LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH THU VÀ PHÂN TÍCH DOANH THU
BÁN HÀNG TRONG MỘT DOANH NGHIỆP
I. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH THU.
Tiêu thụ hàng hoá là một khâu quan trọng trong quá trình sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp. Nó kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh và
mở ra một chu kỳ sản xuất kinh doanh mới. Sản phẩm hàng hoá chỉ được coi là
tiêu thụ khi doanh nghiệp nhận được tiền thanh toán hoặc chấp nhận thanh
toán của khách hàng. Khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ được biểu hiện
bằng hai hình thức đo lường, là đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị.Khối lượng
sản phẩm hàng hoá tiêu thụ được tính bằng đơn vị giá trị được coi là giá trị
sản lượng hàng hoá tiêu thụ hoặc doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ.
1. Khái niệm về doanh thu và ý nghĩa của việc tăng doanh thu.
1.1 Doanh thu và cách xác định doanh thu
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng số tiền mà doanh
nghiệp đã thu về hoặc sẽ thu được do việc bán các sản phẩm hàng hoá và dịch
vụ được xác định là đã hoàn thành trong một thời kỳ nhất định.
Chỉ tiêu này bao gồm các nội dung kinh tế sau:
- Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành và đã tiêu thụ
trong kỳ.
- Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành trong các kỳ
trước nhưng mới tiêu thụ được trong kỳ phân tích.
-Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành và giao cho
khách hàng trong các kỳ trước, nhưng nhận được thanh toán trong kỳ phân
tích.
Chỉ tiêu doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp
được xác định bằng công thức sau:
DT =
∑
=
n
i
ii
pq
1
*
Trong đó
qi : Khối lượng sản phẩm hàng hoá và cung cấp dịch vụ loại i mà
donh nghiệp tiêu thụ trong kỳ, tính bằng đơn vị hiện vật.
pi : giá bán đơn vị sản phẩm hàng hoá loại i
i = 1,n ; n số lượng mặt hàng sản phẩm hàng hoá mà doanh
nghiệp đã tiêu thụ trong kỳ.
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp có thể chia
thành các mức độ sau đây:
* Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, trong đó kể cả giá trị hàng
xuất nhập khẩu
Chỉ tiêu này bao gồm : giá trị hàng bán, thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp phải nộp, các khoản
giảm trừ: chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại và
các khoản trả bồi thường, chi phi sửa chữa hàng bị hỏng trong thời hạn bảo
hành.
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ phản ánh chung tổng giá trị
sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán ra trong kỳ.
* Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ
Theo quy định của chế độ hiện hành doanh thu thuần được xác định như
sau:
Dt =D – CK – G – H – T
Trong đó:
Dt: doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ.
D: tổng doanh thu.
CK: chiết khấu thương mại.
G: giảm giá hàng bán.
H: hàng bán bị trả lại.
T: Thuế TTĐB, thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, thuế xuất khẩu
phải nộp
Chiết khấu thương mại: Đây là khoản giảm trừ cho khách hàng tính trên
tổng số các nghiệp vụ đã được thực hiện trong thời gian nhất định , khoản
giảm trừ trên giá bán thông thường vì lý do mua hàng hoá dịch vụ với số
lượng lớn.
Hàng bán bị trả lại: Đây là giá trị số sản phẩm hàng hoa, dịch vụ đã tiêu
thụ bị khách hàng trả lại do các nguyên nhân như vi phạm hợp đồng kinh tế,
hàng kém chất lượng, không đúng chủng loại, quy cách, mẫu mã...
Giảm giá hàng bán: Đây la khoản giảm trừ cho khách hàng được người
bán chấp thuận một cách đặc biệt trên giá thoả thuận vì lý do hàng kém chất
lượng, không đúng quy cách phẩm chất quy định trên hợp đồng kinh tế.
Thuế xuất khẩu: Là loại thuế gián thu đánh vào các loại hàng hoá xuát
khẩu( thuộc danh mục hàng hoá bị đánh thuế) qua các cửa khẩu và biên giới
Việt Nam.
Thuế tiêu thụ đặc biệt: Là loại thuế gián thu đánh vào những hàng hoá,
dịch vụ mà Nhà nước có chính sách hạn chế tiêu dùng.
Thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp: là loại thuế gián thu
đánh vào giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua mỗi khâu trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Tổng số thuế thu được ở mỗi khâu bằng chính số
thuế tính trên giá của người tiêu dùng cuối cùng. Thuế giá trị gia tăng tính
theo phương pháp trực tiếp được áp dụng cho các đối tượng sau:
-Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam.
-Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế
toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ
thuế.
-Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.
* Doanh thu thuần
Doanh thu = doanh thu thuần về + các khoản
thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ hoàn nhập
Các khoản hoàn nhập bao gồm: dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ
phải thu khó đòi (thu bán hàng) không phát sinh trong kỳ báo cáo.
1.2 ý nghĩa của việc tăng doanh thu
Tăng doanh thu là một trong những mục tiêu nhằm thúc đẩy hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển. Doanh thu là chỉ tiêu kinh tế
phản ánh giá trị hàng hoá, thành phẩm dịch vụ bán ra trong kỳ và kết quả của
hoạt động kinh doanh, do đó tăng doanh thu thực chất là tăng lượng tiền thu
về cho doanh nghiệp đồng thời tăng lượng hàng hoá dịch vụ doanh nghiệp
cung cấp ra thị trường. Điều đó có nghĩa là việc tăng doanh thu vừa có ý nghĩa
đối với xã hội vừa có ý nghĩa thiết thực đối với doanh nghiệp.
* Đối với xã hội:
Việc tăng doanh thu góp phần thoả mãn tốt hơn các nhu cầu về vật chất,
tinh thần cho toàn xã hội. Doanh thu tăng có nghĩa là khả năng đáp ứng các
nhu cầu xã hội của doanh nghiệp cũng tăng lên, làm cho đời sống của nhân
dân ngày càng được cải thiện, nhờ đó mà đời sống văn hoá tinh thần cũng
được nâng cao.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế khác hẳn với nền kinh tế tập trung
ở chỗ số lượng hàng hoá được sản xuất ra nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của người tiêu dùng. Dưới tác động của quy luật cung cầu trong nền
kinh tế thị trường, khi đời sống nhân dân ngày càng cao dẫn đến cầu tăng, đòi
hỏi cung phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu, nếu không sẽ dẫn đến mất cân bằng
cung cầu. Do đó việc tăng doanh thu bán hàng góp phần
đảm bảo cân đối cung cầu, góp phần vào việc bình ổn giá cả trên thị trường.
Sang nền kinh tế thị trường, nhờ có sự mở rộng và sự xuất hiện của
nhiều hàng hoá mà giao lưu kinh tế giữa các khu vực, các nước, các châu ngày
càng tăng. Chứng tỏ doanh thu tăng lên làm cho sự giao lưu kinh tế giữa các
khu vực ngày càng mở rộng. Việc giao lưu văn hóa, kinh tế giữa các nước, các
khu vực hầu hết được thiết lập là bắt nguồn từ các hợp đồng kinh tế, từ lưu
thông buôn bán. Như vậy hoạt động bán hàng của doanh nghiệp là một hoạt
động tạo điều kiện cho doanh nghiệp vận động vào trong tiến trình hội nhập
kinh tế toàn cầu, ngoài ra việc tăng doanh thu làm tổng doanh thu bán hàng
tăng là cơ sở cho việc tạo ra uy tín, niềm tin cho đối tác, với các nước và với
khu vực.
Tăng doanh thu giúp cho doanh nghiệp ngày càng phát triển và mở rộng
sản xuất, làm cho nền kinh tế đất nước phát triển mạnh mẽ, thực hiện tốt chu
kỳ tái sản xuất xã hội. Đồng thời thông qua việc mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tạo ra công ăn việc làm nhiều hơn cho người
lao động trong xã hội,góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho người lao
động.
* Đối với doanh nghiệp.
Tăng doanh thu có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp. Lượng tiền
thu về từ việc bán hàng và cung cấp dịch vụ là nguồn tài chính quan trọng giúp
doanh nghiệp trang trải các khoản chi phí trong quá trình sản xuất kinh
doanh, góp phần đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được
liên tục và tạo ra lợi nhuận ngày càng cao. Tình trạng hàng hoá ế ẩm, tiêu thụ
chậm sẽ tạo ra tình trạng căng thẳng về tài chính, nguồn vốn bị ứ đọng trong
kho mà vẫn phải chịu chi phí như chi phí đi vay, chi phí cơ hội, do đó việc tăng
doanh thu đối với doanh nghiệp là rất quan trọng.
Việc tăng doanh thu sẽ bù đắp các khoản chi phí đã bỏ ra trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Tăng doanh thu là điều kiện để thực hiện tốt chức năng
kinh doanh, thu hồi vốn nhanh làm tăng tốc độ chu chuyển vốn giúp doanh
nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tăng doanh thu sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện thực hiện tốt chức
năng và nhiệm vụ của mình. Trước hết là tăng doanh thu là điều kiện cơ bản
để tăng thu nhập nhằm tái sản xuất mở rộng và cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Tăng doanh thu giúp
cho doanh nghiệp thực hiện tốt hơn nghĩa vụ của mình với ngân sách nhà
nước thông qua các khoản thuế, phí, lệ phí và thuế thu nhập doanh nghiệp phải
nộp.
Một ý nghĩa quan trọng khác của việc tăng doanh thu là nhờ vào doanh thu mà
doanh nghiệp sẽ chứng tỏ được vị thế, uy tín của mình trên thương trường,
củng cố vị trí vững chắc cho doanh nghiệp, duy trì sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp trong tương lai.
II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC PHÂN TÍCH DOANH THU.
1. Ý nghĩa của việc phân tích hoạt động kinh tế.
Trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn tại
và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Để đạt được kết
quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định
phương hướng mục tiêu trong đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện vốn có
về các nguồn nhân tài vật lực. Muốn vậy các doanh nghiệp cần nắm được các
nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết
quả kinh doanh. Điều này chỉ thực hiện được trên cơ sở của phân tích hoạt
động kinh tế.
Như chúng ta đã biết, mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm
trong thế tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể tiến hành phân tích
các hoạt động kinh doanh một cách toàn diện, mới có thể giúp cho các nhà
doanh nghiệp đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng
thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn
thành các mục tiêu biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế -kỹ thuật- tài chính
của doanh nghiệp.
Đồng thời, phân tích sâu sắc các nguyên nhân hoàn thành hay không
hoàn thành các chỉ tiêu đó trong sự tác động lẫn nhau giữa chúng. Từ đó, có
thể đánh giá đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu trong công tác quản lý doanh nghiệp.
Mặt khác, qua phân tích kinh tế giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp tìm ra
các biện pháp sát thực để tăng cường các hoạt động kinh tế và quản lý doanh
nghiệp, nhằm huy động mọi khả năng tiềm tàng về vốn, lao động, đất đai... vào
quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Thực hiện phân tích sẽ giúp doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá một cách
chính xác, toàn diện và khách quan tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch từ
đó tìm ra được những nguyên nhân, những sai lệch giữa thực tế và kế hoạch
để từ đó có biện pháp, chính sách quyết định điều chỉnh kịp thời và có hiệu quả.
Ngoài ra phân tích hoạt động kinh tế sẽ giúp cho doanh nghiệp phát hiện
ra được những khả năng tiềm tàng, bên cạnh những mâu thuẫn đó là những
kinh nghiệm, những sáng kiến, những tiến bộ khoa học được phát hiện ra. Đó
là những khả năng tiềm tàng từ bài học kinh nghiệm thực tế chỉ có thể tìm
thấy khi thực hiện phân tích một cách đúng đắn, thực tế khách quan cho dù
hoạt động kinh tế đó là thành công hay thất bại. Nhận biết được những khả
năng tiềm tàng đó giúp doanh nghiệp có biện pháp để khai thác và phát triển
chúng ngày càng có hiệu quả hơn làm động lực cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, làm cơ sở cho việc đề ra những phương án kinh doanh cho kỳ tới.
Những tài liệu của phân tích hoạt động kinh tế còn là căn cứ quan trọng
phục vụ cho việc dự đoán, dự báo xu thế phát triển sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
2. Ý nghĩa của việc phân tích doanh thu.
Nền kinh tế thị trường mở ra vô vàn cơ hội cho các doanh nghiệp có điều
kiện thuận lợi để phát triển, song bên cạnh đó có không ít nguy cơ, thách thức
và rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải do đó doanh nghiệp phải biết cách
hạn chế và né tránh rủi ro tạo ra điều kiện thuận lợi, môi trường tốt nhất cho
mình. Quy luật thị trường gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Do đó, để
tồn tại và phát triển bền vững thì đòi hỏi mỗi quyết định, mỗi bước đi của
doanh nghiệp phải có sự cân nhắc kỹ càng và phải dựa trên nền tảng vững
chắc đáng tin cậy thì mới đúng đắn và phù hợp với tình hình thực tế khách
quan và quy luật thị trường. Phân tích hoạt động kinh tế là công cụ quản lý có
hiệu quả và việc phân tích doanh thu là một nội dung quan trọng và cần thiết
đối với mỗi doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, khi sản xuất đã phát triển thì vấn đề trước
hết không phải là sản xuất, mà là tiêu thụ hàng hoá. Bởi vì:
-Có tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá doanh nghiệp mới thu hồi
được vốn, mới có quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Và như vậy, sản xuất
mới có thể ổn định và phát triển.
-Sản phẩm hàng hoá có tiêu thụ được, mới xác định đươc kết quả
tài chính cuối cùng của doanh nghiệp là lãi hay lỗ và ở mức độ nào.
-Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, xác định được
những nguyên nhân, tìm ra những biện pháp tích cực, nhằm đưa qua trình tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp đạt được mục tiêu là:tiêu thụ với
khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, giá bán cao, thị trường ổn định
và thu được lợi nhuận cao trong tương lai.
-Phân tích doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là cơ sở để
tính ra các chỉ tiêu chất lượng, nhằm đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp trong từng thời kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phân tích doanh thu nhằm nhận thức và đánh giá một cách đúng đắn,
khách quan tình hình tiêu thụ hàng hoá trong kỳ kinh doanh cả về số lượng,
kết cấu, chủng loại cũng như chất lượng, giá cả. Qua đó thấy được kết quả đã
đạt được cũng như vấn đề còn tồn tại từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời có
hiệu quả nhằm thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá.
Việc phân tích doanh thu sẽ xác định được các nguyên nhân chủ quan
cũng như các nguyên nhân khách quan làm ảnh hưởng tới việc tăng giảm
doanh thu và xác định một cách tương đối chính xác các chỉ tiêu có liên quan
từ đó đề ra được những kinh nghiệm, biện pháp khắc phục cho kỳ kinh doanh
tiếp theo.
Phân tích doanh thu không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả kinh
doanh thông qua các chỉ tiêu kinh tế mà còn đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh được biểu hiện ở các chỉ tiêu gián tiếp, do đó
việc phân tích doanh thu sẽ tìm ra được các nhân tố ảnh hưởng từ đó có biện
pháp hiệu quả hơn.Ví dụ doanh thu bán hàng phụ thuộc vào lượng hàng hoá
bán ra, giá cả hàng hoá và cơ cấu mặt hàng bán ra khác nhau. Và khối lượng
hàng bán ra lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như đối thủ cạnh tranh,
nhu cầu tiêu dùng, giá cả nguyên vật liệu sản xuất, chính sách kinh tế... Vì vậy
cần phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.
Việc phân tích doanh thu cung cấp đầy đủ một cách rõ ràng hơn về tình
hình sản xuất kinh doanh cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp. Điều
này sẽ giúp cho doanh nghiệp có hướng đi đúng đắn hơn, có thể thấy được
những hạn chế, những yếu điểm và đề ra những sáng kiến vận dụng thế mạnh
của doanh nghiệp.
Những số liệu phân tích doanh thu tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp
lám cơ sở, căn cứ để phân tích các chỉ tiêu kinh tế khác như:
-Phân tích tình hình mua hàng.
-Phân tích tình hình dự trữ hàng hoá.
-Phân tích mối quan hệ giữa sản xuấ và tiêu thụ hàng hoá.
-Phân tích tình hình lợi nhuận.
III. CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ NGUỒN TÀI LIỆU SỬ DỤNG TRONG
PHÂN TÍCH DOANH THU.
1. Các phương pháp sử dụng trong phân tích.
Phân tích hoạt động kinh tế là môn khoa học nghiên cứu các hiện tượng
và quá trình kinh tế phát sinh trong quá trình tái sản xuất xã hội nói chung
cũng như trong từng doanh nghiệp nói riêng, nhằm nhận thức đúng đắn về
bản chất, nội dung và tìm ra quy luật phát triển của chúng. Để đạt được mục
đích trên thì phải dựa vào nhưng cơ sở lý lụân về kinh tế, chính trị cũng như
những khái niệm, phạm trù và những quy luật kinh tế của nền sản xuất, lưu
thông hàng hoá. Bên cạnh đó, việc phân tích các hoạt động kinh tế phải dựa
trên cơ sở áp dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, vì đây là
phương pháp cơ bản mang tính khoa học nghiên cứu các hiện tượng kinh tế,
xã hội. Để phân tích doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, chúng ta cũng
phải sử dụng các phương pháp phân tích này.
Các phương pháp sử dụng khi phân tích doanh thu bao gồm:
1.1 Phương pháp so sánh.
So sánh là một phương pháp nghiên cứu để nhận thức được các hiện
tượng, sự vật thông qua quan hệ đối chiếu tương hỗ giữa sự vật, hiện tượng
này với sự vật, hiện tượng khác. Mục đích của so sánh là thấy được sự giống
nhau hoặc khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng. So sánh là phương pháp
nghiên cứu được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học trong đó có
phân tích hoạt động kinh tế. Phương pháp so sánh được sử dụng trong phân
tích hoạt động kinh tế bao gồm nhiều nội dung khác nhau:
- So sánh giữa số thực hiện của kỳ báo cáo với số kế hoạch hoặc số định
mức để thấy được mức độ hoàn thành bằng tỷ lệ % hoặc số chênh lệch tăng
giảm.
- So sánh giữa số liệu thực hiện kỳ báo cáo với số thực hiện cùng kỳ năm
trước hoặc các năm trước. Mục đích của việc so sánh này để thấy được sự biến
động tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế qua những thời kỳ khác nhau và xu thế
phát triển của chúng trong tương lai.
- So sánh giữa số liệu thực hiện của một đơn vị này với một đơn vị khác
để thấy được sự khác nhau và mức độ, khả năng phấn đấu của đơn vị. Thông
thường thì người ta thường so sánh với những đơn vị bình quân tiên tiến trở
lên.
Ngoài ra, trong phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp người ta
thường so sánh giữa doanh thu với chi phí để xác định kết quả kinh doanh
hoặc so sánh giữa chỉ tiêu cá biệt với chỉ tiêu chung để xác định tỷ trọng của nó
trong chỉ tiêu chung.
Để áp dụng phương pháp so sánh, các chỉ tiêu đem so sánh phải đảm
bảo tính đồng nhất: Tức là phải phản ánh cùng một nội dung kinh tế, phản ánh
cùng một thời điểm hoặc cùng một thời gian phát sinh và cùng một phương
pháp tính toán như nhau.
* So sánh tuyệt đối:
Là kết quả so sánh giá trị của chỉ tiêu giữa 2 kỳ. Số tuyệt đối có thể tính
bằng giá trị hiện vật, giờ công và là cơ sở để tính trị số khác.
Chênh lệch tuyệt đối = số kỳ phân tích – số kỳ gốc
* So sánh tương đối:
Là kết quả so sánh giữa số kỳ phân tích với số kỳ gốc đã được điều chỉnh
theo hệ số chỉ tiêu có liên quan theo hướng quyết định quy mô của chỉ tiêu
phân tích.
- Số tương đối hoàn thành kế hoạch.