Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.35 KB, 17 trang )

PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI
Giới hạn nghiên cứu:
- Môi trường Trung Quốc
- Thời gian : từ năm 1997-2009
2.1 PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG
2.1.1 Môi trường kinh tế
Trung Quốc là nền kinh tế tăng trưởng mạnh. Hiện nay Trung Quốc đang là nền
kinh tế đứng thứ 3 thế giới. Trong thời gian qua, 2 cuộc khủng hoảng tiền tệ lớn ở Đông
Nam Á năm 1997 và khủng hoảng tài chính năm 2007 đã có tác động không nhỏ tới nền
kinh tế nước này. Theo thống kê, số đơn đặt hàng của Trung Quốc chỉ bằng một nửa
năm trước. Ví dụ, một số nhà máy ở tỉnh Sơn Đông từ cuối năm 1997 đã xuất hiện tình
trạng tăng trưởng âm, thậm chí có một số nhà máy tuyên bố phá sản. Từ đầu năm 1998,
nhiều công ty ngoại thương của Thượng Hải đã huỷ đơn đặt hàng, có một số kéo dài
thời hạn thanh toán, thậm chí có một số phải giảm giá để bán hàng. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp Đông Nam Á vẫn là một sự uy hiếp lớn với các doanh nghiệp Trung
Quốc về mặt hàng công nghiệp nhẹ như dệt túi da, giầy dép, điện da dụng do đồng tiền
các quốc gia này bị phá giá, tạo lợi thế về giá. Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp vào Trung
Quốc giảm đi, vì nguồn đầu tư vào Trung Quốc chủ yếu là từ các nước Đông Á. Haier
trong thời gian này cũng đã thực hiện nhiều chiến lược để thích nghi với tình thế này.
Với khủng hoảng tài chính năm 2007,Trung Quốc đã có hướng đi riêng chỉ sau
một năm. Với Trung Quốc, năm 2009 được coi là năm "bội thu". Số liệu của Cơ quan
Thống kê quốc gia Trung Quốc (NBS) đã cho thấy sự phục hồi của nền kinh tế lớn thứ
3 thế giới này. Trong đó tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2009 đạt 33.540 tỷ nhân
dân tệ (tương đương 4.910 tỷ USD), tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của
Trung Quốc vượt lên đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ, đạt mức 2207,2 tỷ USD, trong
đó cán cân thương mại xuất siêu là 196,1 tỷ USD (nguồn: Tạp chí nghiên cứu Trung
Quốc tháng 3/2010, Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Theo báo cáo của nhiều chính phủ
nước này, tiêu dung của người dân trong 9 tháng đầu năm 2009 tăng 15%. Với một sức
tiêu dùng gia tăng, doanh số nội địa của Haier trong năm này cũng tăng đáng kể với
doanh số 29.2 tỉ NDT, tăng 15.51% so với năm 2008. Bốn mặt hàng chủ đạo của Haier
gồm tủ lạnh , tủ cấp đông, máy điều hòa không khí và máy giặt chiếm hơn 30% thị


phần nội địa. Đây không chỉ là kết quả của sức tăng trưởng của nền kinh tế mà còn nhờ
nỗ lực to lớn của chính phủ Trung Quốc trong việc kiềm chế lạm phát trong thời kì
khủng hoảng. Trong khi đó, doanh số tại thị trường nước ngoài của công ty lại sụt giảm
tới 26.33% trong năm này. Con số này đã cho thấy đựơc sự ảnh hưởng không nhỏ của
tình trạng kinh tế toàn cầu suy thoái cùng với lạm phát gia tăng đến các hoạt động của
Haier trên thị trường thế giới.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã hạ lãi suất cơ bản xuống khá nhiều.
Đây là một điều đáng mừng không chỉ đối với người dân-những người có ý định vay
tiền ngân hàng cho các việc mua sắm hàng hoá mà cả đối với các công ty muốn có huy
động vốn cho các dự án, đầu tư vào việc sản xuất. Haier cũng đã có một sự hỗ trợ nhất
định từ vấn đề lãi suất trong chiến dịch tấn công vào thị trường thế giới trong thời gian
qua như nhà sản xuất tủ lạnh địa phương ở Ấn Độ, nhà máy tủ lạnh của Sanyo tại Thái
Lan năm 2007 và gần đây là cuộc chạy đua với các hãng Hàn Quốc trong vụ mua lại bộ
phận sản xuất đồ gia dụng của GE( Mỹ). Các vụ mua bán và sáp nhập này đã được sự
cổ vũ của Chính phủ Trung Quốc. Bắc Kinh áp dụng chính sách cung cấp các khoản
vay lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước và các ưu đãi khác cho những vụ
M&A này. Dĩ nhiên, nguồn lực tuyệt vời này đến từ khoản dự trữ ngoại hối khổng lồ
lên tới 1.760 tỷ USD - lớn nhất thế giới - của Trung Quốc.
Một vấn đề cũng tác động không nhỏ tới nền kinh tế là tỉ giá hối đoái. Đối với
các doanh nghiệp hoạt động đa quốc gia như Haier thì sự thay đổi về tỉ giá là một ảnh
hưởng rất lớn. Khi đồng Trung Quốc tăng giá sẽ gây một tác dộng tiêu cực đối với hàng
hóa xuất khẩu của doanh nghiệp, hàng xuất khẩu sẽ có giá cao hơn trên thị trường quốc
tế, làm giảm lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Ngược lại, khi giá đồng NDT giảm (tức
xảy ra phá giá đồng NDT), hàng TQ sẽ có giá rẻ hơn, làm cho sức cạnh tranh của hàng
hoá Trung Quốc tăng lên nhờ đó mà tăng lượng xuất khẩu hàng hóa. Trong thời gian
khoảng 5 năm trở lại đây, Trung Quốc liên tục nâng tỉ giá, ví dụ từ năm 2005 – 2008,
Trung Quốc đã cho phép đồng tiền của họ tăng 21%. Đây là một lợi thế to lớn đối với
sản phẩm của Haier trên thị trừơng quốc tế. Các sản phẩm có giá rẻ, chất lượng lại khá
tương đương với các sản phẩm của LG, Sanyo… Điều này đặc biệt có ý nghĩa với
Haier vào thời điểm mới bước vào thị trường thế giới, khi mà tên tuổi của nó còn quá

mờ nhạt. Chính giá cả đã giúp Haier thắng lợi trong chiến lược thâm nhập của mình
trong phân khúc tủ lạnh cỡ nhỏ, giá rẻ. Minh chứng là vào năm 2005, công ty nghiên
cứu Euromonitor International cho biết Haier đã chiếm 26% thị phần tủ lạnh cỡ nhỏ tại
Mỹ (loại tủ lạnh dành cho các phòng thuộc ký túc xá và khách sạn).
2.1.2 Môi trường công nghệ:
Một trong những tác động quan trọng nhất của sự thay đổi công nghệ đó là nó có thể
tác động lên chiều cao của rào cản nhập cuộc và định hình lại cấu trúc ngành tận gốc rễ.
Châu Á ngày nay đang nổi lên là khu vực tập trung phát triển khoa học công
nghệ. Điển hình là Trung Quốc đang cố gắng gia tăng tiềm lực quốc gia bằng chiến
lược phát triển kinh tế nhanh gắn với giáo dục và khoa học. Năm 2009, nước Mỹ có
khoảng 137.500 người được cấp bằng kĩ sư trong khi Trung Quốc có tới 351.500 người.
Dự tính đến cuối năm 2020, khả năng đổi mới khoa học và công nghệ của Trung Quốc
được phát triển mạnh mẽ, đủ điều kiện trở thành một trong những quốc gia đổi mới
nhất thế giới. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã coi sáng tạo công nghệ là mục tiêu toàn
cầu của họ trong tất cả các lĩnh vực từ và điểm sáng nhất của họ là những phát triển
vượt bậc trong công nghệ năng lượng sạch. Và đó cũng chính là mục tiêu theo đuổi của
công ty Haier. Cụ thể, năm 1997, Haier đã sản xuất loại tủ lạnh không CFC đầu tiên tại
Trung Quốc, và trong khoảng thời gian tiếp theo Haier vẫn theo đuổi việc sản xuất các
sản phẩm “xanh”. Và mới đây tại Triển lãm hàng điện tử tiêu dùng IFA 2010, Haier đã
giới thiệu ý tưởng về chiếc máy giặt đặc biệt. Thay vì lấy điện trực tiếp từ lưới điện gia
đình, một chiếc xe đạp với pin li-on sẽ cung cấp năng lượng cho máy. Mặc dù máy giặt
chạy bằng "sức người" đang dừng lại ở mức ý tưởng nhưng Haier cho biết, nhiều khả
năng sản phẩm này sẽ sớm xuất hiện trên thị trường. Với mục tiêu này, các sản phẩm
của Haier đã đạt được sự thân thiện với môi trường và được xác nhận là sản phẩm
“sạch” . Bên cạnh đó, công ty cũng đề phòng việc bị đánh cắp công nghệ ở các đối thủ
cạnh tranh bằng cách đăng kí 7000 bằng sáng chế công nghệ và 589 quyền sở hữu trí
tuệ.
2.1.3 Môi trường văn hóa-xã hội:
Sự thay đổi của môi trường văn hóa xã hội cũng dẫn đến các cơ hội cũng như đe
dọa cho các doanh nghiệp. Các giá trị văn hóa và các thái độ xã hội đưa tới một sự thay

đổi lớn lao trong tiêu dùng các loại hàng hóa, và hàng gia dụng cũng không phải là
ngoại lệ.
 Quan tâm về vấn đề sức khỏe và môi trường:
Hiện nay Trung Quốc đang là thị trường tiêu thụ đồ điện tử gia dụng lớn lớn
nhất thế giới và cũng là nơi tiêu dùng đồ điện tử gia dụng lớn nhất thế giới. Chính vì
thế, ô nhiễm môi trường bởi chất thải công nghiệp cũng như chất thải điện tử (các hoá
chất nguy hại được thải ra từ các sản phẩm đang được sử dụng và ở cuối vòng đời của
sản phẩm) đang là vấn đề được dư luận quan tâm. Trong thành phần các sản phẩm này
có những chất gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, đặc biệt ảnh hưởng đến sự phát triển trí
tuệ của trẻ em, đồng thời gây gây ô nhiễm nghiêm trọng cho đất đai và khí quyển. Nhận
thức của người dân Trung Quốc nói riêng và người dân toàn cầu nói chung về vấn đề
này đã được nâng cao rõ rệt trong thời gian qua. Theo một cuộc điều tra thì tất cả người
dân các nước đều sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn cho hàng hóa bảo vệ môt trường, riêng
Trung Quốc chiếm tới 98%. Theo công bố vào tháng 9/2009 chỉ tiêu sức khoẻ của
người dân Trung Quốc đang dẫn đầu các nước phát triển. Chính những con số này đã
cho thấy được một xu hướng tiêu dùng hàng hóa không gây hại cho môi trường. Chính
vì thế trong các sản phẩm gần đây của mình, Haier đã chú trọng rất nhiều vào các chỉ
tiêu về môi trường, các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường. Từ năm 2005, Haier
đã thực hiện chiến lược đưa ra các sản phẩm sạch của Haier với việc bảo tồn năng
lượng và tái chế các sản phẩm cũ. Chiến lược này gồm 4 phần: hệ thống quản lý môi
trường, hệ thống sản xuất bên ngoài, môi trường thiết kế và kết thúc chu kì sống sản
phẩm.
 Xu hướng tiêu dùng hàng hóa:
 Tâm lý ưa thích sử dụng hàng ngoại
Người dân Trung Quốc đều thích sử dụng hàng ngoại, kể cả các mặt hàng sản
xuất trong nước bán ở nước ngoài vì họ nghĩ chất lượng hàng hóa được đảm bảo hơn.
Ngay cả đối với thế hệ 8x ở Trung Quốc, thu nhập không phải là mối bận tâm hàng đầu,
bởi vì dù kiếm được ít hay nhiều tiền thì họ vẫn ném phần lớn số tiền lương vào các đồ
đắt tiền. Hàng xa xỉ được coi là công cụ thể hiện đẳng cấp một cách hiệu quả nhất đối
với thế hệ trẻ. Cơn khát sản phẩm hàng hiệu của giới trẻ Trung Quốc thực ra chẳng phải

là hiện tượng mới mẻ hay bí mật, bởi người tiêu dùng Trung Quốc mua tới 10% số
lượng hàng hiệu trên toàn thế giới. Nhiều người trong số họ quan niệm rằng “Ở châu Á
hiện đại, trang phục trên người bạn thể hiện đẳng cấp xã hội” hay “vị trí của bạn trong
xã hội được thể hiện qua bộ trang phục hiệu Chanel hay điện thoại Iphone”. Trên thực
tế, thói quen này đang trở thành một phần trong công thức xây dựng quan hệ cá nhân ở
Trung Quốc. Đem tặng những sản phẩm đắt tiền cũng là cách để thể hiện sự thành đạt
và đẳng cấp, một nếp nghĩ đã ăn sâu vào văn hóa Trung Quốc. Đây quả thật là một đe
dọa cho doanh nghiệp Trung Quốc như Haier khi mà thương hiệu của họ còn quá non
nớt so với các công ty lừng danh trên thế giới. Chính vì thế, Haier đã trong thời gian
gần đây đã có nhiều nỗ lực để vươn vào thị trường cao cấp thế giới bằng việc mua lại
các công ty có thương hiệu vững mạnh ở nước ngoài. Bên cạnh đó, công ty còn có
những sản phẩm riêng như sản phẩm tủ đông chứa rượu khi bước vào thị trường cao
cấp ở Mỹ. Tuy còn nhiều khó khăn nhưng thiết nghĩ cũng là một thách thức, một động
lực cho doanh nghiệp cải tiến không ngừng, sáng tạo không ngừng đề xây dựng và phát
triển thương hiệu.
 Tiêu dùng cho hàng điện tử gia dụng đang tăng nhanh
Mức sống tăng cao ở Trung Quốc đã giúp nhiều người có điều kiện bổ sung
thêm tiện nghi cho gia đình. Một trong những đồ gia dụng được ưu tiên hàng đầu là
chiếc máy điều hoà. Theo thống kê năm 2006, ở Trung Quốc cứ 100 gia đình thì có 87,2
hộ có gắn máy điều hoà, trong khi trước đó 7 năm chỉ có 24,4 gia đình sở hữu tiện nghi
này. Vùng nông thôn chiếm đến 2/3 dân số Trung Quốc là vùng tiêu thụ máy điều hoà
nhanh nhất. Năm 2005, cứ 100 hộ dân nông thôn thì có 6,4 hộ có máy điều hoà, tỷ lệ
tăng là 35 lần so với 19 năm trước. Với một trong những sản phẩm chủ đạo của mình là
máy điều hòa, Haier đã khai thác rất tốt xu hướng này. Công ty liên tục đưa ra các sản
phẩm mới, phù hợp về mặt giá cả, kiểu dáng thiết kế phong phú. Ngoài ra, với xu
hướng tiêu dùng của người dân châu Á đang ngày càng tăng cho các thiết bị điện tử gia
dụng ( Doanh thu của các sản phẩm này đạt mức 8,94 tỷ USD trong 2009, tăng 17% so
với cùng kỳ năm ngoái), đặc biệt là tivi - mặt hàng bán chạy nhất tại châu Á với chi tiêu
5,3 tỷ USD (năm 2008) cho mặt hàng này, Haier đã liên tục đưa ra các mẫu mã mới cho
dòng sản phẩm này. Dự báo đến năm 2011, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ để trở thành nước

tiêu thụ màn hình phẳng lớn nhất thế giới. Trung Quốc sẽ chiếm 22% trong tổng số màn
hình phẳng tiêu thụ trên toàn cầu, thị trường Mỹ chỉ chiếm 18%. Tiếp theo là thị trường
châu Á-Thái Bình Dương (không kể Trung Quốc) 15,6% và châu Mỹ Latinh 12,2%.
Năm 2011, thị trường châu Âu, Trung Đông và châu Phi (EMEA) là mảnh đất màu mỡ
nhất của các nhà sản xuất màn hình phẳng LCD, với hơn 30% sản lượng sẽ được tiêu
thụ tại đó. Các thị trường này Haier đều đã có mặt từ những năm trước đây và đã có
những dấu ấn trong hoạt động của mình. điều này cho thấy đựoc tầm nhìn chiến lược
của Haier khi vươn ra thị trường thế giới. Chắc chắn sắp tới công ty sẽ có được thị
phần không nhỏ tại các quốc gia này (Năm 2005, Haier xây dựng cơ sở sản xuất tại thị
trường Trung Đông và Nigeria, năm 2007 ở Thái Lan, năm 2008 ở Việt Nam…)
2.2.4 Môi trường nhân khẩu học
Yếu tố nhân khẩu học của Trung Quốc đang thay đổi. Chính sách một con mà chính
phủ Trung Quốc áp dụng vào thập niên 1970 đã khiến số lao động trẻ trong lực lượng
lao động giảm sút.
Cơ cấu dân số thuộc kiểu thu hẹp: tháp có dạng phình to ở giữa, thu hẹp về hai
phía đáy và đỉnh tháp; thể hiện sự chuyển tiếp từ dân số trẻ sang dân số già, tỉ suất sinh
giảm nhanh, nhóm trẻ em ít, gia tăng dân số có xu hướng giảm dần. Trong khi lực
lượng lao động trẻ giảm xuống, số người cao niên tăng theo nhịp điệu lũy tiến: năm
2008, Trung Quốc có 169 triệu người trên 60 tuổi (13% dân số), dự kiến sẽ tăng lên 250
triệu trong 10 năm nữa và đến năm 2050, cứ 3 người dân thì có 1 người già. Dân số lao
động mỗi năm giảm 10 triệu từ năm 2005, và dân số trẻ từ 20-24 tuổi sẽ giảm 25%
trong thập niên tới.
Thời kỳ “lợi thế nhân khẩu” ở Trung Quốc cơ bản đã kết thúc. Các chính sách
cải thiện kinh tế nông thôn gần đây đã làm giảm số lượng lao động từ nông thôn đổ về
thành thị. Đồng thời, điều kiện chất lượng cuộc sống nâng cao, tuổi thọ tăng, cùng với
chính sách một con Trung Quốc đang đối mặt mới nguy cơ dân số già, thiếu sức lao
động.

×