Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận triết học: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.93 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
I – Cơ sở lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền...............................2
1. Nhà nước...............................................................................................2
a- Bản chất và đặc trưng của nhà nước.................................................2
b- Chức năng và vai trò kinh tế của nhà nước.......................................2
c- Các kiểu và hình thức nhà nước........................................................3
2. Nhà nước pháp quyền............................................................................3
a- Khái niệm nhà nước pháp quyền.......................................................3
b- Tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền.....................................4
II - Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay................7
1. Quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
...................................................................................................................7
a- Tính tất yếu khách quan phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ..............................................................................7
b- Quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay.........................................................................................7
2. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.....................................................................................................8


I – Cơ sở lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền
1. Nhà nước
a- Bản chất và đặc trưng của nhà nước
Nhà nước ra đời trong quá trình phân công lao động xã hội, là
một bộ phận quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có
giai cấp đối kháng. Nhà nước là một hệ thống tổ chức quyền lực công
cộng đặc biệt thường gồm ba bộ phận cấu thành là bộ phận quyền
lực, thực thi quyền lực và giám sát quyền lực. Nhà nước thực hiện
chuyên chính nhằm bảo vệ giai cấp cầm quyền và duy trì trật tự xã
hội.
Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ quốc gia


theo các khu vực địa lý hành chính. Quyền lực của nhà nước được đảm
bảo bằng sức mạnh của các thiết chế vũ trang. Đồng thời để duy trì và
tăng cường bộ máy cai trị của mình, nhà nước xác lập chế độ thuế
khóa.
b- Chức năng và vai trò kinh tế của nhà nước
Bất cứ nhà nước nào cũng đều có các chức năng chính trị, chức
năng xã hội và chức năng đối nội, đối ngoại của nó. Chức năng chính
trị là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị, còn
chức năng xã hội là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích chung của
cộng đồng quốc gia trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị. Bên
cạnh đó nhà nước còn có chức năng xây dựng, củng cố, phát triển và
bảo vệ một chế độ kinh tế-xã hội nhất định phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị (chức năng đối nội) đồng thời bảo vệ biên giới lãnh
thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ về kinh tế, chính trị, xã
hội với các nước khác (chức năng đối ngoại).
Nhà nước với vai trò là một yếu tố cơ bản của kiến trúc thượng
tầng, luôn có tác động toàn diện tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tếxã hội. Tác động của nhà nước có thể theo hai chiều hướng, hoặc


thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt trong
nền kinh tế thị trường vai trò ấy càng được thể hiện rõ nét hơn: nhà
nước can thiệp nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế, tránh các nguy
cơ khủng hoảng; nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực ít được quan tâm
đầu tư nhưng lại mang lại lợi ích cho toàn xã hội; bên cạnh đó vai
trò của nhà nước còn thể hiện ở việc ổn định kinh tế vĩ mô bằng các
công cụ chính sách của mình.
c- Các kiểu và hình thức nhà nước
Có nhiều kiểu và hình thức nhà nước khác nhau đã hình thành
trong lịch sử. Tương ứng với các hình thái kinh tế-xã hội thì có các kiểu
nhà nước khác nhau: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến,

nhà nước tư sản và nhà nước chuyên chính vô sản. Trong mỗi kiểu nhà
nước lại có các cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước khác
nhau (hình thức nhà nước). Hình thức nhà nước bao gồm hình thức
chính thể và hình thức cấu trúc. Hình thức chính thể cơ bản gồm hình
thức chính thể quân chủ và cộng hòa. Tuy nhiên mỗi hình thức
chính thể này cũng không giống nhau ở mỗi nước tùy thuộc vào
nhiều yếu tố. Hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu có nhà nước liên
bang và nhà nước đơn nhất.
2. Nhà nước pháp quyền
a- Khái niệm nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt
mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện
quyền lực của dân.
Như vậy nói tới nhà nước pháp quyền trước hết là nói đến sự
ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội và chính trị với tư cách là
ý chí của nhân dân và có giá trị phổ biến. Hình thức tổ chức nhà
nước pháp quyền đặc biệt thích hợp với bản chất của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, bởi bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà
nước của dân, do dân và vì dân.


Có thể thấy những đặc điểm tiêu biểu của nhà nước pháp quyền:
Thứ nhất, đó là hình thức tổ chức nhà nước ở đó có sự ngự trị
cao nhất và tuyệt đối của pháp luật. Pháp luật không chỉ là công cụ
chủ yếu, ở địa vị cao nhất để quản lý mọi hoạt động của xã hội. Ngay
cả bản thân hoạt động của các cơ quan thuộc hệ thống tổ chức nhà
nước – những cơ quan ban hành, thực thi và kiểm tra việc thực hành
pháp luật – cũng phải tuân theo pháp luật. Như vậy pháp luật trở
thành tiêu chuẩn và căn cứ căn bản nhất trong mọi hoạt động của
bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mỗi công dân. Điều này

giúp xác định một nhà nước nào đó có phải là nhà nước pháp quyền
hay nhà nước pháp quyền ở trình độ nào.
Thứ hai, nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước
mà ở đó quyền lực nhà nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa
số nhân dân. Ở các nước theo hình thức tổ chức nhà nước pháp
quyền đều thực hiện chế độ dân chủ trong việc thiết lập quyền lực
nhà nước.
Thứ ba, đây là hình thức tổ chức nhà nước có sự đảm bảo mối
quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công
dân. Mọi hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội và mọi công dân
đều phải tuân theo pháp luật, nhà nước giám sát việc tuân thủ luật
pháp của công dân đồng thời cũng chịu trách nhiệm trước công dân
về những hoạt động của mình.
Ngoài ba đặc trưng trên, ở nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà
nước được phân tách thành ba nhánh: quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp. Đây là ba quyền lực vừa độc lập, vừa chi phối
lẫn nhau trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Có sự khác
nhau về nguyên tắc “tam quyền phân lập” này ở các nhà nước khác
nhau.
b- Tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền
Tư tưởng pháp trị xuất hiện khá sớm từ thời cổ đại ở cả phương
Đông (Tuân Tử, Hàn Phi Tử) và phương Tây (Hêraclit, Platon,


Aritxtot…) tuy nhiên lý thuyết về nhà nước pháp quyền hoàn chỉnh
chỉ bắt đầu từ thời cận đại Tây Âu.
Ở thời kỳ cận đại, tư tưởng nhà nước pháp quyền thực sự có bước
phát triển, trở thành học thuyết và đã được vận dụng ở một số nước Tây
Âu (nhà nước pháp quyền tư sản). Sự phát triển lý thuyết nhà nước
pháp quyền diễn ra theo theo hai luồng tư tưởng:

Thứ nhất, là sự khẳng định ngày càng cao những quan điểm
mới về tự do của con người thông qua việc tôn trọng “pháp quyền
tự nhiên”. Người sáng lập ra lý thuyết này là nhà triết học Hà Lan
Xpinoda, theo đó nhà nước và pháp quyền phải phù hợp với quyền tự
nhiên vốn có của con người và phù hợp quy luật tự nhiên. Cần hạn
chế quyền lực của nhà nước bằng những đòi hỏi tự do của con người
và cần có sự phân biệt rõ ràng giữa pháp luật và đạo đức trong quản
lý xã hội. Lý thuyết tự do của nhà triết học duy vật Anh Lốccơ cũng
đứng trên quan điểm pháp quyền tự nhiên của con người. Theo ông,
quyền lực nhà nước không phải tự nhiên mà có, cũng không phải
xuất phát từ ý muốn riêng của một người mà theo bản chất, nó thuộc
về nhân dân, do nhân dân ủy nhiệm. Do đó con người chỉ dành một
phần cho nhà nước chứ không phải tất cả, con người đến với nhà
nước vì tự do của nó trong đời sống xã hội chứ không phải để mất tự
do. Theo Lốccơ thì quyền lực nhà nước cũng cần phải phân tách
thành những bộ phận độc lập với nhau. Đây là nền móng lý luận cho
sự ra đời của lý thuyết tam quyền phân lập tư sản.
Thứ hai, là xác lập mối tương quan giữa quyền lực chính trị
mới của giai cấp tư sản đang lên và chế độ phong kiến đã lỗi thời .
Lý thuyết phân quyền và khế ước xã hội của các nhà tư tưởng khai
sáng Pháp (Môngtexkiơ và Rútxô) được các nước tư sản sau này áp
dụng dưới nhiều hình thức khác nhau. Những lý thuyết này cũng có
ảnh hưởng lớn tới lý thuyết pháp quyền của các nhà triết học Đức
cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX (Cantơ, Hêghen).
Mặc dù với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng nhưng
các học thuyết này đều mang những nội dung cơ bản và chung nhất sau:


Sự hiện diện của chủ nghĩa lập hiến và coi đó là bằng chứng hữu hình
về sự đồng thuận của người dân; Nhà nước phải tự đặt dưới pháp luật

không hành động độc đoán; Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các
quyền tự do của con người và quyền công dân; quyền lực Nhà nước
được chia thành ba quyền: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giao
cho ba cơ quan Nhà nước tương ứng theo nguyên tắc quyền lực giám
sát kiềm chế quyền lực.
Học thuyết nhà nước pháp quyền không chỉ là tư tưởng của các
triết gia tư sản mà còn có sự đóng góp của những nhà kinh điển chủ
nghĩa xã hội. Mác, Ăngghen và Lênin luôn quan tâm tới nhà nước và
pháp luật, thể hiện những tư tưởng nhà nước pháp quyền trong các
tác phẩm của mình. Các ông đã đặt vấn đề xây dựng một nhà nước
pháp quyền kiểu mới với mục tiêu “vì con người” và “giải phóng con
người” – nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.


II - Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện
nay
1. Quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
a- Tính tất yếu khách quan phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Xuất phát từ chính nội dung của hình thức tổ chức nhà nước pháp
quyền cho thấy đây là hình thức tổ chức nhà nước thích hợp nhất với bản chất
của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bởi bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
nhà nước của dân, do dân và vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
dựa trên nền tảng liên minh công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức; là
công cụ chủ yếu để nhân dân lao động thực hiện quyền lực của mình trong
việc quản lý mọi hoạt động xã hội theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh.
Từ thời kỳ đổi mới, khi mà nền kinh tế đang chuyển dần sang mô hình
tổ chức kinh tế thị trường thì xây dựng lý luận và xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa mà một yêu cầu đặt ra có tính cấp bách. Đó là một đòi
hỏi tất yếu của quá trình tăng cường vai trò nhà nước xã hội chủ nghĩa trong
quản lý các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với
xu thế toàn cầu hóa, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải
tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà
nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự
chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
b- Quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay


Quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thể
hiện rõ qua tinh thần và nội dung của các Văn kiện Đại hội Đảng gần đây, đặc
biệt là Văn kiện Đại hội Đảng IX và X, với những điểm cơ bản:
Một là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng với nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi
công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Hai là, cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước; Xây
dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng
bước hiện đại hoá; Thực hiện tinh giản biên chế trong các cơ quan nhà nước.
Ba là, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp
chế, theo hướng nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng
nhân dân, hoàn thiện quy định về bầu cử, ứng cử; phát huy dân chủ đi đôi với
giữ vững kỷ cương pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo

dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Bốn là, tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có
năng lực. Thực hiện việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ
theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra đánh giá chất lượng cán bộ
Năm là, tiếp tục tăng cường, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, đi
đôi với chống tham nhũng là chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt là
các hành vi lợi dụng chức quyền làm giàu bất chính. Bổ sung hoàn thiện các
cơ sở pháp lý không để kẻ xấu lợi dụng; xóa bỏ các thủ tục phiền hà; thường
xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức về chính trị, tư tưởng, đạo đức
cách mạng và có những hình thức kỷ luật thích đáng đối với nhưng trường
hợp vi phạm.
2. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã
xác định vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010. Đó chính là sự tiếp
tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện
mới.
Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng,
phát triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của Nhà Nước pháp quyền
XHCN có nghĩa là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nội dung quan trọng
nhất của Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước thuộc về nhân dân.Hiện
nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để từng bước
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần nhận thức rằng
việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu dài, phải

được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của xã hội và
của nhà nước.
1 - Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đó
là Nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, không tam quyền phân lập nhưng có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực
hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh
kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự
do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân
dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ
công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô
kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ chức (kể cả tổ chức đảng),


hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm
trước công dân về mọi hoạt động của mình. Vì vậy, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với xây dựng xã hội công dân.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là
cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nội lực
của toàn thể nhân dân, của tất cả các thành phần kinh tế vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành không thể tách
rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm và kết quả của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả

nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với các
cơ quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền
khiếu nại, tố cáo, v.v.. Các quyền và sự tự do đó trong nhiều trường hợp là
điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước, nhưng trước hết đó
là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần
chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn
trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã
ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các
ngành, của cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo
của công dân.
2 - Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam còn thể hiện ở một đặc điểm là
“Sự ngự trị cao nhất của pháp luật”. Một trong những điểm cơ bản của việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quyền lực nhà
nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba
quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền


tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của
quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những
nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp
luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt
động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát
triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó
phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội
trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn pháp lý của các quy định
để có sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản
dưới luật, tổ chức thực hiện pháp luật.

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt
động của bộ máy hành pháp của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều
mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức
hành pháp chưa thông suốt, còn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc
và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ. Chế độ phân cấp trách nhiệm
còn thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và
dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ.
Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn
còn là vấn đề đáng nói hiện nay.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Hiến pháp và pháp luật của Nhà
nước ta trước sau như một đều khẳng định các yêu cầu về bình đẳng, công
bằng, về sự độc lập của toà án khi xét xử, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý,
tăng cường bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người
dân. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tư pháp đã trở thành một hoạt động
hết sức quan trọng của Nhà nước ta, thể hiện vai trò mới, những đòi hỏi và
những nhiệm vụ mới của lĩnh vực hoạt động đó. Trên cơ sở những thành tựu


và kinh nghiệm đã có, cần đẩy mạnh cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 của
Bộ Chính trị (khóa IX) mà những nội dung cơ bản phải là cải cách hoạt động
xét xử và cải cách các thủ tục tố tụng, nâng cao năng lực chuyên môn, đạo
đức nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị - pháp lý của cán bộ tư pháp.
Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp
luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ
và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào
cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện
pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật.
Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích
và tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng
đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực

pháp lý phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải
cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế
còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao sự hiểu biết pháp luật, đấu
tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và
tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn
cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Các hình thức và cơ chế
kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất,
bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân
và đất nước, pháp luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được
giữ vững. Đối với các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để
các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời
là điều kiện phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các
hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công,
phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan
điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với


công lý, tự do, bình đẳng. Trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng định
các mối quan hệ chủ đạo giữa các nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền với hệ thống chính trị duy nhất một đảng lãnh đạo; với phương thức tổ
chức nhà nước tập trung có phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; với việc tôn trọng các
quyền tự do của công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc
bảo đảm một xã hội trật tự, kỷ cương.
Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không mâu thuẫn với hệ thống
chính trị một đảng lãnh đạo. Vấn đề là ở chỗ, bản chất của đảng cầm quyền
thế nào, mục tiêu chính trị của nó có phải vì lợi ích chung của dân tộc, vì con

người hay không và do đó có sẵn sàng tuân theo những quy định của pháp
luật hay không; có đủ phẩm chất đạo đức để vượt qua các cám dỗ quyền lực
to lớn mà một đảng cầm quyền duy nhất có nhiều khả năng gặp phải hay
không và nó có đặt ra và thực hiện được những kỷ luật nghiêm khắc cho
chính mình hay không, v.v..
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 74 năm qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí,
nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc. Đường lối của Đảng là sự thể hiện
nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất
nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết để chúng ta hoàn thiện pháp
luật. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với những
nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn và
yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng,
mà cụ thể là các tổ chức đảng và cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo Đảng với
các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà nước các cấp. Hoàn thiện những cơ
sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được những biểu hiện bao biện, làm thay hay can


thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy và cán bộ Đảng vào công việc chính
quyền mà có thời kỳ nhiều nơi mắc phải.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, phát huy tối
đa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các tổ chức chính trị - xã hội
trong xây dựng và quản lý nhà nước, trong vai trò phản biện và trong giám sát
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng
được tăng cường không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh, mà là bằng trí
tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng
đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội
chấp thuận, ở vai trò tiên phong của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức

xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Trong điều kiện hiện nay ở Việt
Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất,
cơ bản nhất đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình
lâu dài. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng trong những năm tháng qua,
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã có những thành tựu nhất định,
song trong quá trình xây dựng cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi phải tiếp
tục đẩy mạnh nghiên cứu tìm hiểu, thử nghiệm. Do vậy, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đang là nhiệm vụ cấp bách của Việt Nam.



×