Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM VƯỢT RÀO CẢN TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.63 KB, 30 trang )

Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM VƯỢT RÀO CẢN
TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ
TRƯỜNG HOA KỲ
3.1 DỰ BÁO XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC RÀO CẢN CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI
HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
3.1.1 Rào cản thuế quan có khả năng giảm nhưng không nhiều
Trong thời gian vừa qua Việt Nam và Hoa Kỳ đã tiến hành thành công
phiên đàm phán thứ 12, đây là bước đi cuối cùng mang tính chất quyết định việc
gia nhập WTO của Việt Nam. Như vậy chỉ vài tháng nữa Việt Nam đã là thành
viên của một tổ chức thương mại mang tính chất toàn cầu này. Khi đó quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cũng như với các nước khác sẽ có nhiều
đổi thay. Điều đó được thể hiện trước tiên ở mức thuế mà các nước dành cho
nhau.
Sau khi quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được bình thường hoá
và đặc biệt sau khi hiệp định thương mại song phương giữa hai nước có hiệu
lực, Hoa Kỳ đã cho hàng hoá của Việt Nam trong đó có hàng dệt may được
hưởng mức thuế MFN ở cột thuế NTR – mức thuế dành cho các nước có quan
hệ bình thường. Đó là mức thuế chung dành cho các nước là thành viên của tổ
chức thương mại thế giới WTO và những nước tuy chưa phải là thành viên của
WTO nhưng đã ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Như vậy
hiện nay Việt Nam đang được hưởng mức thuế đối với hàng dệt may như là các
nước thành viên của WTO nói chung, trừ các nước đựơc hưởng mức thuế quan
ưu đãi dặc biệt. Vì vậy sắp tới khi Việt Nam là thành viên của WTO Hoa Kỳ vẫn
đánh thuế hàng dệt may của Việt Nam như cũ trừ khi giữa hai nước có hiệp định
cho nhau hưởng mức thuế quan ưu đãi đặc biệt nào đó.
Tuy nhiên trước kia Việt Nam chỉ được Hoa Kỳ coi là nước có quan hệ
thương mại bình thường tạm thời (NTR). Nhưng hiện nay quốc hội Hoa Kỳ sắp
thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam.
Khoa Kinh tế 1 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh


Đây cũng là một cơ hội để Việt Nam có thể tiến gần hơn tới hưởng thuế quan ưu
đãi của Hoa Kỳ. Mặt khác, trong xu hướng ngày càng cắt giảm thuế quan, và
hiện tại hàng năm Hoa Kỳ vẫn luôn điều chỉnh mức thuế với tất cả các mặt
hàng, trong đó không thể thiếu hàng dệt may một mặt hàng nhập khẩu quan
trọng của Hoa Kỳ. Mức thuế điều chỉnh đối với hàng dệt may nhìn chung có xu
hướng giảm từ 0,03 đến 2% một năm và hiện tại nhiều mặt hàng dệt may Việt
Nam đã được miễn hoàn toàn. Ví dụ: Bộ comple bằng sợi nhân tạo hoặc tổng
hợp chứa 23% hoặc nhiều hơn trọng lượng len năm 2002 phải chịu mức thuế
3.4%, năm 2005 được miễn thuế, bằng các sợi khác năm 2002 phải chịu mức
thuế 6%, năm 2005 cũng được miễn thuế hoàn toàn. Như vậy mức thuế đối với
hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ có xu hướng giảm nhưng không
nhiều.
3.1.2 Các quy định tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn lao động ngày
càng tăng
Vấn đề môi trường hiện nay là vấn đề rất được các nước quan tâm. Chính
vì vậy các sản phẩm phải đảm bảo tiêu chuẩn môi trường thì Hoa Kỳ mới cho
phép thông quan. Đối với hàng dệt may cũng vậy, phải là hàng may mặc “xanh”.
Hiện nay các tiêu chuẩn môi trường đối với hàng dệt may của Hoa Kỳ chưa
nhiều và chủ yếu là các rào cản do Hoa Kỳ tự đặt ra. Hàng dệt may của các nước
xuất khẩu vào Hoa Kỳ bị trả lại do không vượt qua được rào cản này ngày càng
tăng. Hoa Kỳ cũng có xu hướng áp dụng thêm các tiêu chuẩn môi trường của
quốc tế thì hàng dệt may không đảm bảo tiêu chuẩn môi trường sẽ càng khó
khăn hơn để vào được thị trường này.
Mấy năm gần đây, ngày càng nhiều sản phẩm dệt may Trung Quốc bị Hoa
Kỳ từ chối hoặc phải bồi thường do không phù hợp với tiêu chuẩn “xanh” – tiêu
chuẩn ra đời từ hàng rào thương mại “xanh” greentrade barrier (Hàng dệt may
“xanh” là các sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn
về sức khoẻ đối với người sử dụng). Hàng dệt may của Việt Nam tất yếu không
Khoa Kinh tế 2 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh

thể tránh được điều này khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Hiện nay công nghệ sản xuất
hàng dệt may của Việt Nam đặc biệt là công nghệ nhuộm còn chưa đáp ứng
được các tiêu chuẩn môi trường. Vì thế đây là rào cản không dễ vượt qua đối với
tất cả các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may sang Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Bên cạnh việc coi trọng vấn để đảm bảo môi trường trong quá trình sản
xuất, Hoa Kỳ còn rất coi trọng việc đáp ứng các tiêu chuẩn lao động trong doanh
nghiệp – các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp có
đông lao động như ngành dệt may. Hiện nay Hoa Kỳ đang áp dụng hai tiêu
chuẩn xã hội là tiêu chuẩn SA 8000 và tiêu chuẩn WRAP. Như đã giới thiệu ở
chương hai, cả hai tiêu chuẩn này không bắt buộc, các doanh nghiệp dệt may áp
dụng trên tinh thần tự nguyện. Nhưng ngày càng nhiều nước chỉ nhập khẩu hàng
dệt may của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu đáp ứng được các tiêu chuẩn
này. Xu hướng tiêu chuẩn này sẽ trở thành bắt buộc, tất cả các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam đều phải tuân theo nếu muốn xuất khẩu được hàng hoá vào Hoa
Kỳ.
3.1.3 Các quy định bảo vệ người tiêu dùng ngày càng nhiều và được
lồng ghép trong nhiều rào cản hơn
Về lý thuyết, việc các quốc gia đưa ra các rào cản thương mại trái với
nguyên tắc tự do hoá thương mại đã được thoả thuận trong thương mại quốc tế.
Vì vậy, các nước nhập khẩu hàng dệt may nói chung và Hoa Kỳ nói riêng
thường núp dưới bóng lợi ích người tiêu dùng để thiết lập các rào cản mới.
Hiện nay có rất nhiều rào cản có liên quan tới người tiêu dùng. Chẳng hạn
như quy định liên quan tới việc ghi nhãn hàng dệt may của Hoa Kỳ rất chặt chẽ
đảm bảo cho người tiêu dùng có các thông tin cần thiết về sản phẩm như thành
phần sợi, nước sản xuất, cách giặt, tẩy, là, sấy... Từ đó người tiêu dùng có cách
dùng tốt hơn, đồng thời đảm bảo chất lượng sản phẩm trong thời gian dài hơn.
Hay các quy định tiêu chuẩn môi trường, ngoài các lợi ích về môi trường nói
chung còn nhằm đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Trong quy định tiêu
Khoa Kinh tế 3 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh

chuẩn môi trường của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may có quy định rõ không được
dùng hoá chất nhuộm vải hay các chất trợ nhuộm độc hại với môi trường và
không an toàn với người tiêu dùng.
Bên cạnh các quy định liên quan tới bảo vệ người tiêu dùng, Hoa Kỳ cũng
có rất nhiều luật để bảo vệ người tiêu dùng như luật về trách nhiệm với sản
phẩm, luật an toàn sản phẩm tiêu dùng, luật liên bang về các chất nguy hiểm,
luật về vải dẽ cháy... Những luật này bao gồm những luật của liên bang và luật
của các bang. Hoa Kỳ theo hệ thống luật án lệ nên các phán quyết của toà án
diễn giải các luật bảo vệ người tiêu dùng cũng trở thành luật. Đó là một lý do
khiến cho rào cản liên quan tới bảo vệ người tiêu dùng ngày càng nhiều hơn.
3.1.4 Các quy định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm rất được quan
tâm
Hiện nay Hoa Kỳ nhập khẩu hàng dệt may của hầu hết các nước trên thế
giới. Mỗi nước tuỳ theo mối quan hệ về kinh tế chính trị mà được hưởng các
mức thuế khác nhau với các ưu đãi khác nhau. Chính vì vậy việc xác định xuất
xứ hàng hoá là rất quan trọng. Nếu hàng dệt may mà tất cả các công đoạn sản
xuất cũng như nguyên liệu sử dụng ở một nước thì xuất xứ hàng hoá sẽ là nước
đó. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường phải nhập
nguyên liệu hay trong quá trình sản xuất có những khâu được làm ở nước ngoài
thì việc xác định xuất xứ hàng dệt may phức tạp hơn rất nhiều.
Việc ghi sai xuất xứ hàng dệt may cũng bị Hoa Kỳ xử phạt rất nghiêm
khắc. Hàng dệt may nhập khẩu vi phạm quy định đánh dấu xuất xứ hàng hoá sẽ
bị hải quan giữ lại. Hải quan có thể yêu cầu người nhập khẩu nộp thuế vi phạm
quy định đánh dấu xuất xứ, tiêu huỷ hoặc đánh dấu xuất xứ dưới sự giám sát của
hải quan.
Các quy định liên quan tới xuất xứ hàng dệt may ngày càng nhiều và phức
tạp. Hiện nay ngoài việc phải ghi xuất xứ hàng dệt may trên sản phẩm, các
Khoa Kinh tế 4 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh
doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may còn phải ghi xuất xứ dưới dạng mã số MID

để hải quan dễ kiểm tra khi cho hàng thông quan.
Nói chung việc ghi xuất xứ hàng dệt may rất được Hoa Kỳ quan tâm
chính vị vậy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chú ý để tránh những rắc
rối và những tổn thất không đáng có từ rào cản này.
3.1.5 Rào cản từ các biện pháp thương mại tạm thời ngày càng khắt
khe hơn
Việt Nam sắp là thành viên của WTO nhưng không có nghĩa là hàng dệt
may của Việt Nam có thể tránh khỏi rào cản từ các biện pháp thương mại tạm
thời. Thật vậy, trong lần đàm phán thứ 12 vừa rồi giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã
đi đến một thỏa thuận rất quan trọng đối với hàng dệt may. Hoa Kỳ sẽ xoá bỏ
hạn ngạch cho Việt Nam nhưng Chính phủ Việt Nam phải cam kết không được
thực hiện các chương trình trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp dệt may, các
chương trình đang thực hiện cũng cần xoá bỏ ngay lập tức. Điều này gây không
ít khó khăn cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó việc Việt Nam gia nhập WTO cũng không đồng nghĩa với
việc hàng dệt may của Việt Nam sẽ không bị kiện bán phá giá hay áp dụng các
biện pháp đối kháng khác khi vi phạm. Mà chỉ có thể là vị trí của Việt Nam
trong các vụ kiện đó sẽ được cải thiện mà thôi. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho
thấy, sau khi tham gia vào WTO, trong giai đoạn đầu hàng hoá Trung Quốc tự
do chiếm lĩnh tất cả các thị trường và đã vướng phải rất nhiều vụ kiện bán phá
giá từ nhiều nước trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ. Việt Nam cũng vậy, trong
thời gian tới khi hạn ngạch đối với hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ không
còn thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ xuất khẩu hết khả năng của mình
(hiện tại các doanh nghiệp chỉ xuất khẩu khoảng 50% khả năng sản xuất). Chính
vì vậy, nguy cơ hàng dệt may Việt Nam vào thị trường này tăng rất nhanh là
điều mà các doanh nghiệp có thể nhìn thấy được. Với sự tăng nhanh như vậy các
doanh nghiệp dệt may của Hoa Kỳ có thể sẽ khởi đơn kiện Việt Nam và các
Khoa Kinh tế 5 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh
doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi đó sẽ bị áp các biện pháp đối kháng. Mặt

khác, nếu các doanh nghiệp không đưa ra giá cả một cách hợp lý thì bị kiện bán
phá giá là điều không thể tránh khỏi.
Như vậy các rào cản thương mại tạm thời của Hoa Kỳ đối với hàng dệt
may Việt Nam sẽ ngày càng khó khăn hơn. Chính phủ Việt Nam cùng các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam phải có các biện pháp chiến lược, phối hợp các biện
pháp hỗ trợ một cách đồng bộ mới mong vượt qua được rào cản này.
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM VƯỢT RÀO CẢN TRONG XUẤT
KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO HOA KỲ
3.2.1 Kiến nghị về phía Nhà nước
a) Tăng cường công tác thông tin phổ biến pháp luật và chính sách
thương mại của Hoa Kỳ
Trong hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói
riêng các doanh nghiệp chỉ có thể xuất khẩu thành công khi hiểu rõ hệ thống
pháp luật và chính sách thương mại của nước nhập khẩu. Hoa Kỳ là một nước
có hệ thống pháp luật rất phức tạp với hệ thống pháp luật liên bang và hệ thống
pháp luật bang. Chính vì vậy nó là rào cản đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng dệt may sang Hoa Kỳ. Để giúp các doanh nghiệp vượt qua được rào cản
này Nhà nước phải tăng cường công tác thông tin phổ biến pháp luật và chính
sách thương mại của nước này.
Với sự biến động cả về kinh tế cũng như chính trị của các nước trên thế
giới, Hoa Kỳ luôn có sự thay đổi về pháp luật, thủ tục hành chính và đặc biệt là
thay đổi về chính sách thương mại để đối phó cũng như để bảo hộ sản xuất trong
nước và bảo vệ người tiêu dùng. Nếu các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
không nắm được những thay đổi đó thì sẽ gặp phải trở ngại rất lớn khi xuất
khẩu. Ngược lại, nếu các doanh nghiệp có được thông tin kịp thời thì sẽ có biện
pháp để vượt qua các rào cản này một cách dễ dàng.
Khoa Kinh tế 6 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh
Trong những năm gần đây Chính phủ và các cơ quan chuyên trách đã có
quan tâm tới vấn đề cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp dệt may. Như

Trung tâm Thông tin thương mại - Bộ Thương mại có tạp chí chuyên ngành dệt
may phát hành mỗi tuần một số. Đây là một tờ báo rất có ý nghĩa đỗi với các
doanh nghiệp cũng như những người quan tâm tới lĩnh vực dệt may trong nước
và quốc tế. Nhưng việc cung cấp thông tin qua mạng Internet thì còn rất hạn chế.
Các trang Web của các bộ chưa hữu ích đối với các doanh nghiệp, các thông tin
trên đó không theo kịp sự phát triển trên thị trường dệt may. Bên cạnh việc cung
cấp thông tin một cách kịp thời thì các cơ quan này cũng cần phải có những
hướng dẫn cụ thể và chi tiết cho các doanh nghiệp hơn khi có những quy định
mới.
Chẳng hạn, cuối năm 2005 cơ quan hải quan và bảo vệ biên giới Hoa Kỳ
ra một quy định mới về viêc khai xuất xứ hàng dệt may. Huỷ bỏ quy định cũ về
khai báo (19 CFR 12.130) đối với tất cả hàng dệt và may. Thay vào đó, các nhà
nhập khẩu phải khai báo mã của nhà sản xuất – Manufacturer Identification
Code (MID). Nhà nhập khẩu, môi giới hải quan là người sẽ xác định MID dựa
trên những thông tin về công ty, điền vào form khai hải quan khi làm thủ tục
nhập khẩu. Quy định này có hiệu lực từ ngày 5/10/2005. Theo đó tất cả hàng dệt
may nhập khẩu từ tất cả các nước trong đó có Việt Nam phải thực hiện. Hàng
hoá của nước nào không thực hiện quy định này sẽ không được thông quan. Bộ
Thương mại đã cho đăng thông báo này trên tạp chí dệt may số ra ngày
24/10/2005 nghĩa là sau khi quy định có hiệu lực gần 20 ngày, còn Cục Xúc tiến
thương mại Việt Nam thì cung cấp thông tin này thông qua trang Web của cục
ngày 21/4/2006, chậm so với ngày có hiệu lực hơn nửa năm. Trong cả hai trang
thông tin này Bộ Thương mại cũng như Cục Xúc tiến thương mại đều không có
những quy định hướng dẫn cụ thể. Tuy có đưa ra các ví dụ về việc ghi mã số
MID của một số công ty nước ngoài nhưng tuyệt đối không có một ví dụ nào là
gắn với Việt Nam và các doanh nghiệp dệt may Viêt Nam. Điều này gây không
Khoa Kinh tế 7 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh
ít khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ
trong thời gian qua.

Tóm lại, để có thể chủ động đối phó với sự thay đổi trong chính sách của
Hoa Kỳ đối với hàng dệt may, Nhà nước cần có thông tin đầy đủ kịp thời cho
các doanh nghiệp dệt may trong nước chuẩn bị. Không những thế những cơ
quan thông tin đại chúng và các cơ quan nghiên cứu, đào tạo cần phải phổ biến
hướng dẫn một cách cụ thể các biện pháp đối phó với các rào cản một cách có
hiệu quả.
b) Chuẩn bị tốt các điều kiện cho doanh nghiệp khi gia nhập tổ chức
thương mại thế giới
Sau nhiều vòng đàm phán với Hoa Kỳ, rạng sáng ngày 13/5/2006, vòng
đàm phán 12 đã kết thúc với một thoả thuận song phương, theo đó Hoa Kỳ đồng
ý Việt Nam có thể gia nhập tổ chức chức thương mại thế giới (WTO). Đây là
bước đi lớn và cũng là bước đi cuối cùng, mang tính quyết định việc Việt Nam
có được gia nhập WTO hay không.
Trong cuộc đàm phán chiều ngày 3/6/2006 với Phó Thủ tướng Vũ Khoan,
Tổng giám đốc WTO, ông Pascal Lamy nhận định nếu mọi việc suôn sẻ, có thể
sẽ làm thủ tục kết nạp Việt Nam vào tháng 10. Như vậy việc tham gia vào WTO
của Việt Nam chỉ vài tháng nữa là thành hiện thực, Chính phủ Việt Nam cùng
các cơ quan ban ngành phải hỗ trợ giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp dệt may chuẩn bị tốt các điều kiện khi gia nhập tổ chức này.
Gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới sẽ mở ra con đường phát triển tốt
hơn cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng. Các
doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn khi vượt qua rào cản của Hoa Kỳ về hàng dệt may.
Chẳng hạn khi đã là thành viên của WTO Việt Nam sẽ không phải chịu hạn
ngạch khi xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ nữa. Đây là một thuận lợi vô
cùng to lớn đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Theo Chủ
tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, ông Lê Quốc Ân, Hoa Kỳ đồng ý dỡ bỏ mọi
Khoa Kinh tế 8 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh
hạn chế về quota nhập khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam một khi nước này là
thành viên của WTO. Lâu nay, hạn ngạch dệt may vào thị trường Hoa Kỳ luôn

là vấn đề lớn đối với ngành dệt may Việt Nam. Khi Việt Nam là thành viên
WTO, không còn quota, tâm lý khách hàng Hoa Kỳ sẽ vững tâm hơn khi làm ăn
với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Mặt khác khi có các vụ kiện hay các
cuộc đàm phán với các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ, sẽ đỡ lép vế hơn, ít bị ép giá hay
thua thiệt hơn.
Trong những năm gần đây, Đảng và Chính phủ đã khẳng định rõ chủ
trương về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đã từng bước công bố lộ trình
hội nhập. Chính vì vậy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam không còn bỡ ngỡ
với WTO. Nhưng Nhà nước cũng cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp hơn nữa
để doanh nghiệp có thể cơ cấu lại nguồn lực, sắp xếp lại sản xuất... nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam.
c) Giúp doanh nghiệp vượt qua rào cản trách nhiệm xã hội của Hoa Kỳ
Khi xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp
Việt Nam thường vướng phải các rào cản về trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn
SA 8000 và WRAP. Cả hai tiêu chuẩn này đều có những quy định cơ bản về lao
động trẻ em, lao động cưỡng bức, sức khoẻ và an toàn, quyền tự do thành lập
các hiệp hội về đàm phán tập thể, phân biệt đỗi xử, các hình thức kỷ luật, giờ
làm việc và chế độ tiền lương.
Mặc dù đây là các tiêu chuẩn tự nguyện không có tính bắt buộc đối với
doanh nghiệp và các doanh nghiệp có thể đăng ký để được công nhận các tiêu
chuẩn đó, tuy nhiên Hoa Kỳ vẫn viện cớ rằng hàng hoá không đáp ứng được các
tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội để cản trở xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Điều
này đặc biệt được thể hiện rất rõ trong trường hợp sản xuất và xuất khẩu hàng
dệt may.
Tất nhiên, việc đáp ứng đầy đủ các quy định trong tiêu chuẩn SA 8000 và
WRAP là rất khó khăn với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh
Khoa Kinh tế 9 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh
nghiệp dệt may nói riêng. Việc để được công nhận là đáp ứng đầy đủ các yêu
cầu theo các tiêu chuẩn đó càng khó khăn hơn và phải trải qua một thời gian

không ngắn để doanh nghiệp từng bước đầu tư cải thiện điều kiện lao động và
trả lương cho người lao động. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam
đã nhận thức được lợi ích của việc áp dụng các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, có
nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã đáp ứng được các tiêu chuẩn này như
May 10, Việt Tiến, Đức Giang...
Đây là một trong những vấn đề khó khăn và phức tạp, vì vậy Nhà nước
cần phải giúp đỡ các doanh nghiệp:
Thứ nhất, Nhà nước phải tổ chức các diễn đàn, các buổi thảo luận với chủ
đề trách nhiệm xã hội hay lồng ghép trong các chương trình phổ biến kiến thức
về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như phổ biến kiến thức để xuất khẩu thành
công sang thị trường Hoa Kỳ. Từ đó nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp về
triển khai thực hiện và đăng ký để được cấp chứng chỉ SA 8000 cũng như
WRAP.
Thứ hai, Nhà nước cũng cần tổ chức bộ phận hỗ trợ và tư vấn cho các
doanh nghiệp.
Bên cạnh các chương trình được tổ chức thường xuyên nhằm phổ biến
kiến thức cũng như kinh nghiệm để vượt qua rào cản trách nhiệm xã hội cho các
doanh nghiệp dệt may, Nhà nước phải tổ chức một bộ phận chuyên về tư vấn,
trong đó có những chuyên gia hiểu biết về lĩnh vực này để giúp các doanh
nghiệp bất cứ khi nào họ cần. Các nhà tư vấn phải phân tích để cho các doanh
nghiệp thấy việc thực hiện các tiêu chuẩn đó rất có lợi cho doanh nghiệp. Một
mặt hàng dệt may của doanh nghiệp sẽ dễ dàng vào đuợc thị trường Hoa Kỳ, các
đơn vị kinh doanh Hoa Kỳ cũng ưu tiên ký hợp đồng với những doanh nghiệp
này hơn, và tiến tới chỉ ký hợp đồng với những doanh nghiệp hoạt động theo
đúng tiêu chuẩn. Mặt khác, việc doanh nghiệp tạo môi trường làm việc tốt và
đảm bảo quyền lợi cho người lao động sẽ giúp người lao động gắn bó với doanh
Khoa Kinh tế 10 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh
nghiệp lâu dài và tạo sản phẩm có chất lượng tốt. Từ đó giúp các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam củng cố vị trí cạnh tranh của mình với các đối thủ khác trên

thị trường Hoa Kỳ và góp phần xuất khẩu thành công vào thị trường này. Bên
cạnh đó các chuyên gia cũng tư vấn cho doanh nghiệp các bước cần thực hiện để
doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu trong tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội
theo một lộ trình phù hợp với doanh nghiệp nhất.
Thứ ba, Nhà nước phải hỗ trợ các doanh nghiệp về điều kiện vật chất .
Để các doanh nghiệp dệt may có thể thực hiện được các tiêu chuẩn trách
nhiệm xã hội phải có sự hỗ trợ của Nhà nước về điều kiện vất chất. Vì doanh
nghiệp phải đảm bảo được các yêu cầu về môi trường làm việc như các thiết bị
về phòng cháy chữa cháy, có hệ thỗng thoát hiểm tiện lợi, có dây chuyền máy
móc đảm bảo an toàn cho người lao động trong quá trình sản xuất, nếu doanh
nghiệp nào có ký túc xá hay nhà ăn cho người lao động thì cũng phải đảm bảo
sạch sẽ và an toàn... Với các doanh nghiệp lớn việc thực hiện đồng bộ các quy
định về tạo môi trường an toàn này đã là rất khó khăn, với các doanh nghiệp nhỏ
thì việc thực hiện ngay một lúc lại càng không thể. Chính vì vậy rất cần sự giúp
đỡ của Nhà nước những bước đầu. Nhưng khi hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may,
Nhà nước cần tìm cách thực hiện tốt nhất. Để không vi phạm quy định của Hoa
Kỳ về các hình thức trợ cấp và hỗ trợ không được phép sử dụng.
d) Chuyển các hình thức trợ cấp đèn đỏ, trợ cấp đèn vàng sang trợ cấp
đèn xanh
Các biện pháp hỗ trợ của Việt Nam đối với ngành dệt may trong thời gian
qua còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và vi phạm các nguyên tắc trợ cấp
của WTO cũng như quy định của Hoa Kỳ. Việt Nam được coi là nước đang phát
triển ở trình độ thấp nên chúng ta được phép vận dụng nguyên tắc ưu đãi dành
cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên, theo Hiệp định Thương mại Việt Nam
- Hoa Kỳ, cũng như Hiệp định về hàng dệt may giữa hai nước thì nhiều biện
pháp hỗ trợ của của Việt Nam bị vi phạm như cấp vốn và cho vay ưu đãi đối với
Khoa Kinh tế 11 Lớp K38F5
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thu Linh
doanh nghiệp dệt may Nhà nước, các khoản miễn thuế hay xoá nợ cho một đối
tượng nào đó mà không phải là cơ chế chung, trợ cấp để gom hàng xuất khẩu,

thưởng thành tích xuất khẩu theo doanh thu... Đây là các biện pháp hỗ trợ được
coi như một khoản trợ cấp không được phép đối với hàng dệt may xuất khẩu và
nếu tiếp tục thực hiện sẽ bị áp dụng các biện pháp đối kháng.
Có 3 loại trợ cấp, trong đó Trợ cấp đèn đỏ bị Hoa Kỳ cấm hoàn toàn, Trợ
cấp đèn vàng thì bị áp thuế đối kháng, chỉ có Trợ cấp đèn xanh được phép sử
dụng và không phải là đối tượng của các biện pháp đối kháng. Hoa Kỳ cũng cho
phép áp dụng Trợ cấp đèn xanh trong ngành dệt may, bao gồm các loại sau:
 Chính phủ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nghiên cứu phát triển do công ty
tiến hành. Nghiên cứu bao gồm cả nghiên cứu chung và nghiên cứu có liên quan
tới các chương trình môi trường và các chương trình nghiên cứu liên quan tới
các sản phẩm dệt may cụ thể.
 Chương trình tài trợ của Chính phủ có liên quan tới các dịch vụ: dịch vụ
đào tạo, kể cả dịch vụ đào tạo nói chung và đào tạo chuyên ngành dệt may; dịch
vụ tư vấn và mở rộng, kể cả cung cấp phương tiện để tạo điều kiện chuyển giao
thông tin và kết quả nghiên cứu tới người sản xuất và người tiêu dùng; dịch vụ
kiểm tra, kể cả dịch vụ kiểm tra nói chung và dịch vụ kiểm ta từng loại sản
phẩm vì mục đích sức khoẻ, an toàn, phân loại phẩm cấp và tiêu chuẩn hoá; dịch
vụ xúc tiến và tiếp thị, kể cả thông tin thị trường, tư vấn và xúc tiến có liên quan
tới các sản phẩm cụ thể nhưng không bao gồm chi tiêu với mục đích để người
bán có thể sử dụng giảm giá bán hoặc tạo ra các lợi ích kinh tế cho người mua.
 Chính phủ trợ cấp nhằm điều chỉnh phương tiện sản xuất thích nghi với
những đòi hỏi của môi trường, miễn là trợ cấp lần một, không lặp lại và giới hạn
ở mức 20% chi phí cho việc thích nghi (ví dụ: như nâng cấp cơ sở hạ tầng, mạng
lưới cung cấp điện, đường xá và các phương tiện vận tải khác ..)
 Chính phủ hỗ trợ cho các doanh nghiệp dệt may nằm trong các vùng khó
khăn phải được xác định ranh giới một cách rõ ràng về địa lý với những đặc
Khoa Kinh tế 12 Lớp K38F5

×