Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận cao học, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.63 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay trải qua năm hình thái kinh
tế xã hội với bốn kiểu nhà nước là Nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản và
XHCN. Cả bốn kiểu nhà nước này đều có liên hệ mật thiết với pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không phải là một kiểu nhà
nước gắn liền với một giai cấp như nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản, xã
hội chủ nghĩa, mà là một hình thức tổ chức nhà nước, một trình độ phát triển
của nhà nước về phương diện tổ chức quyền lực để bảo đảm Hiến pháp và
pháp luật giữ địa vị tối cao. Hay nói một cách khác đó là hệ thống các tư
tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước
quản lý xã hội theo pháp luật.
Quan điểm xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã được thể hiện trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo nhà nước ta. Từ khi
còn hoạt động bí mật đến sau Cách mạng Tháng Tám thành công, quan điểm
này đã được khẳng định ngay trong Hiến pháp năm 1946 và tiếp theo được
thể hiện ngày càng rõ nét hơn phù hợp với từng giai đoạn cách mạng trong
các bản Hiến pháp 1959, 1980. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định : "Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung
ương đều do dân cử". Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 và
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đều khẳng
định : "Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân".
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh
cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường
pháp chế, trong đó nhiệm vụ cốt lõi là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.


Trên cơ sở đó và trong khuôn khổ của môn học, nhằm nhận thức rõ hơn


về vấn đề này, em chọn đề tài Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay làm đề tài cho nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong chính trị học, nhà nước là phạm trù trung tâm nên được sự quan
tâm nghiên cứu hàng đầu của các nhà khoa học chính trị. Hơn nữa, nhà nước
không chỉ có các nhà khoa học chính trị nghiên cứu mà còn được các nhà luật
học… nghiên cứu. Chính vì vậy vấn đề nhà nước nói chung mà nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta nói riêng đã được sự quan tâm nghiên cứu khá
kỹ lưỡng của nhiều nhà khoa học. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu
cụ thể như sau:
- Phó GS.TS Bùi Xuân Đức với cuốn “Đổi mới, hoàn thiện nhà nước
trong giai đoạn hiện nay”, NXB Tư pháp, H.2007
-TS. Lê Văn Thảo, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo
của Đảng”, Nxb Tư Pháp. H.2006
- Nguyễn Văn Thanh, “Bước đầu tìm hiểu về vấn đề xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam”, NXB Thanh niên, H.2006
Song do cầu của môn học và với cách tiếp cận mới, em xin làm rõ hơn
vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề nhà nước pháp quyền nói
chung và thực trạng việc xây dựng nhà nước XHCN Việt Nam nói riêng để từ
đó đưa ra những quan điểm cơ bản về phương hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về nhà nước pháp quyền nói
chung và Nhà nước pháp quyền XHCN nói riêng


- Phản ánh thực trạng quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN

ở nước ta.
- Đưa ra những quan điểm và phương hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng lý luận, phương pháp luận
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như: Phương pháp thu thập tài
liệu, phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, hệ thống, so sánh…
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết kuận và danh mục tài liệ tham khảo, đề tài
gồm 3 chương 8 tiết


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1 Khái niệm nhà nước pháp quyền
Trong thời gian gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng
như trong giới nghiên cứu khoa học nói rất nhiều về vấn đề nhà nước pháp
quyền. Vậy nhà nước pháp quyền là gì? Phải hiểu nó như thế nào mới đúng?
Nhà nước pháp quyền không phải là vấn đề mới lạ, mà là một phạm trù
có nguồn gốc lịch sử. Sự ra đời và phát triển của tư tưởng: “Nhà nước pháp
quyền” gắn liền với sự ra đời và phát triển của dân chủ, của tư tưởng loại trừ
sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật. Nhà nước pháp quyền
đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức
pháp lý của tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước. Đó là hai yếu tố không
thể thiếu được khi nói đến Nhà nước pháp quyền nói chung.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Nhà nước tồn tại không thể thiếu pháp luật, ngược lại thiếu
Nhà nước, pháp luật trở nên vô nghĩa. Bởi vì, pháp luật do Nhà nước ban

hành và đảm bảo thực hiện. Nhà nước cần đến pháp luật vì thông qua pháp
luật, dựa vào pháp luật, nhà nước mới quản lý được đời sống xã hội. Dựa trên
pháp luật và các công cụ khác, Nhà nước thiết lập một trật tự xã hội. Tuy vậy,
lịch sử cho thấy không phải khi nào có nhà nước, có pháp luật là có ngay Nhà
nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền không phải là kiểu nhà nước xét theo
học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã hội. Nhà nước pháp quyền ra
đời ở một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội.
Nhà nước pháp quyền từ quan điểm, tư tưởng đã dần trở thành thực tế
lịch sử.
Trong khoa học pháp lý bàn về khái niệm Nhà nước pháp quyền vẫn
còn nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau. Có ý kiến cho rằng Nhà


nước pháp quyền là một hình thức nhà nước. Ý kiến khác lại cho rằng Nhà
nước pháp quyền là một phương thức quản lý xã hội và thực hiện quyền lực
nhà nước. Nhiều ý kiến cho rằng có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước
pháp quyền XHCN, nhưng nhà nước pháp quyền XHCN ở trình độ phát triển
cao hơn nhà nước pháp quyền tư sản.
Tuy vậy, Nhà nước pháp quyền được hiểu tập trung theo hai khía cạnh
chủ yếu sau:
Ở nghĩa chung nhất, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó pháp
luật thống trị trong xã hội. Nhà nước phải điều chỉnh được các quan hệ xã hội
bằng pháp luật, một quốc gia nào đó chủ yếu điều chỉnh bằng văn bản dưới
luật thì quốc gia đó chưa đủ về chất của Nhà nước pháp quyền.
Mặt khác, Nhà nước pháp quyền còn được hiểu là một hình thức tổ
chức Nhà nước và hoạt động chính trị quyền lực công khai, thể hiện mối quan
hệ bình đẳng giữa các cá nhân và Nhà nước dựa trên cở sở của pháp luật.
Tại hội thảo về Nhà nước pháp quyền của các nước cùng sử dụng tiếng
Pháp, tổ chức tại Bê-nanh tháng 9 năm 1991, từ các giác độ khác nhau, luật
gia của trên 40 nước đã đưa ra các quan điểm như sau:

Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà ở đó quyền và nghĩa vụ của tất cả
và của mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo hộ; Nhà nước pháp quyền
được định nghĩa chung là một chế độ mà ở đó Nhà nước và các cá nhân phải
tuân thủ pháp luật, tức là một thứ bậc các quy phạm pháp luật được bảo đảm
thực hiện bằng toà án độc lập; Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá
trị cao nhất của con người; Nhà nước phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm cho
công dân được chống lại chính sự tuỳ tiện của Nhà nước, Nhà nước đề ra pháp
luật đồng thời phải tuân thủ pháp luật, tự đặt cho mình và các thiết chế của
mình trong khuôn khổ pháp luật. Phải có các cơ chế khác nhau để kiểm tra tính
hợp pháp và hợp hiến của pháp luật cũng như các hành vi của bộ máy hành
chính...đặc điểm của Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phải tạo ra cho công


dân sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những điều
được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền là một chế
độ mà ở đó Hiến pháp thống trị, nhưng phải là một Hiến pháp được xây dựng
trên sự tự do và quyền công dân được bảo đảm thực hiện.
Trong cuốn tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội IX của
Đảng có định nghĩa: Nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không phải
là một kiểu nhà nước, trong lịch sử chỉ có bốn kiểu nhà nước: chủ nô, phong
kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền nói một cách khái quát là
hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức,
hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp
quyền là nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật. Đương nhiên, bao giờ pháp
luật cũng mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Tại bài viết về “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân” của Chủ tịch nước Trần Đức Lương đăng trên Tạp chí Cộng
sản số 1/ 2002 có đoạn viết: Nhà nước pháp quyền, nói một cách khác là hệ
thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt
động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là

nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và đề cao quyền con người, quyền
công dân.
Như vậy, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm, tư
tưởng rất phức tạp, phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau: Tiếp cận
nhà nước pháp quyền dưới giác độ tư tưởng, lý luận, bàn về các quan điểm,
quan niệm về nhà nước pháp quyền. Lý luận về Nhà nước pháp quyền và Nhà
nước pháp quyền XHCN đang còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong
chương trình khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX - 04.
Khái niệm Nhà nước pháp quyền có nhiều cách tiếp cận khác nhau,
nhưng chung quy lại Nhà nước pháp quyền là khái niệm bao hàm những nội
dung rất phong phú, chứa đựng những đặc trưng, những mặt cơ bản, ghi nhận


một trạng thái phát triển, một trình độ phát triển của Nhà nước và tiến bộ xã
hội. Tựu chung các ý kiến thường lấy các dấu hiệu đặc trưng để xác định nội
hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền, như: tính tối cao của Luật, sự phân
công quyền lực, dân chủ và bảo đảm quyền con người, trách nhiệm qua lại
giữa nhà nước và công dân; tính độc lập của nền tư pháp... Theo đó: Nhà
nước pháp quyền hiểu chung nhất là Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trên cơ sở pháp luật, trong đó mọi chủ thể kể cả nhà nước đều phải tuân thủ
nghiêm chỉnh pháp luật - một hệ thống pháp luật có tính phổ biến cao (đề cao
tính tối cao của Hiến pháp và luật), phù hợp với ý chí, thể hiện đầy đủ những
giá trị cao cả nhất của xã hội, của con người.
1.2. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
1.2.1. Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Chủ nghĩa duy vật lịch sử và thực tiễn chỉ ra cho chúng ta thấy rằng bất
kỳ nhà nước nào cũng là nền chuyên chính của giai cấp thống trị. Giai cấp
nắm quyền thống trị về kinh tế sẽ nắm quyền thống trị về chính trị thông qua
bộ máy nhà nước của mình. Trong chế độ ta, giai cấp công nhân giữ vai trò
lãnh đạo xã hội. Vì vậy, nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, được

thể hiện ở toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách,
đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhằm từng bước thực hiện
ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích giai cấp, nhân dân lao
động và cả dân tộc.
Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc là thống nhất. Sự thống nhất ấy bắt nguồn từ bản chất của cách mạng
XHCN do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì vậy, nhà nước ta mang bản chất
giai cấp công nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân
dân. Bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân hoà quyện
vào nhau, được quán triệt, cụ thể hoá, thể chế hoá trên mọi lĩnh vực, mọi tổ
chức, mọi hoạt động của nhà nước. Và cũng chỉ có nhà nước mang bản chất


giai cấp công nhân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo mới đại biểu cho
lợi ích chung của nhân dân lao động, của dân tộc. Tính nhân dân thể hiện ở
chỗ nhà nước là của dân, quyền lực thực sự ở nơi dân, chính quyền do dân lập
nên và tham gia quản lý; nhà nước thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của
nhân dân; cán bộ công chức nhà nước là công bộc của dân. Tính dân tộc của
nhà nước được thể hiện ở chỗ, tổ chức và hoạt động của nhà nước ta kế thừa
và phát huy những truyền thống, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và con người
Việt Nam. Nhà nước có chính sách dân tộc đúng đắn, chăm lo lợi ích mọi mặt
cho các dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam và thực hiện đoàn kết dân
tộc, coi “đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược và động
lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc; giữ vững quan điểm của Đảng về
độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại; kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân”.
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam
Xuất phát từ lý luận (các Văn kiện của Đảng cộng sản Việt nam và
Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, các công trình nghiên

cứu khoa học về nhà nước pháp quyền) và thực tiễn) có thể khái quát những
đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam như sau:
Một là, Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nội dung này luôn được
khẳng định là một trong những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nhà
nước. Hiến pháp 1946, bản hiến pháp đầu tiên đã quy định tại Điều 1: “Nước
Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo”. Nguyên tắc đó được tiếp tục khẳng định trong các hiến
pháp tiếp theo và đến Hiến pháp 1992 được thể hiện toàn diện hơn, sâu sắc
hơn: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền


lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2).
Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên
tắc cơ bản được ghi nhận trong các Hiến pháp nước ta mà còn gắn với việc
thiết lập cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, là tư
tưởng chỉ đạo bao quát toàn bộ nội dung của các hiến pháp, được thể hiện cụ
thể trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước từ Trung ương đến địa phương, của các cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
Hai là, xác định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục
thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước. “Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đó là hai mặt của một vấn đề trong

tổ chức, xây dựng nhà nước”. Quán triệt quan điểm quyền lực nhà nước thống
nhất sẽ tác động trực tiếp đến việc tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp của
các cơ cấu thực hiện quyền lực của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho bộ máy
nhà nước vận hành đồng bộ, thống nhất và có hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác,
tăng cường việc phân công, phân nhiệm rành mạch, hợp lý, rõ ràng và chú
trọng phối hợp chặt chẽ trên tinh thần “vì dân, do dân” giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chính là điều kiện để
phát huy tốt hiệu lực của quyền lực nhà nước thống nhất. Xuyên suốt các bản
hiến pháp của nước ta đều thể hiện rõ quan điểm nêu trên trong việc xây dựng
nhà nước. Quốc hội luôn được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nước và
thực hiện quyền giám sát tối cao. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc


hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà
nước. Vị trí, vai trò của cơ quan tư pháp nước ta mà trung tâm là hệ thống các
Tòa án luôn được đề cao. Các nguyên tắc: “khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và
quyết định theo đa số”; “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm” luôn phải
được tôn trọng trong hoạt động tư pháp. Tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương được thể hiện qua các hiến pháp với việc hình thành
HĐND mà các vị đại biểu HĐND do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và
việc HĐND bầu các thành viên của UBND.
Thực tiễn chứng minh rằng, việc phân công và phối hợp trong thực hiện
quyền lực nhà nước ở Việt Nam mấy chục năm qua đã tạo điều kiện để bộ
máy nhà nước vận hành thông suốt; đồng thời bảo đảm tăng cường ngày càng
có chất lượng hơn cơ chế kiểm tra và tự kiểm tra, thanh tra của hệ thống cơ

quan hành chính nhà nước, cơ chế kiểm sát đối với các hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát, cơ chế giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp đối với các cơ
quan nhà nước và cơ chế giám sát thường xuyên của nhân dân đối với hoạt
động của bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước.
Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí cao nhất trong điều chỉnh các
quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Pháp luật phải thể hiện đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện
thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Pháp luật phải được chính Nhà
nước, cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước và mọi người, mọi tổ
chức trong xã hội tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành. Trong các văn bản
quy phạm pháp luật của Nhà nước ta, đặc biệt Hiến pháp - đạo luật cơ bản đã
xác định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành


Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi
phạm Hiến pháp và pháp luật” (Điều 12 Hiến pháp 1992). Nghĩa vụ tuân theo
Hiến pháp, pháp luật không loại trừ đối với bất cứ ai.
Ngay Đảng Cộng sản Việt Nam, được toàn thể nhân dân Việt Nam thừa
nhận vị trí, vai trò lãnh đạo đất nước và Hiến pháp xác định: Đảng là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thì cũng tại Điều 4 của Hiến pháp 1992
khẳng định: Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.
Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân
chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Đây là một đặc trưng mà kể từ
khi thành lập nước Việt Nam DCCH cho đến nay, Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm. Trong các văn bản pháp luật, các nội dung về quyền con người đều được
quy định đầy đủ. Hiến pháp 1992 đã dành trọn một chương (Chương V) với

34 điều quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Sinh thời, Bác
Hồ đã viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Như vậy, nguyện vọng thiết tha và mục tiêu cao cả của Đảng ta và Bác
Hồ về giá trị con người đã được chú trọng đề cao trong thực tế, được thể chế
hóa thành pháp luật và Nhà nước luôn quan tâm phấn đấu thực hiện.
Năm là, Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế
mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Trong gần 20 năm đổi mới, Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế
song phương, trong đó chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực thương mại, thuế,
viện trợ phát triển, ngân hàng... Việt Nam cũng đã là thành viên của nhiều đều
ước quốc tế đa phương. Trong việc ký kết các điều ước quốc tế, Việt Nam
không chỉ dừng lại ở việc ký với các nước XHCN trước đây, các nước láng


giềng như trước thời kỳ đổi mới mà ngày càng mở rộng, đặc biệt phải kể đến
việc Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức tài chính lớn trên thế giới như
Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Việt Nam tham gia Hiệp
hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC), v.v. Việc “tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế theo lộ trình phù hợp điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện
những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APECI
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO...” là một trong
những chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.
Sáu là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước pháp quyền XHCN, sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước từ thời kỳ đầu
của cách mạng Việt Nam cho đến nay đã có một thời kỳ ở nước ta tồn tại

nhiều đảng chính trị hoạt động trong đời sống xã hội; tuy nhiên, qua thử thách
của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mấy chục năm vô cùng ác liệt và công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đầy gay go quyết liệt, nhân dân Việt Nam
đã thừa nhận vị trí, vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng được chính thức ghi nhận
trong Hiến pháp, đó là sự khẳng đỉnh thành quả đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta. Hiến pháp 1992 khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; đồng thời cũng quy định rõ các tổ chức
của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Với những sáu nêu trên, nhà nước ta thể hiện những tư tưởng quan
điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh ước mơ và khát vọng của nhân dân đối với
công lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội còn giai cấp.


Hiện nay, đất nước đang tiến hành đổi mới, chúng ta đặt vấn đề đẩy
mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thực chất là tiếp thu những quan
điểm tích cực, tiến bộ và khoa học về nhà nước pháp quyền nhằm xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực sự là nhà nước của dân, do dân
và vì dân, dựa trên khối đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân - nông dân - trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là,
Nhà nước đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhà nước là công cụ
chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đó là
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được
các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ
tiện từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa hiện
tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả

hoạt động của nhà nước.
Nhà nước mà mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng,
cán bộ, công chức đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu
trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có
nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật.


Chương 2
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở
NƯỚC TA
Để có một cái nhìn toàn diện và đúng đắn về thực trạng xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam không phải là vấn đề đơn giản. Tuy nhiên
chúng ta cũng có thể có được một cái nhìn tương đối khi xem xét qua những
vấn đề sau: những kết quả trong nhận thức đặt nền tảng cho hành động; kết
quả trong phát triển nghiên cứu lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền và
những kết quả đạt được bước đầu trong thực tiễn của quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Cụ trhể là:
2.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam - bước đổi
mới quan trọng trong nhận thức và hành động của Đảng và Nhà nước ta
Trong tình hình mới của cách mạng Việt nam, Đảng và nhà nước ta đã
sáng suốt khẳng định nhiệm vụ cốt lõi của cải cách tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế là xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Nói cách khác việc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt nam là một tất yếu khách quan. Nhận thức này được
coi là một thắng lợi của quá trình đổi mới trong tiến trình xây dựng nhà nước
XHCN ở nước ta.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam là cách thức cơ bản để phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;
nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền

lực nhân dân. Hiến pháp 1992 khẳng định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
Sở dĩ Đảng ta đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam vì những lý do cơ bản sau:


Thứ nhất, Đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam
vì bản thân lý luận về nhà nước pháp quyền có những điểm tiến bộ, hợp lý
trong việc thực hành quyền dân chủ, trong việc tổ chức, hoạt động của nhà
nước. Nhà nước pháp quyền trong đặc trưng của nó có nhiều điểm phù hợp
với bản chất của nhà nước ta. Tuy nhiên vì nhà nước và pháp luật luôn mang
bản chất giai cấp sâu sắc, vì vậy Đảng ta xác định rõ: xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, Đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
còn xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của nhà nước ta còn nhiều
khiếm khuyết, yếu kém, chưa thực sự là nhà nước tuân thủ pháp luật và thực
hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Bên cạnh những thành tựu rất to lớn đạt
được,bộ máy nhà nước ta chưa thực sự trong sạch, vững mạnh; tình trạng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu
lực quản lý điều hành còn chưa nghiêm; kỷ cương xã hội bị buông lỏng làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Quản lý nhà
nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới. Tổ chức bộ máy nhà nước
còn nặng nề, sự phân công phối hợp giữa cac cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn những điểm chưa rõ về
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ phân cấp giữa trung ương và địa phương
còn một một số mặt chưa cụ thể làm cho tình trạng tập trung quan liêu cũng
như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục...Do đó Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX nhấn mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh cải cách tổ chức, hoạt động của

nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, trong đó cốt lõi là xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thứ ba, Đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam
còn xuất phát từ tính tất yếu khách quan của sự phát triển của đất nước theo
định hướng XHCN. Sự tất yếu khách quan ấy xuất phát từ định hướng xây


dựng CNXCH mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ: dân giầu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đảng ta ý thức sâu sắc rằng để
đạt được một chế độ xã hội có mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản
chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; một Nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, Đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam
còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hoá. Nhu cầu hội
nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải
cách pháp luật, đảm bảo cho nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực
để giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, mở rộng dân chủ, củng
cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Qua hơn hai mươi năm đổi mới, thực tiễn đã chứng minh quá trình cải
cách tổ chức, hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Đây phải được coi là
thành công quan trọng đầu tiên của thực trạng xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta.
2.2. Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
gắn liền với quá trình phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Ngay từ khi ra đời Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nay là Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã là Nhà nước mang bản chất của

nhà nước kiểu mới được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tính pháp quyền trong tổ chức, hoạt động của nhà nước đã thể hiện trong
nhiều văn kiện Đảng và thể hiện ngày càng rõ nét hơn phù hợp với từng giai
đoạn cách mạng trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980. Bản chất này
củanhà nước tiếp tục được khẳng định trong các Cương lĩnh, các văn kiện của


Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hoá rõ trong Hiến pháp 1992 và
Nghị quyết sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam đòi hỏi phải dựa trên hệ thống lý luận phù hợp với chính điều kiện
hoàn cảnh của Việt Nam.
Tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong các văn kiện của
Đảng cộng sản Việt Nam, trong các bản Hiến pháp thể hiện quá trình nhận
thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ, cụ thể và toàn diện hơn của Đảng, Nhà
nước ta về tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại cũng như
vấn đề xây dựng Nà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản ở nước ta hiện nay. Những nhận thức cơ bản này là một đảm
bảo quan trọng cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam đạt được kết quả thắng lợi.
Ngay từ lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa và vận
dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh nước ta. Tư
tưởng của Người về Nhà nước pháp quyền là một bộ phận quan trọng trong
kho tàng lý luận của Đảng ta. Trước hết pháp quyền được người sử dụng là
khẩu hiệu để đấu tranh chống áp bức và chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc.
Trong bài viết "Yêu sách của dân An nam", Người từng đưa ra yêu cầu: "Phải
thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật". Người nhấn mạnh: "Trăm
điều phải có thần linh pháp quyền". Xuất phát từ tư tưởng trên, khi xây dựng
Nhà nước dân chủ nhân dân, Người đã khẳng định: Nhà nước ta là một nhà
nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân,

chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử. Tư tưởng về xây
dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân ngày càng được thể hiện rõ
nét trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt nam, trong các bản Hiến pháp
qua các thời kỳ. Tuy nhiên, xét về thời điểm sử dụng thuật ngữ, lần đầu tiên
Văn kiện của Đảng sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” là Văn kiện Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII. Tại phần thứ 2 về “Những
nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới” của Văn kiện hội nghị này đã nêu nhiệm


vụ thứ 7 là “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam của dân, do dân và vì
dân” . Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, quản lý mội mặt của đời sống
xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước pháp quyền XHCN được xây dựng trên cở sở tăng cường, mở
rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với
nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng lãnh đạo.
Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khoá VII (1/
1995) đã nêu ra 5 quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng
kiện toàn nhà nước; một trong 5 quan điểm là xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam là nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp
công nhân với gia cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng
cộng sản lãnh đạo. Gắn xây dựng nhà nước pháp quyền với tăng cường pháp
chế XHCN; quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục đạo
đức XHCN.
Văn kiện đại hội lần thứ VIII tiếp tục nhắc lại 5 quan điểm và các nhiệm
vụ xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3
ban chấp hành TƯ khoá VIII về “phát huy quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục
xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh” khi
đánh giá đã nêu nhận xét đầu tiên là: đã từng bước phát triển hệ thống quan
điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân. Mặt khác khi phân tích nguyên nhân yếu kém trong xây dựng nhà

nước, Nghị quyết chỉ rõ: việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong
điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta
còn ít, có nhiều việc phải vừa làm vừa tìm tòi rút kinh nghiệm.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Nhà nước ta là
công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi


cơ quan nhà nước, các tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân đều có nghĩa
vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Mặt khác Văn kiện cũng xác định: Xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là
nhiệm vụ số một, nhiệm vụ bao trùm, chi phối các nhiệm vụ khác trong nội
dung phần thứ IX về “đẩy mạnh cải cách tổ chức, hoạt động của Nhà nước...”.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, trên cơ sở tổng kết lý luận
và thực tiễn của 20 năm đổi mới, đã khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây xựng cơ chế vận hành của Nhà nước
bảo đảm nguyên tắt tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Như vậy, Văn kiện Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định rõ xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là vấn đề tất yếu trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời đúc kết tư tưởng về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
2.3. Một số kết quả đạt được trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam trong thực tiễn
2.3.1. Về xây dựng, củng cố, cải cách, hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Nhà nước
a. Đánh giá chung

Thời gian qua trên cơ sở phân tích sâu sắc thực trạng của bộ máy nhà
nước ta và yêu cầu của tình hình mới Đảng và Nhà nước đã đưa ra những kết
luận quan trọng, vạch ra những quan điểm chỉ đạo và những giải pháp nhằm
xây dựng kiện toàn bộ máy nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Qua đó kết quả đạt
nổi bật được thể hiện như:
Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ của nhà nước, tạo điều kiện
cho nhân dân lao động thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của mình


thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, tham gia tích
cực vào xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước.
Kiện toàn một bước bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, trong sạch,
vững mạnh hoạt động có hiệu lực và hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của cán
bộ, công chức nhà nước trước nhân dân. Các thể chế hành chính nhà nước và
tổ chức hành chính nhà nước đều được tăng cường, nền hành chính nhà nước
đang đổi mới theo xu hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại hoá. Đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
b. Các kết quả lớn cụ thể
Các kết quả lớn cụ thể đạt được của quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam trong thời gian qua gồm:
Đổi mới và nâng cao một bước chất lượng hoạt động của Quốc hội (các
kỳ họp Quốc hội, chất lượng và hoạt động của đại biểu Quốc hội, vị thế của
Quốc hội trong bộ máy nhà nước và trong đòi sống xã hội). Quốc hội đang
thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có khả năng thực hiện tốt
nhất quyền lập pháp, quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
và quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Củng cố, kiến toàn hội đồng nhân dân các cấp làm đúng chức năng,
nhiệm vụ theo luật định.

Cải cách một bước nền hành chính nhà nước, trước hết đã tập trung cải
cách thủ tục hành chính, từng bước cải cách thể chế hành chính trên các lĩnh
vực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong điều kiện hội nhập quốc tế; xây dựng một hệ thống hành chính
thông suốt, rõ về chức năng, nhiệm vụ, tinh giản gọn nhẹ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Việc quản lý, sử dụng, được đổi mới một bước
theo các quy định của pháp luật về cán bộ công chức. Coi trọng gắn kết hợp


chế độ trách nhiệm, khen thưỏng và kỷ luật. Cải cách một bước chế độ tiền
lương để nâng cao đời sống. Quan tâm đầu tư cho cán bộ cấp cơ sở.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp đảm bảo dân chủ,
khách quan, minh bạch, chống và giảm bớt oan, sai. Củng cố đồng bộ hệ
thống cơ quan toà án, viện kiểm sát,điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp.
Tiến hành kiên quyết thường xuyên công tác đấu tranh chống tham
nhũng, quan liêu, xử lý nghiêm những người vi phạm đồng thời tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, củng cố kỷ luật trong nội bộ cơ
quan nhà nước.
2.3.2. Về xây dựng, đổi mới hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật
Trong thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật được quan tâm hơn,
cơ chế xây dựng pháp luật được đổi mới, do đó hệ thống pháp luật đã có
những đổi mới quan trọng phù hợp với sự thay đổi cơ chế kinh tế, với tình
hình và nhiệm vụ mới của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế.
Hiến pháp được sửa đổi thích ứng với đòi hỏi của tình hình. Các văn
bản luật được quan tâm ban hành để điều chỉnh cho hầu hết các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật phát triển khá cân đối, điều chỉnh cho các
lĩnh vực: tổ chức, hoạt động của nhà nước (Luật Hiến pháp, Luật tổ chức

Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án, Viện kiểm sát...);
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; trong lĩnh vực kinh doanh (Luật
Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật kinh doanh bảo hiểm...); trong bảo vệ quyền
của công dân và các chủ thể. Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật được
tăng cường. Nhà nước đã dần thực sự dựa vào pháp luật để quản lý nhà nước
và quản lý xã hội.
2.4. Những tồn tại cần khắc phục trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam


Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết
điểm, yếu kém: tổ chức còn cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc, chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ, thảm quyền; tiêu chuẩn cán bộ, công chức nhà nước
chưa được xác định rõ; hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
chưa cao.
Hoạt động lập pháp đang đứng trước yêu cầu to lớn về hoàn thiện hệ
thống pháp luật cũng như yêu cầu mới mẻ, phức tạp của việc điều chỉnh pháp
luật nên đã bộc lộ một số bất cập trong thiết kế hoàn thiện tổng thể hệ thống
pháp luật và trong xác định thứ tự ưu tiên cần thiết của từng văn bản pháp luật
cũng như nâng cao tính khả thi và tính hiệu lực của văn bản pháp luật.
Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước còn bộc lộ không ít những nhược
điểm, nhiều mặt còn chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Tổ chức hành chính chưa thông suốt, còn hạn chế trong việc xử lý mối quan
hệ ngang, thậm chí còn hiện tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp trách
nhiệm còn thiếu rành mạch. Thẩm quyền cá nhân chưa được quy định rõ.
Phong cách làm việc trước dân của cán bộ, công chức còn là vấn đề bức xúc.
Về lĩnh vực tư pháp, tổ chức và hoạt động còn nhiều bất cập, sai sót.
Hệ thống pháp luật còn cần tiếp tục đổi mới mạnh và sâu sắc hơn nữa. Nhiệm
vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền đang đặt ra
là quyết tâm đổi mới hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và

thực thi pháp luật nghiêm minh.


Chương 3
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3.1. Quan điểm cơ bản xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN không phải là xây dựng một
Nhà nước mới khác về bản chất của Nhà nước XHCN mà Đảng và nhân dân
ta đã tiến hành hơn mấy chục năm qua. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ cốt lõi của cải cách tổ chức, hoạt
động của nhà nước, là cách cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
Việt nam chính là quá trình tiếp tục xây dựng Nhà nước XHCN trong điều
kiện hoàn cảnh mới. Dựa trên các văn kiện của Đảng, các quy định của Hiến
pháp, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải tuân
thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải được
thực hiện trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước và các văn
kiện của Đảng ta.
Thứ hai, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam nhưng phải giữ
vững bản chất giai cấp, bản chất dân chủ thực sự rộng rãi của Nhà nước
XHCN. Nhà nước Cộng hoã xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.



Thứ ba, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Thứ tư, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải đảm bảo phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với đặc điểm truyền thống về lịch
sử, văn hoá Việt Nam, có bản sắc Việt Nam; đảm bảo kế thừa và phát huy
truyền thống, kinh nghiệm quản lý đất nước của dân tộc ta qua suốt chiều dài
lịch sử, tiếp thu có chọn lọc thành tựu của thế giới.
Thứ năm, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải trở
thành yêu cầu cấp bách đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước. Nói cách khác bất cứ nội dung nào của cải cách tổ chức, hoạt động của
nhà nước đều phải thấm nhuần yêu cầu và định hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN.
Thứ sáu, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình từ
thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện, phải tiến hành
từng bước vững chắc, phải dựa trên cơ sở thường xuyên tổng kết thực tiễn,
kịp thời điều chỉnh bổ sung. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN gắn liền
với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển
nền dân chủ xã hội XHCN và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Phải chuẩn
bị các điều kiện cần thiết và phải đảm bảo ổn định chính trị, ổn định kinh tếxã hội, ngăn chặn được âm mưu và hành động của các thế lực thù địch và bọn
cơ hội.
3.2. Phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
3.2.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và
thực hiện nghiêm minh pháp luật, đáp ứng yêu cầu của với nhiệm vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hợp tác hội nhập quốc tế và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.



Hướng đến hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý
cho hoạt động của toàn xã hội, nhất là cho tổ chức, hoạt động của nhà nước và
cán bộ, công chức nhà nước, đồng thời có chuẩn mực rõ ràng để đánh giá
đúng sai, tăng cường pháp chế trong đời sống nhà nước và xã hội.
Một mặt coi trọng hoàn thiện Hiến pháp, các luật điều chỉnh tất cả các
lĩnh vực hoạt động của nhà nước và xã hội, mặt khác phải xác định được thứ
tự ưu tiên cần thiết và nâng cao tính khả thi, tính hiệu lực và hiệu quả của
pháp luật trong cuộc sống. Đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống
pháp luật.
Pháp luật về tổ chức hoạt động của nhà nước phải đi liền với pháp luật
về phát triển kinh tế, pháp luật về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, pháp
luật về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Pháp luật nội dung phải đi liền với pháp luật hình thức.
Pháp luật phải gắn liền với đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh.
Hoạt động lập pháp muốn vậy phải vừa đảm bảo chất lượng vừa phải theo kịp
yêu cầu của sự phát triển. Mặt khác phải đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực
hiện pháp luật, mở rộng các hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật, dịch
vụ và tư vấn pháp lý trong xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến
pháp, pháp luật, xây dựng nền văn hoá pháp lý trong đời sống xã hội.
3.2.2. Tiếp tục cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước
Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng
chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy
trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành luật.
Quốc hội phải làm tốt chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối
cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.



×