Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.5 KB, 26 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
1.1. Tầm quan trọng xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam
1.1.1 Khái niệm và các hình thức xuất khẩu hàng hóa
1.1.1.1 Khái niệm
Trong chiến lược kinh doanh quốc tế,các doanh nghiệp cần phải
xác định dược những yếu tố quan trọng mang lại thành công cho chiến
lược của mình,một trong những yếu tố đó là cách thức xâm nhập thị
trường. Xuất khẩu được coi là một hình thức xâm nhập thị trường ít rủi
ro và chi phí thấp so với các hình thức khác.
Có thể hiểu xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh vượt ra khỏi
biên giới quốc gia,là hoạt động kinh doanh mang tính quốc tế.Đó chính
là việc bán hàng hóa , dịch vụ trong nước ra nước ngoài.
(Theo điều 28, mục 1, chương 2 luật thương mại việt nam 2005)
xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ việt nam được
coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2 Các hình thức xuất khẩu hàng hóa.
Xuất khẩu trực tiếp: là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty
cho các khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài.
Để thâm nhập thị trường quốc tế thông qua xuất khẩu trực tiếp các
Công ty thường sử dụng hai hình thức.
Đại diện bán hàng: Là hình thức bán hàng không mang danh nghĩa
của mình mà lấy danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và
một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị hàng hóa bán được. Trên thực tế,
đại diện bán hàng họat động như là nhân viên bán hàng của Công ty ở
thị trường nước ngoài. Công ty sẽ ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng
ở thị trường nước đó.
Đại lý phân phối: Là người mua hàng hóa của Công ty để bán theo
kênh tIêu thụ ở khu vực mà công ty phân định. Công ty khống chế
phạm vi phân phối, kênh phân phối ở thị trường nước ngoài. Đại lý phân


phối chấp nhận toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng hóa ở thị
trường nước đã phân định và thu lợi nhuận thông qua chênh lệch giữa
giá mua và giá bán.
Xuất khẩu gián tiếp: Là hình thức bán hàng hóa, dịch vụ của Công
ty ra nước ngoài thông qua trung gian ( thông qua người thứ ba ).Các
trung gian mua bán hàng hóa này không chiếm hữu hàng hóa của công
ty nhưng trợ giúp Công ty xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước
ngoài.
Đại lí ( Agent ): Là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho nhà xuất
khẩu thực hiện một hay một số hoạt động nào đó ở thị trường nước
ngoài.
Đại lí chỉ thực hiện một công việc nào đó để nhận thù lao. Đại lí
không chiếm hữu và sở hữu hàng hóa. Đại lí là người thiết lập quan hệ
hợp đồng giữa công ty và khách hàng ở thị trường nước ngoài.
Công ty quản lý xuất khẩu ( Export Management Company ): Là các
công ty nhận ủy thác và quản lí công tác xuất khẩu hàng hóa.
Công ty quản lí xuất nhập khẩu hàng hóa là họat động trên danh
nghĩa của công ty xuất khẩu nên là nhà xuất khẩu gián tiếp. Công ty
quản lí xuất khẩu đơn thuần làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí xuất
khẩu. Bản chất của công ty xuất khẩu là làm các dịch vụ quản lí và thu
được một khoản thù lao nhất định từ các họat động đó.
Công ty kinh doanh xuất khẩu ( Export Tranding Company ): Là
Công ty hoạt động như nhà phân phối độc lập có chức năng kết nối các
khách hàng ngoài nước với các công ty trong nước để đưa hàng hóa ra
nước ngoài tIêu thụ.
Ngoài việc thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến xuất
khẩu. Các công ty này còn cung ứng các dịch vụ xuất nhập khẩu và
thương mại đối lưu. Thiết lập và mở rộng các kênh phân phối, tài trợ
cho các dự án thương mại và đầu tư, thậm chí trực tiếp thực hiện sản
xuất để bổ trợ một công đoạn nào đó cho các sản phẩm ( ví dụ: bao gói,

in ấn… ).
Đại lí vận tải: Là các Công ty thực hiện dịch vụ thuê vận chuyển và
những hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa như khai
báo hải quan, áp biểu thuế quan, thực hiện giao nhận và chuyên trở bảo
hiểm.
1.1.2 Sự cần thiết xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam
Việt Nam là một nước có thế mạnh về xuất khẩu những mặt hàng
nông sản,trong đó ngành công nghiệp đồ gỗ có những lợi thể lớn có thể
cạnh tranh trên thị trường quốc tế,góp phần không nhỏ vào tăng trưởng
của đất nước.Sản phẩm đồ gỗ cũng là mặt hàng đang có xu hướng gia
tăng cao với những đặc điểm sau đay.
Có tốc độ tăng trưởng nhập khẩu đạt mức khá cao lên tới 54%
trong giai đoạn 1994 – 1999, 7- 8%/năm trong những năm tới. Năm
2004, theo WTO, mức tiêu thụ toàn cầu về sản phẩm gỗ đạt con số kỷ
lục là 180 tỷ USD với tăng trưởng 8%. Nhưng theo Liên Hợp Quốc ngay
từ năm 2002, mức tiêu thụ đó thông qua nhập khẩu đã đạt được 200 tỷ
USD. Đây được gọi là cơ hội lớn đối với nhà xuất khẩu.
Đồ gỗ nội thất là mặt hàng tăng trưởng nóng trong những năm gần
đây. Năm 2003 tăng 18% so với 2002, tức là gấp 2,2 lần so với kim
ngạch của đồ gỗ thế giới, đạt giá trị kim ngạch 35 tỷ USD; năm 2004 lên
đến 33%; dự báo 2005 có thể đạt 35%.
Mua bán với quy mô lớn, mẫu mã, chủng loại sản phẩm rất đa dạng
với khoảng 12.000 dạng khác nhau, ngày càng độc đáo và hấp dẫn, từ
sản phẩm gỗ nguyên thô tới tinh chế.
Các thị trường giao dịch chính là Mỹ, EU, Nhật Bản (chiếm tới 70% kim
ngạch buôn bán gỗ toàn cầu). Mỹ, EU, Nhật Bản chuyển dịch nhanh từ những nước
xuất khẩu gỗ hàng đầu thế giới thành trung tâm nhập khẩu thế giới. Cơ hội cho xuất
khẩu đồ gỗ ở Việt Nam rất lớn.
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Từ năm 2002-2007, sản phẩm gỗ

Việt Nam đã có mặt tại 120 quốc gia vùng lãnh thổ. Đây là mặt hàng
xuất khẩu chủ lưc lớn thứ 5 của Việt Nam sau dầu thô, dệt may, giầy
dép, và thủy sản.Kim ngạch xuất khẩu của nó đã tăng lên con số 2,8 tỷ
USD trong năm 2008,đóng góp không nhỏ vào thu nhập quốc dân.
5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tính đến hết năm 2007
Thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình công nghiệp
hóa đất nước.Việc thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ đòi hỏi các doanh nghiệp
phải đầu tư cải tiến dây chuyền sản xuất nâng cao hiệu quả cũng như
chất lượng sản phẩm gỗ.Đồng thời thúc đẩy phát triển các ngành phụ
trợ như vận tải, trồng rừng, sơn mài, đồ cơ khí, sơn, keo, các loại giấy,

Tạo ra nguồn vốn quan trọng thỏa mãn nhu cầu tích lũy và sản
xuất nhằm phục vụ đắc lực cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước. Do thu hút được nhiều DN FDI nên các doanh nghiệp gỗ Việt
Nam đã tiếp cận và đã áp dụng công nghệ chế biến gỗ hiện đại để sản
xuất mặt hàng gỗ xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng. Ngoài
các thị trường trọng điểm như Mỹ, EU và Nhật, các sản phẩm gỗ Việt
Nam đã và đang thâm nhập vào thị trường Đông Âu, Trung Đông và
Nam Mỹ.Việt Nam nhập khẩu gỗ từ rất nhiều quốc gia trên thế giới,đồng
thời thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ cũng rất rộng lớn là 120
nước,thúc đẩy việc mở rộng và làm sâu sắc thêm các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại của Việt Nam,giúp giới thiệu hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
Nâng cao mức sống của người dân,nhu cầu lao động của ngành
gỗ rât lớn,về cơ bản cỏ thể tận dụng lao động phổ thông. Đồng Nai có
khoảng 142 cơ sở tập trung ở TP Biên Hòa, huyện Trảng Bom, Xuân
Lộc, số còn lại phân bố rải rác ở các huyện Tân Phú, Cẩm Mỹ, Long
Thành; tổng số lao động tham gia ngành nghề này là 768 người.. Doanh
thu năm 2007 của ngành gỗ mỹ nghệ là 26,3 tỷ đồng. Thu nhập bình
quân của người lao động từ 900.000 - 1.800.000 đồng/người/tháng.
Tại Bình Dương ngành chế biến gỗ cũng là một trong những ngành

chiếm nguồn lao động nhiều nhất hiện nay.Theo Sở Thương mại - Du
lịch, tổng số lao động trong ngành chế biến gỗ hiện nay lên đến 90.000,
bình quân hàng năm lượng lao động cần cho ngành chế biến gỗ lên đến
10.000 - 12.000 lao động.
Bình Định là cũng một trong 4 tỉnh, thành có hoạt động chế biến gỗ
mạnh nhất nước .các cơ sở chế biến gỗ xuất khẩu đã thu hút khoảng
18.000 lao động ở các địa phương với mức thu nhập bình quân 1,6 triệu
đồng/người/tháng.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đễn xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam
Xuất khẩu đồ gỗ có tốc độ tăng trưởng cao nhưng bị đánh giá là
thiếu bền vững,kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng giá trị gia tăng trong
xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ chưa cao do nhiều yếu tố tác động.
1.2.1 Các nhân tố thuộc môi trường trong nước
Đồ gỗ là mặt hành xuất khẩu còn mới do đó năng lực cung ứng sản
phẩm gỗ cho xuất khẩu còn hạn chế phụ thuộc vào quy mô của doanh
nghiệp,trình độ công nghệ sản xuất chế biến, trình độ tổ chức, quản lý
kinh doanh và tay nghề của đội ngũ lao động đặc biệt phụ thuộc vào
nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu.
1.2.1.1 Nguồn nguyên liệu đầu vào phụ thuộc vào nhập khẩu
Thực tế nguyên liệu gỗ ở Việt Nam không đủ đáp ứng cho nhu cầu
chế biến gỗ xuất khẩu. Từ sau 2001 với mục đích bảo vệ nguồn rừng tự
nhiên của quốc gia, Chính phủ đã khống chế sản lượng gỗ khai thác và
không thay đổi qua các năm là 300.000m3/năm.Bởi vậy, nguồn chính
cung cấp gỗ nguyên liệu cho các nhà máy chế biến gỗ ở Việt Nam là
80% nhập khẩu từ nước ngoài.
Theo tính toán của bộ công thương,hàng năm Việt Nam phải nhập
khẩu khoảng 250.000 đến 300.000 m3 gỗ từ các nước lân cận,trong 3
năm trở lại đây(2005-2007) thì cứ xuất khẩu được 2USD đồ gỗ thì
doanh nghiệp phải bỏ ra 1USD để nhập khẩu gỗ nguyên liệu.Mặc dù
trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ lên tới 2,8 tỷ

USD nhưng tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ đã lên tới 1,4 tỷ USD và xu
hướng của năm sau càng cao hơn nhiều năm trước..Năm 2008, Việt
Nam đã nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ 97 thị trường. Kim ngạch nhập
khẩu gỗ nguyên liệu từ 4 thị trường lớn là Malaysia, Mỹ, Lào và Trung
Quốc đạt mức trên 100 triệu USD, mức cao nhất từ trước đến nay,
chiếm 49% trong tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu của cả
nước. Tuy nhiên nhiều nước như Lào, Myanma, Inđônêxia - vốn là bạn
hàng cung cấp đồ gỗ nguyên liệu chủ yếu cho Việt Nam - nay đã ra lệnh
cấm xuất khẩu gỗ thô, nên ta phải nhập gỗ qua sơ chế, giá thành
đắt,trong khi nguồn nhập khẩu từ các quốc gia khác như New Zealand,
Australia, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Canada, Mỹ, Châu Phi lại
cách xa về địa lý nên giá thành nguyên liệu bị đội lên rất cao.Mặc dù
nguồn nguyên liệu gỗ không thiếu nhưng vì giá cả gỗ ở từng thị trường
từng khu vực khác nhau, doanh nghiệp Việt Nam thì thiếu vốn không thể
kham nổi giá nguyên liệu quá cao.Tiếp đó, khác với các mặt hàng khác.
Gỗ là mặt hàng cồng kềnh nên chi phí vận chuyển khá tốn kém cần xem
xét về yếu tố khoảng cách địa lí. Trong khi ấy, hiện tại và trong tương lai,
chi phí vận chuyển đang và sẽ tiếp tục tăng cao. Vả lại, tình hình sản
xuất ngày càng khó khăn, nhưng doanh nghiệp lại rất khó điều chỉnh
tăng giá bán, làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Biểu đồ kim ngạch xuất sản phẩm gỗ và nhập khẩu gỗ nguyên liệu
từ năm 2006 - tháng 10/2008
1.2.1.2 Vấn đề tài chính
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới từ đầu năm 2008 với
nhiều biến động khó khăn phức tạp, nền kinh tế Mỹ vẫn suy yếu do
những tác động tiêu cực của khủng hoảng tín dụng, bất động sản, đồng
đô la Mỹ mất giá; tỷ lệ lạm phát tăng cao tại hầu hết các khu vực trên
thế giới; giá nhiên liệu liên tục thay đổi. Những khó khăn chung của kinh
tế thế giới tác động tiêu cực đến sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp trong nước nói chung, các doanh nghiệp chế biến gỗ nói riêng.
Năm 2008 nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh bị hạn chế do Chính
phủ thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát và do sự thay đổi bất
thường của thị trường thế giới.
Những tháng đầu năm 2008, các doanh nghiệp chế biến gỗ gặp trở
ngại rất lớn trong việc tiếp cận vốn vay từ ngân hàng, đặc biệt là ngoại
tệ, trong khi lãi xuất cho vay tiền VNĐ cao và thời hạn vay chưa phù hợp
với thực tế sản xuất xuất khẩu sản phẩm gỗ. Mặt khác, một số doanh
nghiệp có khả năng tự huy động vốn thì các doanh nghiệp không thể
mua ngoại tệ bằng đồng USD từ ngân hàng để nhập nguyên liệu. Một
số doanh nghiệp đã buộc phải mua USD trên thị trường tự do và chấp
nhận chịu thiệt do chênh lệch tỷ giá.
Các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu rất thấp chỉ vào khoảng trên
dưới 20%, trong khi đó nợ phải trả đến 70%. Phần lớn tài sản dưới
dạng vốn lưu động là nguyên vật liệu dự trữ và thành phẩm trong kho
chờ xuất bán hoặc sản phẩm đã giao nhưng chưa thu được tiền.
Khoảng 300 doanh nghiệp FDI có quy mô lớn, tạo ra kim ngạch xuất
khẩu chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của cả nước,
còn lại hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ trong nước có quy mô nhỏ
và vừa. Trong những năm qua, số lượng các cơ sở chế biến gỗ tăng lên
không nhiều mà chủ yếu tăng công suất thiết kế.
1.2.1.3 Lực lượng lao động của ngành công nghiệp đồ gỗ
Nhân lực là vấn đề lớn của ngành gỗ, việc thiếu cả công nhân lành
nghề cùng cán bộ quản lý khiến cho hiệu quả sản xuất không cao, năng
suất lao động thấp.
Với quy mô khoảng 170.000 lao động trong 2000 nhà máy chế biến
gỗ với tỷ lệ lao động có trình độ đại học chỉ chiếm 3%, công nhân kỹ
thuật gần 30%, số còn lại gần 70% chủ yếu là lao động phổ thông. Với
yêu cầu thực tế hiện nay thì nhu cầu về nguồn nhân lực là rất lớn cả ở
bậc công nhân, kỹ sư. Theo tính toán của các chuyên gia, tuỳ theo quy

mô nhà máy, năng lực sản xuất, số lượng kỹ sư có thể dao động trong
khoảng 7-10% tổng số lao động phổ thông. Như vậy, với tổng số lao
động hiện nay nhu cầu kỹ sư CBLS cần phải là 17.000. Với quy mô đào
tạo hiện nay số lượng kỹ sư CBLS, công nhân kỹ thuật không đủ cung
cấp cho các doanh nghiệp.

×