cơ sở lý luận chung về xuất khẩu chè
của việt nam.
I.vai trò xuất khẩu chè trong nền kinh tế quốC dân.
1.Sự phát triển của ngành chè Việt Nam.
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, cả nước ta bước vào một thời kỳ đổi mới.
Sau khi tiến hành thành công một thử nghiệm ở giai đoạn trước như: Liên kết
công nông nghiệp (năm 1979 ra đời và hoạt động các xí nghiệp Liên hiệp công
nông nghiệp - sản xuất chè ở trung du miền núi như: Phú Thọ, Yên Bái) cải tiến hệ
thống sản xuất và tổ chức quản lý (1983 - 1986), năm 1987 ngành chè bắt đầu
bước vào một giai đoạn tiến hành những thử nghiệm và đổi mới kinh tế một cách
căn bản và hệ thống.
Chè là loại cây công nghiệp dài ngày được trồng ở các tỉnh trung du và miền
núi phía Bắc và Lâm Đồng. Sản xuất trong nhiều năm qua đã đáp ứng được nhu
cầu về chè uống của nhân dân, đồng thời xuất khẩu đạt kim ngạch hàng triệu USD
hàng năm. Tuy có những thời điểm giá chè thấp làm cho đời sống người làm chè
gặp nhiều khó khăn, nhưng nhìn tổng thể cây chè vẫn là cây giữ vị trí quan trọng
đối với nền kinh tế quốc dân và tạo việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho
một bộ phận đáng kể nhân dân ở các vùng trung du, miền núi, vùng cao, vùng xa
và góp phần bảo vệ môi sinh. Vì vậy việc phát triển sản xuất chè là một hướng
quan trọng nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn
nước ta.
Biểu 1 : Lực lượng sản xuất của ngành chè Việt Nam trong những năm 2000.- 2010
Đơn vị tính: Nghìn tấn
Chỉ tiêu
Năm
2000 2001 2002
*
2010
*
Sản lượng chè búp tươi 30 450-500
Sản lượng chè búp khô 12 58 150-180
Xuất khẩu 55 40 56 110
Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam., Ghi chú * số ước tính và dự báo
Diện tích chè của cả nước hiện nay chiếm tỷ lệ khá lớn, năm 1999 là 82
nghìn ha chè, năm 2000 là 84 nghìn ha chè. Trong đó diện tích kinh doanh chiếm
65 nghìn ha, diện tích trồng mới là 2,2 nghìn ha, diện tích kỹ thuật cơ bản là 12,6
nghìn ha. Sản lượng chè khô xuất khẩu là 55 nghìn tấn năm 2000, đạt kim ngạch
xuất khẩu 63 triệu USD. Năng suất chè búp tươi năm 1999 là 4,46 tấn/ ha. Đó là
một thành tựu đáng kể của nghành chè Việt Nam trong công cuộc phủ xanh đất
trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết việc làm cho người lao
động và làm nghĩa vụ quốc tế mà Chính phủ giao phó. Năm 2001, xuất khẩu được
40 ngàn tấn đạt giá trị là 70 triệu USD, dự tính năm 2002 sẽ xuất khẩu được 56
ngàn tấn.
2.Vị trí của ngành chè trong nền kinh tế quốc dân.
Chè là cây công nghiệp dài ngày, trồng một lần cho thu hoạch nhiều năm.
Tuổi thọ của chè kéo dài 50 - 70 năm, cá biệt nếu chăm sóc tốt có thể tới hàng trăm
năm. Chè đã có ở Việt Nam từ hàng ngàn năm nay, một số cây chè ở Suối Giàng
(Nghĩa Lộ) có tuổi thọ 300 - 400 năm. Nhiều nhà khoa học cho rằng Việt Nam là
một trong những cái nôi của cây chè.
Chè là thứ nước uống có nhiều công cụ, vừa giải khát, vừa chữa bệnh.
Người ta tìm thấy trong chè có tới 20 yếu tố vi lượng có lợi cho sức khoẻ, ví dụ
cafein kích thích hệ thần kinh trung ương, tamin trị các bệnh đường ruột và một số
axit amin cần thiết co cơ thể.
Chè được trồng chủ yếu ở trung du, miền núi và có giá trị kinh doanh tương
đối cao. Một ha chè thu được 5 - 6 tấn chè búp tươi (nhiều năm nay có giá tương
đương thóc), có giá trị ngang với một ha lúa ở đồng bằng và gấp 3 - 4 lần một ha
lúa nương. Vì vậy có thể nói cây chè là cây "xoá đói giảm nghèo, điều hoà lao
động từ đồng bằng lên các vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần phát triển kinh tế miền
núi bảo vệ an ninh biên giới.
Sản xuất và xuất khẩu chè thu hút một lượng lao động khá lớn (hơn 22 nghìn
lao động chính kể cả lao động chính, kể cả lao động phụ và lao động dịch vụ là gần
300 nghìn người với mức thu nhập ổn định và không ngừng tăng (thu nhập bình
quần quân toàn ngành năm 1996 đạt 250 nghìn đồng/người/tháng, năm 9 tăng lên
350 nghìn người/tháng).
Trồng chè cũng chính là "phủ xanh đất trồng đồi trọc", cải thiện môi trường
sinh thái. Với phương châm trồng chè kết hợp nông lâm, đào dãy hào giữa các
hàng chè để giữ mùn giữ nước, sử dụng phân bón hợp lý… ngành chè đã gắn kết
được phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
Chè là một sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao và tiềm năng xuất khẩu lớn.
+ Một ha chè thâm canh thu hoạch được 10 tấn búp tươi chế biến được hơn
2 tấn chè khô, đem xuất khẩu sẽ thu được một lượng ngoại tệ tương đương với khi
xuất khẩu 200 tấn than và đủ để nhập khẩu 46 tấn phân hoá học.
+ Trên thế giới có khoảng 30 nước trồng chè nhưng có tới 100 nước uống
chè. Như vậy tiềm năng về thị trường của chè Việt Nam rất dồi dào. Tuy nhiên, tốc
độ phát triển cây chè của ta so với thế giới còn chậm. Năm 1939, Việt Nam xuất
khẩu 2400 tấn chè - đứng hàng thứ 6 trên thế giới, đến nay, Việt Nam xuất khẩu
được hơn 20.000 tấn chè - đứng hàng thứ 17. Có thể thấy, trong vòng 60 năm, sản
lượng xuất khẩu của ta tăng 8 lần những vị trí của ta đã tụt đến 10 bậc.
+ Sản xuất chè của ta có nhiều thuận lợi: Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu rất
thích hợp với cây chè. Quỹ đất trồng chè lớn (khoảng 20 vạn ha) trong khi hiện nay
ta mới chỉ trồng được khoảng 7 vạn ha. Bên cạnh đó, lao động vốn là lợi thế so
sánh của nước ta, đặc biệt là lao động nông nghiệp với kinh nghiệm lâu đời trong
trồng về chế biến chè.
Tóm lại, có thể kinh ngạch xuất khẩu chè còn kém xa các mặt hàng mũi
nhọn khác (dầu mỏ, than, gạo…) nhưng xét đến những tác động tích cực của nó về
mặt xã hội và để tận dụng mọi nguồn lực hiện có, chúng ta nên tiếp tục phát triển
sản xuất và xuất khẩu chè trong thời gian tới.
3. Vai trò của xuất khẩu chè
chè là một cây công nghiệp dài ngày,thích hợp với khí hậu và đất đai ở miền
núi phía bắc và trung du của nước ta.Cây chè còn đem lại nhiều nguồn lợi cho
chúng ta việc xuất khẩu đã có một số vai trò rất quan trọng như:
- để phục vụ cho việc xất khẩu chè thì trước hết chúng ta phải có các vung
chuyên trông cây chè, như đồi núi ở trên thì cây chè thường phân bố ở trung du và
miền núi. Đây là những nơi mà việc trồng lúa rất khó khăn. Do vậy cây chè đã trở
thàng một trong những cây chủ lực ở những khu vực này để xoá đói giảm
nghèo,tạo ra nhiều công ăn việc lam cho những người sống ở khu vưc này,chánh
được hiện tượng nông nhàn trong nộng nghiệp và nó còn tạo ra một lượng thu nhập
đáng kể cho những người trồng chè,góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân ở
vùng miền núi vốn rất khó khăn và cuộc sống rất cực nhọc.Do vậy việc xuất khẩu
chè có một vai trò to lớn trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động.
Không những nó có vai trò về kinh tế mà nó còn có vai trò về an ninh quốc phòng,
việc định canh định cư của các người trồng chè trên những vùng cao và hẻo lánh
đã đảm bảo được an ninh biên giới của nước ta. Việc trồng chè để xuất khẩu cung
có một vai trò to lớn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Như chúng ta đã biết
hiện nay lạm chặt phá rừng ngày càng diễn ra mạnh mẽ công với việc du canh du
cư chặt lương phá dãy của một số các đồng bài dân tộc đã hủy hoại môi trường
sống của chúng ta. Việc trồng chè để phục vụ xuất khẩu đã phủ xanh đất trống đồi
núi trọc, còn góp phần điều hoà không khí, ngoài ra cây chè còn một số tác dung
trong nghành y học.
-Xuất khẩu chè tạo ra một nguồn vốn đáng kể cho đất nước, góp phần vào
công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Chè là một trong những mặt
hàng nông sản xuát khẩu chủ lực của nước ta, hàng năm mang về cho đất nước rất
nhiều ngoại tệ để thúc đẩy công nghiệp háo hiện đại hoá đất nước như: Năm 2000
đã xuất khẩu được 45 ngàn tấn mang về cho đất nước khoảng 56 triệu USD, năm
2001 đã xuất khẩu được 40000 tấn tăng 9,94% só với năm 2000 đạt kim ngạch
xuất khẩu 70triệu USD, 5 tháng đầu năm 2002 đã xuất khẩu được 25000 tấn đạt
giá trị 28 triệu USD.Tuy mhữmg con số này vẫn chưa thực cao trong tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta những xuất khẩu chè cũng đã đóng góp một
nguồn vốn dáng kể cho đất nước thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoá.
Khin xuất khẩu chè thì chúng ta xẽ mở rộng được thị trường tiêu thu và giao
lưu học hỏi được nhiều bài học kinh nghiệm của các nước bạn. Hiện nay chúng ta
xuất khẩu sang hơn 40 nước khác nhau. Từ đó tạo ra nhiều mối quan hệ kinh tế
cho các doanh nghiệp trong ngành chè nói riêng và các doanh nghiệp trong cả nướ
nói chung, xuất khẩu chè ra nhiều thỉtường thì làm cho các doanh nghiệp của
chúng ta có thể tiếp thu được các thông tin nhanh hơn, và sáng tạo hơn.
Xuất khẩu chè thì chúng ta đã tạo ra sự ổn định cho những người chồng chè
về mặt tiêu thụ sản phẩn tư đó họ yên tâm hơn với công việc của mình . Do đó chất
lượng chè cũng phần nào được cải thiện từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh
chè của nước ta trên thị trường thế giới.Và khi có thị trường tiêu thị ổnt định thì
người chồng chè xẽ yên tâm và gắn bó với nghề của mình nhiều hơn.
II.quy trình xuất khẩu chè của nước ta hiện nay
Trong việc sản xuất và xuất khẩu chè của cảc nước thì Tổng công ty chè Việt
Nam đóng một vai trò vô cùng quan trọng, và có thể nói hầu hết chè được xuất
khẩu là của Tổng công ty và sau đây là quá trình xuất khẩu mà Tổng công ty chè
Việt Nam đang thực hiện. Có thể nói đây cũng là quá trình xuất khẩu chè ở các
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu chè của chúng ta đang thực hiện.
1.Công tác tạo nguồn hàng
Chủ động được nguồn hàng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến độ giao hàng, đến việc thực
hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của Tổng công ty và hiệu quả kinh doanh , Tổng
công ty chè Việt Nam thường sử dụng một số hình thức tạo nguồn chủ yếu như:
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu theo hợp đồng ( mua đứt bán đoạn ).
Đây là hình thức thu mua chủ yếu của Tổng công ty , chiếm gần 80% giá trị
hàng hoá thu mua. Sau khi Tổng công ty và nhà cung cấp đạt được những thoả
thuận về mặt số lượng, chất lượng, phương thức thanh toán… thì hai bên mới tiến
hành kí kết hợp đồng kinh tế.
- Phương thức uỷ thác.
Là phương thức mà Tổng công ty dùng danh nghĩa của mình để giao dịch
với khách nước ngoài nhằm thoả thuận với các điều khoản liên quan đến hợp đồng
xuất khẩu dư định sẽ kí kết và tổ chức bán hộ hàng cho người uỷ thác. Phương
thức này chiếm một tỉ lệ không đáng kể trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu của
Tổng công ty.
- Phương thức đầu tư, liên doanh liên kết.
Theo phương thức này, Tổng công ty sẽ bỏ vốn ra đầu tư vào các đơn vị sản
xuất chế biến hàng xuất khẩu theo các hợp đồng ngắn hạn, trong đó Tổng công ty
chịu trách nhiệm tiêu thụ các sản phẩm được sản xuất ra . Đây là phương thức
được Tổng công ty áp dụng chủ yếu đối với công tác thu mua tạo nguồn hàng nông
sản - một mặt hàng chiếm hơn 45% tổng giá trị kinh ngạch xuất khẩu của Tổng