý của cả 2 bên. Vì vậy mặc dù Dũng
Hải đã mời Vinacontrol giám định nhưng nếu không được sự đồng ý của cơng
ty Stemcor thì chứng thư giám định trên vơ hiệu. Theo ơng Hải giám đốc cơng
ty thì hợp đồng này trị giá 327.600 USD là rất nhỏ so với giao dịch thương mại
mỗi năm không dưới 20 triệu USD của Dũng Hải. Thiệt hại của hợp đồng ước
tính khoảng 110.000 USD cũng khơng gây nhiều khó khăn cho cơng ty.
Về thực trạng về vấn đề hiểu, áp dụng đúng pháp luật trong quá trình ký
kết hợp đồng kinh doanh thương mại. Hiện nay, khi chúng ta đã đi sâu vào hội
nhập, lại có tình trạng rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm được một
số tri thức cơ bản về những quy định của những quy định của WTO, tập quán
quốc tế, công ước quốc tế... Công ước vienn năm 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế (CISG) được soạn thảo bởi uỷ ban của liên hợp quốc về luật
thương mại, trong một nỗ lực hướng tới việc thống nhất về luật pháp áp dụng
chung cho hợp đồng mua bán hàng quốc tế. Tuy Việt Nam chưa tham gia vào
CISG nhưng các tranh chấp trong mua bán hàng hoá quốc tế của doanh nghiệp
nước ta vẫn có thể xét xử theo cơng ước này. Bộ cơng thương, phịng thương
mại và cơng nghiệp Việt Nam có các hoạt động tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu tiếp
cận và nắm được tinh thần và nội dung của công ước này. Các hoạt động như tổ


chức khố đào tạo, đăng tải thơng tin trên mạng, trên các phương tiện thông tin
giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận.
.Hiên nay, một số doanh nghiệp xuất khẩu đã ký kết hợp đồng rất lớn đối với
đối tác nước ngồi nhưng lại khơng nắm được những qui định của nước nhập

khẩu và thế giới như thế nào mà chỉ nắm được các qui định trong hợp đồng.Bên
cạnh đó, tuy đã có các điều ước quốc tế nhưng chúng ta lại quên một điều ở mỗi
nước lại có những quy định, luật riêng, miễn là những quy định, luật lệ đó
khơng trái với những điều ước quốc tế mà họ đã đăng ký. Cho nên có những
trường hợp, khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hóa chúng ta vấp phải những
qui định riêng của những nước có đối tác. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi
các nước chịu rằng buộc bởi nhiều hiệp định thì các nước lại đưa ra những rào
cản kỹ thuật. Một ví dụ như rào cản an toàn vệ sinh thực phẩm. Vừa rồi một
doanh nghiệp xuất khẩu 5000 tấn lạc khi sang tới cảng thì hàng khơng được
nhập khẩu vì một lý do hết sức đơn giản là hàm lượng aflatoxin ở nước đó qui
định thấp, trong khi doanh nghiệp ký kết hợp đồng lại khơng để ý nên đã phải
chở tồn bộ số lạc trên về nước.
Theo điều tra, nhận xét của các chuyên gia kinh tế, hiện nay trình độ đàm
phán và ký kết hợp đồng của các doanh nghiệp Vịêt Nam cịn q đơn giản và
sơ lược trong khi đó các mối quan hệ thương mại ngày càng phong phú, phức
tạp cho nên những hợp đồng ký kết theo kiểu cũ khơng cịn phù hợp nữa. Có
những hợp đồng ký kết của các đối tác nước ngoài dày tới 100 trang, trong đó
có đầy đủ phụ lục kèm theo. Trong khi nhiều hợp đồng của chúng ta chỉ có 2 - 3
trang là có chữ ký. Một cái khó nữa là trong thời đại công nghệ thông tin nên ký
kết hợp đồng thông qua fax, email cũng được chấp nhận. Đặc biệt cần chú ý khi
ký kết hợp đồng qua fax cần kiểm tra tính xác thực của fax, khi nhận lại phải
kiểm tra vì hay có sự thay đổi trong khi đối tác fax lại. Đôi khi các doanh
nghiệpViệt Nam chủ quan không kiểm tra lại hoặc bỏ qua đã gặp nhiều bất lợi
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty.


2.2.2. Thực trạng trong quá hoạt động đàm phán ký kết hợp đồng thương mại
của các doanh nghiệp
Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam thường bước vào cuộc đàm phán
với tư thế khá bị động, thiếu sự chuẩn bị về con người và thiếu thông tin về đối

tác. Trong khi các doanh nghiệp nước ngồi khơng chỉ thu thập thơng tin về đối
tác mà cịn tìm hiểu cả phong tục tập qn và văn hóa, thì các doanh nghiệp
Việt Nam thường coi nhẹ vấn đề này. Nhiều doanh nghiệp khi sắp đàm phán
mới gõ cửa các cơ quan xúc tiến thương mại để nhờ dị hỏi thơng tin về đối tác.
Trong khi để có thể phân tích kỹ lưỡng các thơng tin như thế địi hỏi phải có
một khoảng thời gian nhất định. Chính vì vậy, chúng ta thường khơng hiểu được
tâm lý và các hành vi cư xử của đối tác.Đó là chưa kể việc lựa chọn người tham
gia đàm phán cũng chưa được thực hiện một cách kỹ càng và không thật sự xuất
phát từ yêu cầu thực tế của q trình thương thuyết, mà cịn mang tính chiếu lệ,
cho đầy đủ ban bệ. Việc thay đổi trưởng nhóm thương thuyết một cách bất ngờ,
khơng có lý do chính đáng cũng có thể gây tâm lý khơng thoải mái, nghi ngại
cho phía đối tác nước ngồi trong suốt thời gian cịn lại của q trình đàm phán.
Hiện nay, một trong những điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam, đó là
các đàm phán viên chưa được trang bị đầy đủ các kỹ năng đàm phán. Họ thường
thiếu linh hoạt trong việc tìm kiếm các giải pháp mới và thường quá tập trung
vào vấn đề đang được đàm phán mà quên đi một phần rất quan trọng của quá
trình đàm phán là tạo dựng được một bầu khơng khí mang tính hợp tác và chia
sẻ, cảm thơng. Do khơng chuẩn bị kỹ lưỡng, các doanh nghiệp thường khơng có
chiến lược đàm phán hiệu quả cũng như các kịch bản tình huống dự phịng. Các
cơng ty nước ngồi khi đàm phán với các đối tác ở Việt Nam đã chuẩn bị rất
nhiều phương án tình huống khác nhau. Cách đặt vấn đề và tiếp cận từng đối tác
Việt Nam cũng được chuẩn bị khơng giống nhau. Trong khi đó, các đối tác Việt
Nam hồn tồn khơng có các kịch bản dự phịng.
Có một số các doanh nghiệp Việt Nam tham dự đàm phán thì có thái độ
cứng nhắc và những điều kiện của doanh nghiệp gần như là bất di bất dịch, ngay


cả với những điểm ít quan trọng có thể thỏa hiệp được. Các doanh nghiệp này
ln có thái độ e ngại khi phía đối tác nước ngồi đưa ra các yêu cầu mới. Điều
này đã gây cho phía đối tác nước ngồi ấn tượng khơng tốt về tính chun

nghiệp và khả năng thích ứng trong kinh doanh. Trong khi ấy, một số các
doanh nghiệp khác đã dễ dàng chấp nhận điều kiện của đối tác đưa ra sau khi
mặc cả... lấy lệ. Khi đàm phán với doanh nghiệp Việt Nam, đối tác nước ngoài
thường đưa ra bản hợp đồng bằng tiếng Anh, có thể có cả bản dịch tiếng Việt.
Tuy nhiên, các công ty Việt Nam nên tự dịch lại từ bản tiếng Anh. Doanh
nghiệp cần nhờ những người có chuyên môn, am hiểu lĩnh vực mua bán mới
tránh được việc hiểu lầm những thuật ngữ tiếng Anh được sử dụng trong hợp
đồng.
Trong một vài cuộc đàm phán khác, các thành viên của phía đối tác Việt
Nam cũng thường bị phân tán bởi lợi ích cá nhân như các chuyến đi khảo sát,
phần trăm hoa hồng của các hợp đồng...Chính vì những lợi ích cá nhân này mà
đơi khi các nhà đàm phán đã đặt bút ký vào những hợp đồng với các điều khoản
có lợi cho phía đối tác nước ngồi. Thường tình huống này hay xảy ra với các
doanh nghiệp nhà nước hơn là các doanh nghiệp tư nhân hay cổ phần. Mặt khác
các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay do thiếu tính minh bạch trong kinh doanh
nên thường khơng có vị thế cao trong các cuộc đàm phán.
2.2.3. Thực trạng hoạt động ký kết hợp đồng thương mại trong kinh doanh
của các doanh nghiệp
Hợp đồng kinh doanh, dù được soạn thảo bằng văn bản hay chỉ là những
thỏa thuận bằng lời, đều đóng vai trị là “hịn đá tảng” cho các hoạt động đầu tư
và phần lớn các hoạt động kinh doanh khác của công ty. Mỗi hợp đồng sẽ là cơ
sở tạo thành các yếu tố liên quan, từ đó thiết lập các quan hệ kinh doanh giữa
các đối tác như nhân lực, khách hàng, nhà thầu, chi phí, quyền lợi và trách
nhiệm…Xây dựng được mẫu hợp đồng chuẩn sẽ giúp công ty tập trung quản lý
vào các vấn đề thiết yếu. Muốn vậy, trước tiên, các công ty phải xác định rõ mối
quan hệ làm ăn, sau đó là xác định những điều khoản và nội dung thiết yếu của


mối quan hệ kinh doanh đó, chẳng hạn như quyền và trách nhiệm của các bên,
bồi thường như thế nào khi có thiệt hại xảy ra… Những bản dự thảo hợp đồng

tạm trong quá trình lên kế hoạch kinh doanh sẽ đảm bảo cho công ty sớm nhận
diện và xử lý kịp thời các vấn đề thiết yếu có thể bị bỏ qua.
Thực tế cho thấy đã có nhiều trường hợp các bên giao kết hợp đồng với
nhau và tiến hành các hoạt động kinh doanh, nhưng rồi khi một tranh chấp nhỏ
xảy ra, một trong hai bên đối tác lại lợi dụng sự thiếu chặt chẽ trong hợp đồng
để thu lợi riêng cho mình. Chẳng hạn, nếu đối tác ký kết hợp đồng với doanh
nghiệp chưa có giấy phép đăng ký kinh doanh và quá trình thực hiện hợp đồng
kinh doanh có phát sinh tranh chấp, mà đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp
họ vẫn chưa hoàn tất thủ tục pháp lý đó để thực hiện phần việc đã thoả thuận
trong hợp đồng, thì hợp đồng kinh doanh này bị coi là vơ hiệu tồn bộ. Lúc này,
người thiệt hại sẽ là doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là các bên được phép lựa
chọn hình thức thích hợp khi ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn
pháp luật trong các giao dịch hợp đồng giữa các bên, cũng như để bảo vệ trật tự
pháp luật và lợi ích kinh doanh đối với một số loại hợp đồng pháp luật đòi hỏi
người chịu trách nhiệm ở công ty giao kết hợp đồng phải tuân theo những hình
thức nhất định, ngược lại, hợp đồng đó sẽ khơng có hiệu lực. Vì thế, yếu tố hình
thức hợp đồng kinh doanh và ảnh hưởng của nó đến hiệu lực của hợp đồng sẽ
rất quan trọng trong các hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó vấn đề đặt ra đối
với các doanh nghiệp Việt Nam là kỹ thuật soạn thảo hợp đồng, các điều khoản
trong hợp đồng thiếu sự chặt chẽ. Hiện nay, cùng với sự tăng lên nhanh chóng
của các hợp đồng được ký kết thành công trong các doanh nghiệp Việt Nam thì
tình trạng tranh chấp thương mại cũng diễn ra ngày càng phong phú và đa dạng.
Song trước đây, đại đa số các vụ kiện, khoảng 80%, là do doanh nghiệp nước
ngoài kiện doanh nghiệp Việt Nam, nhưng trong khoảng 3 - 4 năm gần đây thì
số lượng các vụ kiện các do doanh nghiệp Việt Nam kiện các doanh nghiệp các
doanh nghiệp nước ngoài lại nhiều hơn. Trong năm 2007, vừa qua, Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam có tới 60 % các đơn kiện là của các doanh nghiệp


Việt Nam kiện các doanh nghiệp nước ngoài. Sở dĩ có sự chuyển đổi này là vì

trước đây các doanh nghiệp Việt Nam có tiềm lực yếu, hiểu biết ít nên khi ký
kết hợp đồng thì thường vi phạm hợp đồng cho nên các doanh nghiệp nước
ngồi kiện. Cịn hiện nay, khi chúng ta bước vào thời kỳ hội nhập, các doanh
nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ ''bơi ra biển lớn'' nên cịn rất non kém.
Chính vì thế các doanh nghiệp nước ngoài thường lợi dụng sự non kém của các
doanh nghiệp Việt Nam cho nên các doanh nghiệp Việt Nam thường bị lép vế
và dẫn đến thua thiệt. Để tự bảo vệ mình khỏi những thua thiệt thì các doanh
nghiệp Việt Nam phải đi kiện doanh nghiệp nước ngồi. Vì vậy, một lưu ý với
các doanh nghiệp là khi ký kết hợp đồng thương mại với các đối tác nước ngồi,
doanh nghiệp phải lường trước sẽ có tranh chấp hoặc có thể có tranh chấp xảy
ra nên bao giờ trong hợp đồng cũng phải nêu rõ nếu có tranh chấp xảy ra thì hai
bên phải thương lượng, nếu khơng thương lượng được thì giải quyết bằng trọng
tài và ghi kèm theo tổ chức trọng tài cụ thể.



×