LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU VÀ RÀO CẢN TRONG
XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về xuất khẩu hàng dệt may
a) Khái niệm về hàng hoá xuất khẩu
Hàng hoá xuất khẩu được hiểu gắn với thương mại hàng hoá, đó là những
sản phẩm hàng hoá hữu hình được sản xuất và gia công tại cơ sở sản xuất hay
tại các khu chế xuất nhằm mục đích tiêu thụ tại thị trường nước ngoài có đi qua
hải quan.
Theo khái niệm này thì hàng tạm nhập tái xuất cũng được coi là hàng hoá
xuất khẩu, còn các hàng hoá quá cảnh thì không được coi là hàng hoá xuất khẩu.
Yêu cầu đối với hàng hoá xuất khẩu là phải đáp ứng được các nhu cầu
của người tiêu dùng tại nước nhập khẩu. Chất lượng của hàng hoá phải đáp ứng
được các yêu cầu về thông số kỹ thuật, phải phù hợp với các tiêu chuẩn về môi
trường, tiêu chuẩn về sử dụng lao động, tiêu chuẩn về quy trình sản xuất... do
nước nhập khẩu đưa ra; và trên hết nó phải có tính cạnh tranh cao ở nước nhập
khẩu.
b) Khái niệm về hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hóa là hoạt động buôn bán được diễn ra giữa các doanh
nghiệp của các quốc gia với nhau, phương tiện thanh toán là những đồng tiền
chung hoặc những đồng tiền mạnh trên thế giới. Hoạt động xuất khẩu phản ánh
mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia và sự phân công lao động quốc tế,
chuyên môn hoá sản xuất quốc tế dựa trên lợi thế so sánh của quốc gia. Hoạt
động xuất khẩu cho chúng ta thấy rõ sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ
giữa các quốc gia trên thế giới. Do đó, hoạt động xuất khẩu đòi hỏi cần có sự
phối hợp nhịp nhàng trong bản thân mỗi nước và giữa tất cả các nước với nhau.
c) Khái niệm về thị trường xuất khẩu hàng hóa
Thị trường xuất khẩu hàng hoá là tập hợp những người mua và người bán
có quốc tịch khác nhau để xác định giá cả, sản lượng hàng hoá mua bán, chất
lượng hàng hoá và các điều kiện khác theo hợp đồng, thanh toán chủ yếu bằng
các ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới.
1.1.2 Các hình thức xuất khẩu hàng dệt may
Trong xuất khẩu hàng hoá, các doanh nghiệp có thể xây dựng rất nhiều
hình thức xuất khẩu khác nhau. Nhưng trong ngành dệt may với đặc thù ngành
nghề thường bao gồm một số hình thức xuất khẩu sau đây:
a) Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là một hình thức kinh doanh quốc tế mà trong đó nhà
sản xuất và nhà nhập khẩu tiến hành trao đổi trực tiếp với nhau, có thể thông
qua các phương tiện giao tiếp hiện đại như điện thoại, thư tín, fax, email (thư
điện tử)… để thoả thuận với nhau về các điều khoản hợp đồng.
Thông qua xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp có thể thu được lợi
nhuận cao hơn do giảm được chi phí trung gian, các bên đễ đi đến thống nhất, ít
xảy ra hiểu lầm, việc xuất khẩu diễn ra nhanh chóng và mang lại hiệu quả cao.
Hơn thế các doanh nghiệp có điều kiện trực tiếp tiếp cận với thị trường để thích
ứng với nhu cầu thị trường một cách tốt nhất, có điều kiện chủ động thâm nhập
vào thị trường thế giới.
Tuy nhiên đối với thị trường mới việc xuất khẩu hàng dệt may trực tiếp
dễ bị ép giá. Doanh nghiệp tham gia hình thức xuất khẩu này phải có đủ tiềm
lực tài chính, có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, giao tiếp tốt, được đào tạo một
cách cơ bản, nắm vững và tinh thông nghiệp vụ về thị trường ngoại thương, tâm
huyết với nghề và có kinh nghiệm.
b) Xuất khẩu uỷ thác
Đây là hoạt động xuất khẩu diễn ra giữa một doanh nghiệp có nhu cầu
xuất khẩu một loại hàng hoá nào đó nhưng không có đủ điều kiện tham gia xuất
khẩu trực tiếp, họ phải tiến hành hoạt động uỷ thác cho một trung gian có khả
năng tham gia xuất khẩu trực tiếp hàng hoá đó để tiến hành giao dịch mua bán
với bên tham gia nhập khẩu. Tổ chức trung gian nhận uỷ thác tiến hành xuất
khẩu hàng hoá với danh nghĩa của mình nhưng mọi chi phí đều do bên uỷ thác
thanh toán và họ nhận được một khoản tiền gọi là phí uỷ thác.
Xuất khẩu hàng dệt may thông qua hình thức này đang ngày càng trở nên
phổ biến. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ không phải tổ chức một
bộ phận phục vụ cho công tác xuất khẩu nên giảm được chi phí, đồng thời cũng
giúp doanh nghiệp giảm được rủi ro khi thâm nhập một thị trường mới.
Bên cạnh đó hình thức xuất khẩu này cũng có một số bất lợi như: làm cho
doanh nghiệp bị mất quan hệ trực tiếp với thị trường, bị phụ thuộc vào trung
gian, bị tách rời với thị trường bên ngoài nên hệ thống thông tin phản hồi từ
khách hàng và thị trường không chính xác, kịp thời, ngoài ra các doanh nghiệp
xuất khẩu còn phải mất một khoản phí uỷ thác.
c) Gia công xuất khẩu
Gia công xuất khẩu là việc doanh nghiệp xuất khẩu chính là bên nhận gia
công cho một doanh nghiệp nước ngoài (bên đặt gia công). Khi đó bên đặt gia
công sẽ cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm để
bên nhận gia công tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt
gia công. Toàn bộ sản phẩm làm ra bên nhận gia công sẽ giao lại cho bên đặt gia
công để nhận một khoản thù lao (phí gia công).
Hình thức gia công xuất khẩu giúp các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
khắc phục được mâu thuẫn giữa thừa sức sản xuất mà thiếu nguyên liệu ở Việt
Nam. Bên cạnh đó, hình thức gia công còn có tác dụng phát triển nguồn lao
động, tăng thêm cơ hội việc làm, tăng nguồn thu ngoại tệ và phát triển kinh tế.
Mặt khác, giúp các doanh nghiệp thu hút các kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý
tiên tiến của nước ngoài.
d) Mua đứt, bán đoạn
“Mua đứt, bán đoạn” là hình thức xuất khẩu mà các doanh nghiệp xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam mua nguyên liệu từ nước ngoài, gia công thành
thành phẩm, làm tăng giá trị, sau đó bán ra thị trường nước ngoài, kiếm giá trị
chênh lệch từ nguyên liệu đến thành phẩm, doanh nghiệp trong nước phải chịu
những rủi ro khi tiêu thụ ở thị trường. Do đó lợi nhuận thu được từ hình thức
“mua đứt, bán đoạn” thường cao hơn nhiều lần so với gia công xuất khẩu.
“Mua đứt, bán đoạn” và gia công xuất khẩu tuy cùng thuộc phương thức
buôn bán “hai đầu ở ngoài” nhưng nó những điểm khác biệt rõ rệt. Trong gia
công xuất khẩu không có sự chuyển quyền sở hữu và người cung ứng nguyên
vật liệu và người mua thành phẩm là một, nhưng trong hình thức “mua đứt, bán
đoạn” có xảy ra chuyển quyền sở hữu, người cung ứng nguyên liệu và người
mua thành phẩm không có liên hệ chắc chắn nào.
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đang phấn đấu để
tăng dần tỷ lệ “mua đứt, bán đoạn” lên thay thế gia công xuất khẩu thuần tuý.
1.1.3 Lợi ích và các nhân tố ảnh hưởng trong xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam
a) Lợi ích của xuất khẩu hàng dệt may
Thứ nhất, lợi ích đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của việc xuất khẩu
hàng dệt may là giúp phát triển ngành dệt may trong nước. Xuất khẩu hàng dệt
may càng nhiều thì ngành dệt may càng lớn mạnh và càng thu hút được nhiều
lao động tham gia. Bên cạnh đó việc xuất khẩu hàng dệt may mang lại cho các
doanh nghiệp dệt may một khoản lợi nhuận lớn để từ đó doanh nghiệp có thể
đầu tư máy móc thiết bị... phục vụ cho sản xuất tốt hơn.
Thứ hai, Khi ngành dệt may đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thì sẽ buộc
phải mở rộng quy mô sản xuất và cần nhiều nguyên liệu hơn để phục vụ cho
ngành dệt may, điều đó sẽ kéo theo sự phát triển của ngành trồng bông và các
ngành có liên quan đến cung cấp nguyên phụ liệu. Nói tóm lại xuất khẩu hàng
dệt may đẩy mạnh sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ. Bên cạnh
đó, xuất khẩu hàng dệt may còn thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế nói
chung vì nó cho phép mở rộng quy mô sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nước, gây phản ứng dây chuyền kéo theo một loạt các ngành khác có liên
quan phát triển theo.
Thứ ba, xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng sẽ tạo
nguồn thu nhập, tích luỹ cho Nhà nước một nguồn vốn ngoại tệ lớn phục vụ cho
việc nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại… để phát triển sản xuất, phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời giúp cho mỗi
doanh nghiệp có cơ sở để tự hiện đại hoá sản xuất của mình, nâng cao năng lực
xuất khẩu trên trường quốc tế.
Thứ tư, việc ngành dệt may đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sẽ giúp Nhà
nước và bản thân các doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sẵn có và
các lợi thế của quốc gia cũng như của doanh nghiệp. Đồng thời tiếp cận với sự
phát triển của khoa học công nghệ trên mọi lĩnh vực để nâng cao chất lượng,
tăng sản lượng và hướng tới sự phát triển bền vững cho đất nước và doanh
nghiệp.
Thứ năm, tiến hành hoạt động xuất khẩu sản phẩm dệt may góp phần giúp
Nhà nước giải quyết công ăn việc làm, nâng cao mức sống người dân, đưa quốc
gia thoát khỏi sự đói nghèo và lạc hậu. Việc ngành dệt may đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm, khi đó sẽ thu hút được nhiều lao động hơn và tay nghề của người lao
động được nâng cao hơn.
Thứ sáu, nhờ có hoạt động xuất nhập khẩu mà sự hợp tác kinh tế giữa
nước ta với các nước khác ngày càng phát triển bền chặt và thân thiện. Điều đó
là do xuất khẩu chính là sự trao đổi giữa các quốc gia, là sự thể hiện mối quan
hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, là hình thức ban đầu của hoạt động đối
ngoại. Không chỉ có thế nó còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng cường
tiếp cận với thế giới bên ngoài, từ đó có nguồn thông tin vô cùng phong phú và
nhạy bén với cơ chế thị trường; thiết lập được nhiều mối quan hệ và tìm được
nhiều bạn hàng trong kinh doanh hợp tác xuất nhập khẩu.
Như vậy đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may có rất nhiều lợi ích
đối với không chỉ bản thân mỗi doanh nghiệp dệt may mà còn đối với cả nền
kinh tế quốc dân.
b) Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Các yếu tố thuộc về thị trường nước nhập khẩu hàng dệt may
Nhu cầu về hàng dệt may của nước nhập khẩu: nhu cầu về hành dệt may
ở nước nhập khẩu có một vai trò quyết định trong xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam. Nếu thị trường có một nhu cầu lớn về hàng dệt may Việt Nam thì hàng sẽ
xuất sang được nhiều và ngược lại. Tập quán tiêu dùng cũng như văn hoá và các
yếu tố khác mang tính địa phương như khí hậu, điều kiện kinh tế... cũng quyết
định nhu cầu về hàng dệt may tại thị trường đó. Doanh nghiệp phải thường
xuyên theo dõi khách hàng để nắm được nhu cầu của khách hàng trên cơ sở đó
mà xây dựng chiến lược sản xuất và xuất khẩu. Hiện nay nhu cầu về hàng dệt
may tại thị trường Hoa Kỳ khá lớn, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có
nhiều cơ hội để tăng xuất khẩu vào thị trường này.
Yếu tố cạnh tranh tại thị trường nước nhập khẩu: Hiện nay cung về hàng
dệt may tại các thị trường thường lớn hơn cầu về hàng dệt may vì vậy chủ yếu
chỉ có sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp hàng dệt may với nhau. Tại mỗi thị
trường thường có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, đặc biệt Hoa Kỳ là một thị
trường dệt may lớn nên đối thủ cạnh tranh đối với hàng dệt may Việt Nam càng
nhiều. Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc sau đó đến các
nước như ấn Độ, Banladesh, Thái Lan... và cả các doanh nghiệp dệt may của
chính Hoa Kỳ. Chính vì có nhiều đối thủ mạnh nên xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam cũng gặp không ít khó khăn và chưa tận dụng được hết các công suất của
mình.
Tập quán tiêu dùng của nước nhập khẩu: Khi xuất khẩu hàng dệt may
cũng như xuất khẩu các mặt hàng khác thì nhà xuất khẩu phải nghiên cứu tập
quán tiêu dùng của nước nhập khẩu để hàng hoá có thể đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng. Đặc biệt đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may phải quan
tâm chú ý đến yếu tố văn hoá - xã hội, yếu tố dân cư của quốc gia đó. Vì chính
điều đó tạo nên tập quán và nhu cầu tiêu dùng, thị hiếu khách hàng khác nhau ở
mỗi quốc gia. Từ đó doanh nghiệp sẽ xác định được sản phẩm với chất lượng,
hình thức, mẫu mã thích hợp cho tập khách hàng đó.
Chính sách thương mại và rào cản đối với hàng dệt may của nước nhập
khẩu: chính sách thương mại của nước nhập khẩu đối với hàng dệt may có vai
trò vô cùng quan trọng, quyết định việc xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường
đó có thành công hay không. Hàng dệt may là một trong những mặt hàng chịu
nhiều rào cản. Chính vì vậy hàng rào thuế quan hay hàng rào phi thuế quan của
nước nhập khẩu đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam. Để xuất khẩu hàng dệt may một cách thành công các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam cần phải nghiên cứu chính sách thương mại và rào cản của nước
nhập khẩu và tìm cách đối phó, vượt qua các rào cản đó.
Các yếu tố thuộc về nhà sản xuất
Ban lãnh đạo của doanh nghiệp: đây là yếu tố quyết định tới mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may
nói riêng. Vì đây là cơ quan đầu não gồm những người xây dựng chiến lược
kinh doanh và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: được thể hiện thông qua
+ Các yếu tố thuộc về sản phẩm: giá cả, mẫu mã, chất lượng sản phẩm,
thương hiệu... Những yếu tố này phải đáp ứng được một nhóm tiêu dùng nào đó
thì sản phẩm mới có khả năng tồn tại và đứng vững trên thị trường.
+ Uy tín của doanh nghiệp: đối với mỗi doanh nghiệp tài sản quý giá nhất
của họ chính là uy tín của doanh nghiệp, nó góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh
cho doanh nghiệp không chỉ trong xuất khẩu mà cả tiêu thụ hàng hoá.
+ Các dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như quảng
cáo, khuyến mại... Việc giới thiệu sản phẩm tới người tiêu dùng là một công cụ
quan trọng để xúc tiến bán hàng. Nếu việc giới thiệu sản phẩm của doanh
nghiệp được tổ chức tốt thì sẽ mở ra cho doanh nghiệp nhiều thị trường hơn
nữa.
Các nguồn lực của doanh nghiệp: Nguồn lực là một trong những yếu tố
quyết định thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong sản xuất cũng như
trong xuất khẩu. Đặc biệt với các doanh nghiệp dệt may - một ngành sử dụng
nhiều lao động thì nguồn nhân lực lại càng quan trọng hơn. Vì vậy các doanh
nghiệp dệt may phải chú ý trong đào tạo, nâng cao tay nghề và trình độ cho cán
bộ, công nhân viên.
Các yếu tố chính sách, luật pháp và các yếu tố khác của môi trường trong
nước, quốc tế
Chính sách xuất khẩu của Việt Nam ảnh hưởng rất lớn đến kết quả xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Nếu Chính phủ có hướng khuyến khích sự
phát triển của ngành thì ngành sẽ có các điều kiện thuận lợi để sản xuất cũng
như xuất khẩu. Chính vì vậy mà hoạt động xuất khẩu sẽ có kết quả tốt.
Luật pháp và các hoạt động hành chính sự nghiệp cũng ảnh hưởng tới
việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Nếu Việt Nam có hệ thống luật
pháp chuẩn mực với bộ phận hành chính làm việc không quan liêu sẽ tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp làm thủ tục hải quan cũng như các thủ tục khác một
cách nhanh chóng và chính xác. Các bộ phận này không gây phiền nhiễu cho
doanh nghiệp sẽ không làm chậm trễ việc thực hiện đơn hàng của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó các quy chế, hiệp định liên quan tới thương mại quốc tế
cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Mặc
dù hiện nay Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO nhưng các nước nhập
khẩu hàng dệt may của Việt Nam hầu hết là thành viên của WTO vì vậy khi
xuất khẩu Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các hiệp định và quy định này.
1.2 RÀO CẢN TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
1.2.1 Khái niệm và phân loại rào cản trong xuất khẩu hàng dệt may
a) Khái niệm
Theo hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại của tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) khái niệm hàng rào được thừa nhận như một thoả
thuận rằng “không một nước nào có thể bị ngăn cản tiến hành các biện pháp cần
thiết để đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu của mình, hoặc để bảo vệ cuộc
sống hay sức khoẻ con người, động và thực vật, bảo vệ môi trường hoặc để
ngăn ngừa các hoạt động man trá, ở mức độ mà nước đó cho là phù hợp và phải
đảm bảo rằng các biện pháp này không được tiến hành với cách thức có thể gây
ra phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không thể biện minh được giữa các
nước, trong các điều kiện giống nhau, hoặc tạo ra các hạn chế trá hình đối với
thương mại quốc tế, hay nói cách khác phải phù hợp với các quy định của hiệp
định này.
Theo cách hiểu chung: Rào cản trong thương mại là bất cứ biện pháp hay
hành động nào gây cản trở đối với thương mại quốc tế.
Vậy rào cản trong xuất khẩu hàng dệt may là bất cứ biện pháp hay hành
động nào gây cản trở đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may.
b) Phân loại
Cách 1: Theo cách tiếp cận của tổ chức Thương mại Thế giới
Có thể phân loại rào cản ra làm hai nhóm lớn là: rào cản thuế quan và phi
thuế quan.
Rào cản thuế quan:
Thuế quan là một khoản tiền tệ mà người chủ hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu hoặc quá cảnh phải nộp cho hải quan là cơ quan đại dịên cho nước chủ
nhà.
Thuế quan có rất nhiều vai trò quan trọng như điều tiết xuất nhập khẩu,
bảo hộ thị trường nội địa, tăng thu cho ngân sách Nhà nước… Thuế quan là một
trong những rào cản phổ biến nhất trong buôn bán quốc tế, giảm thuế quan là
biện pháp quan trọng. Vì vậy, đa số các hiệp định đa phương và song phương
đều dùng biện pháp cơ bản là giảm thuế nhập khẩu để thực hiện tiến trình tự do
hoá thương mại.
Trong thương mại quốc tế có rất nhiều loại thuế và mức thuế suất khác
nhau, có các loại thuế phổ biến sau:
Thuế phần trăm (thuế tính theo giá trị) là thuế tính tỷ lệ phần trăm so với
gía trị hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Cách tính thuế này được áp dụng nhiều
nhất vì dễ áp dụng và dễ quản lý. Tuy nhiên, hạn chế của cách tính thuế này là
việc phân loại sản phẩm tính thuế và xác định giá của sản phẩm khó thực hiện.
Nhìn chung loại thuế này còn ở mức cao nên WTO kêu gọi tất cả các nước
thành viên tiếp tục cam kết cắt giảm. WTO cũng có hiệp định điều tiết thủ tục
định giá hải quan nhằm giảm thiểu sự ảnh hưởng phức tạp của việc định giá hải
quan đến hoạt động thương mại quốc tế.
Thuế phi phần trăm (thuế tính theo số lượng) là loại thuế được tính ổn
định dựa theo khối lượng hoặc trọng lượng của hàng hoá xuất, nhập khẩu (số
tiền thuế phải nộp không phụ thuộc vào giá cả hàng hoá xuất, nhập khẩu). Đây
là cách tính thuế nhập khẩu không cần định giá trị sản phẩm, nên giảm được
hiện tượng gian lận có liên quan đến kê khai giá trị hàng hoá để trốn thuế. Tuỳ
theo cơ chế chính sách của từng nước và cũng tuỳ mặt hàng mà quy định quyền
lựa chọn áp dụng thuế phần trăm hay thuế tính thuần tuý theo số lượng (thuế
tuyệt đối thay thế).
Thuế đặc thù: bao gồm nhiều loại như thuế hạn ngạch, thuế đối kháng,
thuế chống bán phá giá, thuế thời vụ và thuế bổ sung.
Thuế hạn ngạch là loại thuế nhập khẩu với 2 mức thuế suất khác nhau
(thuế tối thiểu và thuế tối đa). Hàng hoá trong hạn ngạch thì có mức thuế suất
thấp, ngoài hạn ngạch thì phải chịu mức thuế suất cao hơn.
Thuế đối kháng (thuế chống trợ cấp xuất khẩu) là một loại thuế đặc biệt
đánh vào hàng nhập khẩu để bù vào việc nhà sản xuất và xuất khẩu sản phẩm đó
được chính phủ nước xuất khẩu trợ cấp. Vì việc bán những sản phẩm được trợ
cấp này đã hoặc sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất của nước
nhập khẩu đặc biệt là nhà sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc ngăn cản sự ra
đời của một ngành sản xuất mới.
Thuế chống phá giá là loại thuế được đánh vào hàng nhập khẩu khi hàng
hoá đó được xác định bị bán phá giá, hoặc sẽ bị bán phá giá trên thị trường nội
địa, với mức giá thấp hơn giá trị của hàng hoá đó. Mức phá giá là căn cứ để xác
định mức thuế, nguyên tắc tính mức phá giá rất phức tạp đòi hỏi quy trình điều
tra tỷ mỷ và chính xác.
Thuế bổ sung là loại thuế được đặt ra để thực hiện các biện pháp tự vệ
trong trường hợp khẩn cấp. Các Chính phủ có thể áp dụng thuế bổ sung cao hơn
mức thuế thông thường nếu như khối lượng hàng nhập khẩu của sản phẩm đó
tăng lên quá cao gây ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc có nguy cơ làm mất đi một
ngành sản xuất nào đó trong nước.
Trong biểu thuế nhập khẩu của một nước thường có rất nhiều loại thuế cụ
thể khác nhau cho cùng một loại sản phẩm đến từ các quốc gia khác nhau. Nếu