Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.37 KB, 24 trang )

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG EU
.1 Tình hình chung về xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2001-2008
1.1.1 Về cơ cấu sản phẩm
Cây cà phê Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc so với các
nước các nước sản xuất cà phê lớn như braxin, Colombia, Mexico...vì chỉ với
hơn 30 năm, kể từ năm 1975 từ 1 nước không có tên trong danh sách các nước
xuất khẩu cà phê, đến nay Việt Nam đã trở thành nước thứ 2 trên thế giới về
xuất khẩu cà phê chỉ đứng sau nước xuất khẩu khổng lồ là Braxin. Năm 2006,
cả thế giới sản xuất được 7.411 nghìn tấn cà phê trong đó đứng đầu là Braxin
chiếm 34,42% về sản lượng (2.551 nghìn tấn) thứ 2 là Việt Nam chiếm 12.31%
(912 nghìn tấn) và thứ 3 là Colombia chiếm 9.4% còn lại là các nước xuất khẩu
khác chiếm 44,7% (3310,5 nghìn tấn)
Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là 95% cà phê Robusta ( cà phê vối) và 5%là
cà phê Arabica (cà phê chè). Nguyên nhân chủ yếu là Việt Nam có các yếu tố
thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên đất đai, khí hậu cho việc trồng loại cà phê
Robusta. Bên cạnh đó quá trình trồng loại cà phê này lại tốn ít kinh phí và kỹ
thuật trồng đòi hỏi không cầu kì , phức tạp kêt hợp với thói quen trồng loại cà
phê này của các hộ nông dân. Đối với loại cà phê Arabica thì ngược lại, loai cà
phê này đòi hỏi chi phí, kĩ thuật cao gây tốn kém và khó khăn cho các hộ trồng
cà phê.
• Cà phê Robusta (cà phê vối)
Gia Lai và Đăklăk là 2 tỉnh có điều kiện tự nhiên tương đối giống nhau,
hội tụ đầy đủ các điều kiện để phát triển cây cà phê Robusta. Hằng năm tại đây
cung ứng khoảng 90-95% tổng sản lượng cà phê. Robusta là loại cà phê có mùi
thơm nồng, không chua, độ cafein cao, phù hợp với khẩu vị của người Việt
Nam. Trồng cà phê Robusta phải thâm canh mới đạt được năng xuất cao vì trái
đậu trên cành một lần, phải tạo cành mới. Để làm được những điều này, người
nông dân phải có một vốn kiến thức căn bản.
Sản lượng cà phê Robusta : Trong mấy năm trở lại đây sản lượng cà phê
Robusta trên thế giới tăng nhanh chóng do nhu cầu tăng cao. Niên vụ 2005/06


đạt tới 44,8 triệu bao tăng tới 12,2 triệu bao so với vụ trước và chiếm tới 38%
tổng sản lượng cà phê. Diện tích trung bình đạt 350.000ha/năm. Việc xuất khẩu
nhiều cà phê Robusta thường đối mặt với nhiều khó khăn như:
- Vì Việt Nam xuất khẩu loại cà phê khá phổ biến nên khó có thể tránh
khỏi việc cà phê Robusta của Việt Nam bị thay thế bởi cà phê Robusta của các
nước khác. Do đây là loại cà phê nhiều nước có khả năng sản xuất, mặt khác với
công nghệ chế biến lạc hậu cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cà phê
- Việt Nam xuất khẩu cà phê quá đơn điệu chủ yếu là loại cà phê Robusta
nhân sống. Điều này lảm ảnh hưởng trực tiếp đến tiềm năng xuất khẩu cà phê.
Không tạo dựng được thương hiệu cà phê trong mắt người tiêu dung.
Bên cạnh đó, do tính chất của cà phê Robusta đòi hỏi kĩ thuật trồng trọt
cao nhưng các hộ nông dân lại chưa đáp ứng được, điều này ảnh hưởng không
nhỏ đến hương vị của cà phê Robusta.
• Cà phê Arabica( cà phê chè)
Cà phê Arabica được chọn giống, trồng và chăm sóc trong môi trường tự
nhiên ở độ cao từ 800m-1200m so với mặt nước biển. Chính điều kiện này tạo
nên sự khác biệt của cà phê Arabica Việt Nam với cà phê Arabica của các nước
khác
Năm 1998 cà phê Arabica của Việt Nam được xuất khẩu nhưng theo
những tiêu chuẩn của cà phê Robusta. Đến năm 2000, cà phê Arabica của Việt
Nam mới có tiêu chuẩn riêng.
Sản lượng cà phê xuất khẩu: sản lượng ngày càng tăng do nhu cầu tăng
mạnh, chênh lệch giá bán giữa cà phê cùng loại của Việt Nam và các nước khác
được rút ngắn một cách đáng kể. Đến nay cà phê Arabica của Việt Nam được
rất nhiều nước quan tâm. Diện tích cà phê Arabica vào năm 2007 đạt 793,89ha.
Hiện nay, có hai loại cà phê Arabica được trồng tại Việt Nam đó là:
Moka va Catimor
- Moka: là loại cà phê Arabica có mùi thơm quyến rũ, ngào ngạt, vị
nhẹ, nhưng sản lượng lại thấp, giá trong nước không cao vì không xuất khẩu
được trong khi giá xuất cao gấp 2-3 lần loại cà phê Robusta

- Catimor: Loại cà phê này có mùi thơm nồng nàn, hơi có vị chua,
giá xuất gấp 2 lần cà phê Robusta, chi phí sản xuất cao. Hiện nay, Quảng trị là
nơi trồng đại trà loại cây này.
Chế biến cà phê Arabica: Cà phê Arabica được chế biến theo dây
chuyền khép kín, công nghệ tiên tiến nhất của Việt Nam với công suất chế biến
là 15 tấn quả tươi/giờ, chế biến cà phê nhân công suất 2000 tấn nhân/ năm. Thị
trường tiêu thụ chính loại cà phê này là Châu Âu và Hoa Kỳ. Hiện tại nhu cầu
về loại cà phê Arabica bắt đầu tăng mạnh và Việt Nam tận dụng tốt cơ hội đó.
.1.2 Về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu
Trong vòng 26 năm trở lại đây, ngành cà phê đã có những bước phát triển
nhanh chóng vượt bậc. Một trong những nguyên nhân dẫn tới thành công là nhờ
chính sách đổi mới của nhà nước phù hợp với nguyện vọng của nông dân lao
động, chính điều này đã tác động lớn đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Một
nguyên nhân nữa mà không thể không nhắc tới là trong vài năm trở lại giá cà
phê trên thị trường thế giới diễn biến theo hướng có lợi cho người sản xuất làm
thu nhập của người nông dân tăng lên đáng kể. tính tất yếu là kích thích sản xuất
phát triển. Tuy nhiên mặt trái của sự “ tăng trưởng nóng” này cũng gây nhiều
thiệt hại.
Theo số liệu thống kê năm 2007, diện tích trồng cà phê đạt hơn
500.000ha và lượng xuất khẩu đầu tiên đạt hơn một triệu tấn, giá trị xuất khẩu
cũng đạt mức kỉ lục hơn 1,6 tỉ USD. Đây là một con số gây sốc cho ngành cà
phê Việt Nam. Nó góp phần đáng kể vào việc cung cấp dư thừa cà phê trên thị
trường thế giới đẩy giá cà phê đến mức thấp nhất. Ngành cà phê của Việt Nam
cũng chịu nhiều ảnh hưởng do sản lượng lớn. Trong niên vụ tiếp theo, niên vụ
2007-2008 tình hình xuất khẩu cà phê tương đối ổn định, Đức vẫn là bạn hàng
số một tiếp theo là Mỹ. Trong mấy tháng đầu giá cà phê tương đối ổn định.Tuy
nhiên trong mấy tháng tiếp theo giá cà phê giảm mạnh đặc biệt là vào tháng 9
và tháng 10 vừa qua. Tại thị trường Luân Đôn vào ngày 30/10 già cà phê là
1.557USD/T. Giá cà phê thế giới giảm kéo theo giá cà phê trong nước cũng
giảm mạnh. Tại ĐăkLăk, giá cà phê hiện ở mức 25.000-26.000/kg giảm gần

20.000/kg so với tháng 3/2008. Với mức giá này người trồng cà phê lỗ nặng.
Qua nguồn tổng hợp từ trung tâm thông tin thương mại cho thấy: Năm
2001 sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam ra thị trường thế giới đạt 931
nghìn tấn với kim ngạch 391 triệu USD.
Đến 2002 sản lượng cà phê giảm 209 nghìn tấn so với năm 2001 tương
đương 22,44%. kim ngạch giảm 391 triệu USD xuống còn 322 triệu USD tương
đương với 17,6% so với năm 2001.
Năm 2003 xuất khẩu cà phê đạt 749 nghìn tấn tăng 3,7% về sản lượng.
kim ngạch đạt 505 triệu USD tương đương tăng 56,8% về giá trị so với năm
2002
Năm 2004 xuất khẩu đạt 975 nghìn tấn tăng 30,17% về sản lượng. kim
ngạch xuất khẩu đạt 641 triệu USD tăng 26, 9% so với năm 2003.
Năm 2005 xuất khẩu cà phê đạt 885 nghìn tấn giảm 12,3% , kim ngạch
xuất khẩu đạt 735 triệu USD tăng 14,7% so với năm 2004
Năm 2006 xuất khẩu cà phê đạt 912 nghì tấn tăng 6,67% , kim ngạch xuất
khẩu đạt 1,101 tỉ UsD tăng 49,7$ so với năm 2005
Năm 2007 sản lượng cà phê xuất khẩu đạt 1152273 tấn tăng 26,35% kim
ngạch xuất khẩu đạt 1,6 tỉ USD tăng 45,32% so với năm 2006.
Năm 2008 xuất khẩu cà phê đạt 1.077.375 tấn giảm 6,5%, kim ngạch
xuất khẩu đạt 2,087 tỉ USD tăng 31% so với năm 2007. thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Năm Sản lượng
(nghìn tấn)
Tốc độ tăng
SL(%)
Kim ngạch
(triệu USD)
Tăng kim
Ngạch(%)
2001 931 - 391 -22

2002 722 -22,44 322 -17,6
2003 749 3,7 505 56,8
2004 975 30,17 641 26,9
2005 855 -12,3 735 14,7
2006 912 6,67 1.101 49,9
2007 1.152 26,35 1.600 45,32
2008 1.077 -6,5 2.087 31
(Nguồn Trung tâm thông tin thương mại)
Từ bảng trên ta có biểu đồ sau:
Sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam

Qua bảng số liệu trên ta thấy năm 2003 sản lượng cà phê xuất khẩu chỉ
tăng 3,7% trong khi đó kim ngạch tăng 56,8% so với năm 2002. Nguyên nhân
là do giá cà phê thế giới tăng đột biến, điều này được thể hiện rõ rệt vào năm
2004, với tâm lý tốt và diễn biến thị trường có lợi, người nông dân tiếp tục mở
rộng diện tích nhằm tăng sản lượng và thu nhập làm cho kim ngạch xuất khẩu
tăng 26,9% so với năm 2003 đạt 641 triệu USD.
Đến năm 2005, sản lượng xuất khẩu giảm 12,3% so với năm 2004 tuy
nhiên kim ngạch vẫn tăng do giá cà phê trên thị trường thế giới vẫn cao. Từ
năm 2006-2008 ngành cà phê Việt Nam lien tục đạt được nhiều thành công. Cụ
thể là tổng kêt năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 1.101 triệu USD , năm 2007
đạt 1,6 tỷ USD đây là con số đáng kinh ngạc vì đã vượt chỉ tiêu đặt ra. Sang
niên vụ 2007-2008, vào tháng 9 giá cà phê trên thế giới giảm mạnh kéo theo giá
cà phê trong nước cũng có chiều hướng đi xuống , giá cà phê tiếp tục giảm vào
tháng 10 gây tâm lý cho người xuất khẩu làm sản lượng cà phê xuất khẩu giảm
6,5% so với năm 2007 nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt hơn 2 tỷ USD.
Nguyên nhân của sự “ trượt dốc không phanh “ của giá cà phê trong mấy tháng
qua là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sức ép của đồng
USD lên giá. Chỉ tính riêng tháng 8/2008 sản lượng xuất khẩu cà phê sang Đức
giảm trên 28%, vào Hoa kỳ giảm 48%, vào Italia giảm 22%.

Theo Hiệp hội cà phê- ca cao nhận định, sản lượng cà phê trong niên vụ
2008-2009 sẽ đạt trên dưới 1 triệu tấn tương đương với vụ năm nay. Hiệp hội
còn đưa ra những vấn đề quan tâm trong sản xuất và chế biến cà phê trước tình
hình thế giới đang biến động phức tạp như áp dụng thực hành nông nghiệp
tốt(GAP), phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM), và thực hành chế biến tốt
(GMP), tìm cách hạ giá thành sản xuất thông qua việc bón phân và tưới nước
hợp lý. Ngoài ra Hiệp hội còn đặt ra các mục tiêu mở rộng sản xuất các sản
phẩm cà phê có giá trị gia tăng, đặc biệt quan tâm về yêu cầu vệ sinh an toàn
thực phẩm, đồng thời kiến nghị với chính phủ có chính sách ưu tiên về vốn hợp
lý cho ngành cà phê trong niên vụ 2008-2009.
.1.3 Về chất lượng cà phê xuất khẩu
Hiện nay cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được tiêu chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên đó mới chỉ là số lượng tương đối, nguyên nhân là do từ khâu trồng
trọt đến thu lượm sản phẩm không được quản lý qui mô và đồng bộ. Tâm lý
người nông dân muốn thu hoach sớm để gia tăng thu nhập do vậy mặc dù tỉ lệ
cà phê chín mới khoảng 10-20% họ tiến hành thu hoạch điều này ảnh hưởng đến
chất lượng cà phê khi chế biến. Cà phê xanh sẽ teo lại, da nhăn nheo, vỏ dính
chặt vào nhân rất khó đánh bóng sạch, hạt cà phê có màu tối và không thơm.
Mặt khác nông dân thu hái bằng tay, sau đó được phơi trên sân xi măng, sân đất
do đó cà phê của Việt Nam có lẫn cả mùi đất, không thơm. Chất lượng cà phê
không tốt cũng do các công ty xuất khẩu không quản lý kĩ từ khâu thu gom sản
phẩm dẫn tới tình trạng chất lượng cà phê xuất khẩu không đồng bộ, công nghệ
chế biến sản phẩm chưa theo kịp các nước phát triển. Tất cả những nhân tố này
làm cho cà phê Việt Nam giảm đi sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vì vậy
ngành cà phê Việt Nam cần phải có những tiêu chuẩn và sự điều chỉnh thật tốt
trong vấn đề quản lý chất lượng cà phê.
Bảng 2.2: Tiêu chuẩn về cà phê của Việt Nam
TCVN 4193:2001 Cà phê nhân- yêu cầu kĩ thuật
( Soát xét lần 3- Thay thế TCVN 4193-1993)
TCVN 4334:2001

( ISO 3509-1985)
Cà phê và các loại sản phẩm của cà phê- Thuật ngữ
Và ĐN ( Soát xét lần 1- Thay thế TCVN 4334-86)
TCVN 4870:2001
( ISO 4150-1991)
Cà phê nhân- Phương pháp xác định cỡ hạt bằng sàng tay( Soát xét lần
2- Thay thế TCVN 4807-89)
TCVN 6928:2001
( ISO 6673-1983)
Cà phê nhân- xác định sự hao hụt khối lượng ở 150 độ C
TCVN 6929:2001
( ISO 9116-1992)
Cà phê nhân- Hướng dẫn phương pháp mô tả các qui định
TCVN 4193:2005 Tiêu chuẩn về chất lượng cà phê xuất khẩu
(Nguồn: http// www.vicofa.org.vn)
Trong thời điểm hiện tại, Việt Nam vẫn xuất khẩu chủ yếu là cà phê theo
tiêu chuẩn TCVN 4193-93 với các thông số phần trăm lượng ẩm, tỉ lệ chất tạp,
tỉ lệ hạt vỡ. Vì vậy cà phê Việt Nam chưa đáp ứng được hết các điều kiên của tổ
chức ISO khi áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế.
Do thiếu công nghệ chế biến sản phẩm, và các công nghệ sơ chế mà
chúng ta đang có còn yếu và chưa đồng bộ nên chất lượng cà phê chưa đạt hiệu
quả như mong muốn, mặt khác thói quen của nông dân thích thu hoạch sớm làm
lẫn lộn trái xanh và trái chín càng làm giảm chất lượng cà phê khi tiến hành sơ
chế. Hiện nay cà phê Robusta của Việt Nam rất được ưa chuộng vì có chất
lượng cao trên thị trường. Loại cà phê này có nguồn gốc từ Châu phi nóng ẩm
khi sang Việt Nam được trồng ở cao nguyên khí hậu nhiệt đới nên có chất lượng
rất cao. Tuy nhiên có nhiều hạn chế trong khâu trồng trọt, hái lượm đã làm giảm
hương vị thơm ngon của loại cà phê này. Vào 5/3 vừa qua giá cà phê Robusta
leo lên ngưỡng 2.738USD/tấn đây là mức giá cao nhất trong vòng 14 năm qua
tính đến hết tháng 3/2008. Cà phê Robusta vẫn là thế mạnh của Việt Nam. Hiện

nay chúng ta vẫn đang chiếm vị trí quán quân về xuất khẩu loại cà phê này.Tuy
nhiên trong 10/2006-6/2007 đã có tới 958,667 bao cà phê của Việt Nam bị loại
thải trên thị trường LIFFE , chiếm 74% tổng sản lượng cà phê bị loại thải tại thị
trường này. Chất lượng đang là thách thức lớn nhất mà cà phê Việt Nam phải
đối mặt.
.1.4 Giá cả cà phê xuất khẩu của Việt Nam
Trong mấy năm qua, diễn biến giá cà phê luôn ở mức cao, đây là tín hiệu
tốt cho người kinh doanh sản xuất trong nước. Trong những tháng đầu niên vụ
2005-2006 cả nước xuất khẩu được gần 600.000 tấn, đạt kim ngạch gần 620
triệu USD giá xuất bình quân đạt 1.033USD/tấn. So với cùng kì niên vụ 2004-
2005 cà phê xuất khẩu giảm 9,1% về lượng nhưng tăng 32,8% về giá trị. Sang
đầu năm 2006 giá cà phê xuất khẩu liên tục tăng cao từ 1.169USD/tấn đến
1.570USD/tấn, giá bình quân 6 tháng đầu năm 2006 đạt 1.142USD/tấn. Vào
ngày 13/10/2006 Hiệp hội Cà phê- Ca cao cho biết giá cà phê xuất khẩu đã giảm
mạnh xuống còn 1.360- 1.370USD/tấn đối với cà phê giao FOB tại TP.HCM,
giảm 70-80USD/tấn so với đầu tháng 10. Kết thúc phiên 9/10/2006, giá cà phê
chè tại New york giao tháng 12 giảm 0,85 xu xuống 1,0305USD/libre và giá cà
phê Robusta tại Luân Đôn giao tháng 11 đã giảm 38USD/tấn xuống còn 1.430
USD/tấn. Tuy nhiên giá thu mua tại thị trường trong nước vẫn tăng do nhu cầu
xuất khẩu tăng trong khi nguồn cung ngày càng hạn hẹp. Tại Lâm Đồng, giá thu
mua cà phê vối tăng 400 đồng/kg và cà phê chè loại 1 tăng khoảng 200 đồng/kg.
Trong năm 2007 giá cà phê tăng tương đối ổn định. Đến năm 2008, đây
là năm có nhiều biến động nhất của ngành cà phê Việt Nam cũng như ngành cà
phê thế giới chỉ trong 8 tháng đầu năm, giá cà phê tăng mạnh ở mức 2.240-
2.520 USD/tấn thì đến tháng 10/09 giá cà phê giảm mạnh xuống còn
1.700USD/tấn và tiếp tục giảm vào tháng 11 xuống còn 1.480 USD/tấn. giá cà
phê thế giới giảm kéo theo giá cà phê trong nước cũng giảm. Tại Đăk Lăk giá cà
phê giảm gần 20.000/kg so với tháng 3. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu ảnh hưởng đến đầu ra của cà phê thế giới, đồng thời sức ép
của đồng USD lên giá đã đẩy giá cà phê xuống mức thấp nhất.

Tình hình giá cà phê bất lợi vẫn tiếp tục tái diễn vào đầu tháng 12 khi
nông dân đang vào vụ thu hoạch 2008-2009. Nông dân phải bán với giá là
25.000 đồng/kg.
10-12-2008 do đồng USD giảm giá và thị trường chứng khoán Mỹ mất
điểm giá cà phê thế giới bắt đầu tăng trở lại. Tại thị trường Luân đôn giá cà phê
Robusta kỳ hạn tháng1/09 đạt 1646USD/tấn, tăng 27 USD/tấn so với phiên giao
dịch trước. Trong khi đó giá cà phê cùng loại kỳ hạn tháng 3/09 cũng tăng 21
USD/tấn lên mức 1670 USD/tấn. Tại thị trường New york giá cà phê cũng tăng
nhẹ. Ngày 17/12/08 giá cà phê tại thị trường Luân Đôn giảm nhẹ, thị trường
New york tăng nhẹ

Bảng 2.3: Giá cà phê thế giới
Loại cà phê Kỳ hạn Thị trường 19/12/08 12/12/08 Đơn vị
Cà phê
Arabica
Giao tháng
03/09
New york 110,95 112,15 US cent/lb
Cà phê
Robusta
Giao tháng 3/09 London 1597 1641 USD/T
Cà phê
Arabica
Giao tháng 3/09 Tokyo 16.710 17.000 Yen/69 kg
Cà phê
Robusta
Giao tháng 9/09 Tokyo 16.000 15.790 Yen/100kg
( Nguồn: Vinanet)
.1.5 Phương thức và hình thức xuất khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam
Hiện nay, cà phê của Việt Nam xuất sang 75 quốc gia và vùng lãnh thổ

với nhiều hình thức, phương thức khác nhau. Phương thức phổ biến được nhiều
các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng là ký hợp đồng bán cho khách hàng, nhưng
giá cả thực tế chỉ được hai bên ấn định vào thời điểm giao hàng. Đây là phương
thức truyền thống được sử dụng rộng rãi.
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và xu hướng hội nhập
kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam đang đổi mới

×