Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.06 KB, 32 trang )

CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
TRONG ĐẤU THẦU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
NƯỚC TA THỜI GIAN QUA
2.1. Tổng quan về tình hình đấu thầu và cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng ở nước ta những năm qua.
Sau 15 năm chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá bao cấp sang cơ chế thị
trường, ngành xây dựng đã có những bước chuyển và trưởng thành nhanh chóng
cả về số lượng và chất lượng. Từ chỗ chủ yếu là những cơ sở có quy mô nhỏ,
kỹ thuật lạc hậu, đến nay các nhà thầu xây dựng nước ta đã có sự phát triển lớn
mạnh, thực thi được những công trình xây dựng có quy mô ngày càng lớn và kỹ
thuật hiện đại, nhờđó góp phần đáng kể làm thay đổi bộ mặt của đất nước. Tính
đến cuối năm 2006, năng lực của ngành xây dựng nước ta có khoảng trên 5000
nhà thầu xây lắp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, với gần 30 Tổng công
ty 90, 1500 doanh nghiệp nhà nước, số còn lại là các nhà thầu thuộc các thành
phần kinh tế khác. Ngoài ra, hiện cả nước có trên 30 nhà thầu liên doanh, gần
100 nhà thầu xây lắp nước ngoài thuộc 20 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau
(số liệu của Hiệp hội xây dựng Việt Nam). Với một lực lượng hùng hậu như
vậy, công tác đấu thầu xây dựng đang diễn ra trong sự cạnh tranh hết sức gay
gắt, quyết liệt. Chẳng hạn, chỉ tính riêng trong lĩnh vực giao thông đã có sự
tham gia của một loạt các Tổng công ty lớn thuộc các bộ ngành khác nhau, trải
dài trên tất cả các vùng, miền của đất nước (Bảng 3).
Bảng 3: Năng lực của một số Tổng công ty xây dựng giao thông năm 2006
TT Tên TCT
Trực thuộc
Bộ
Tổng tài
sản
(tỷđồng)
Tổng giá
trị MMTB
(Tỷđồng)


Tổng số
lao động
(người)
1 CIENCO 1 GTVT 1580 439 9160
2 CIENCO 4 GTVT 1210 327 6128
3 CIENCO 5 GTVT 985 319 5230
4 CIENCO 6 GTVT 1053 325 6321
5 CIENCO 8 GTVT 1229 250 4916
6 Thăng Long GTVT 1115 402 6697
7 Sông Đà Xây dựng 1176 182 7021
8 Trường Sơn Quốc phòng 700 381 5680
Nguồn: Báo cáo của các Tổng công ty năm 2006
Từ nguồn lực này cho thấy các Tổng công ty xây dựng của ta có tiềm lực
và quy mô, phạm vi hoạt động còn quá nhỏ bé so với các công ty trtong khu vực
và trên thế giới (ví dụ năng lực tài chính, các công ty của Hàn Quốc, Trung
Quốc, Nhật Bản...gấp hàng chục lần so với các Tổng công ty xây dựng Việt
Nam - xem phụ lục 4 và phụ lục 5). Ngoài các Tổng công ty này, còn có hàng
nghìn doanh nghiệp độc lập khác tham gia xây dựng công trình giao thông.
Trên thực tế tổ chức đấu thầu xây dựng đã phát huy tác dụng tích cực. Việc
tổ chức đấu thầu xây dựng đã góp phần rất lớn vào việc tiết kiệm nguồn vốn từ
ngân sách nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của chủđầu tư và kể cả nhà
thầu. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch vàĐầu tư, tính từ năm 2004 tới nay, hoạt
động đấu thầu đã mang lại những lợi ích khá lớn, tiết kiệm mỗi năm khoảng từ
4000 - 5000 tỷđồng cho ngân sách nhà nước. Ví dụ, tính riêng các dựán đầu tư
có sử dụng vốn ngân sách nhà nước được triển khai trong năm 2006 thuộc Bộ
Xây dựng quản lý thực hiện cho thấy đấu thầu đã làm giảm được một lượng tiền
khá lớn (Bảng 4)
Bảng 4: Tổng hợp kết quảđấu thầu năm 2006
Đơn vị tính: tỷđồng
Tổ chức

Tổng số
gói thầu
Tổng giá
gói thầu
Tổng giá
trúng thầu
Chênh
lệch
Ghi
chú
1. Bộ xây dựng 1778 4137,01 3740,26 396,75
2. TCT xây dựng
Hà Nội
1149 5465,90 2728,94 2736,96
3. TCT xây dựng
Sông Hồng
150 481,37 462,79 18,58
4. TCT xây dựng
Sông Đà
396 1003,50 935,19 68,31
5. TCT
VINACONEX
922 1722,73 1113,73 609
6. TCT LICOGI 174 2517,07 1113,62 1403,45
7. TCT xây dựng
miền Trung
207 430,09 419,35 10,74
8. TCT lắp máy
Việt Nam
35 78,40 58,80 19,60

9. v.v.
Nguồn: Vụ Kế hoạch – Thống kê, Bộ Xây dựng
(Ghi chú: Số liệu có tính minh hoạ, không tổng hợp được vì chưa đầy đủ
và một sốđơn vị khi thống kê có sự tính trùng giữa phần đấu thầu và dự thầu).
Kết quả tham gia đấu thầu của các doanh nghiệp xây dựng được thể hiện
tập trung qua chỉ tiêu số lượng công trình trúng thầu, giá trị công trình trúng
thầu và xác suất trúng thầu (tỷ lệ trúng thầu tính theo số công trình và theo giá
trị) qua thí dụở bảng dưới đây.
Bảng 5: Kết quả tham gia đấu thầu của một số doanh nghiệp xây dựng
năm 2006
Tên doanh
nghiệp
Số công
trình dự
thầu
Số công
trình thắng
thầu
%
CTTT/
CTDT
Giá trị
công trình
dự thầu
(tỷđồng)
Giá trị công
trình trúng
thầu (tỷđồng)
%
GTTT/

GTDT
1. TCT xây
dựng Hà Nội
1410 493 43,9 4900 1081 22,1
2. TCT
LICOGI
189 78 41,3 3500 1300 37,1
3. TCT xây
dựng CTGT8
36 21 58,3 370 120 32,4
4. Công ty
XD 19
LICOGI
57 21 36,8 342 102 29,8
5. Công ty lắp
máy và xây
dựng Hà Nội
20 4 20 120 20 16,7
Nguồn: Báo cáo của Phòng đấu thầu và Quản lý dứan của các doanh
nghiệp.
Thực chất của đấu thầu là tổ chức sự cạnh tranh giữa các nhà thầu và mức
độ của sự cạnh tranh đóở mỗi thời kỳ mang sắc thái riêng. Việc nắm vững
những sắc thái này rất cóý nghĩa trong việc phân tích, đánh giá hiện trạng.
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng có
những đặc điểm chung sau đây:
- Các doanh nghiệp mới bắt đầu làm quen với phương thức đấu thầu xây
dựng. Tuy chếđộđấu thầu xây dựng đã có từ năm 1994, nhưng giao thầu và
chỉđịnh thầu vẫn còn áp dụng, nên thực sự các doanh nghiệp mới bắt đầu thực
hiện đấu thầu trong những năm gần đây, trong khi đó chếđộ này đã quá quen
thuộc với nhiều quốc gia trên thế giới. Do vậy, so với các nhà thầu nước ngoài,

ta còn yếu cả về tiềm lực và kinh nghiệm làđiều dễ hiểu. Vấn đề là cần tìm giải
pháp để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách này càng sớm càng tốt.
- Môi trường pháp lý cho việc tổ chức sự cạnh tranh chưa rõ ràng. Chúng
ta chưa có luật cạnh tranh và luật chống độc quyền (đang dự thảo và xin ý kiến
Quốc hội). Tương tự như vậy, trong xây dựng chúng ta mới ban hành Luật xây
dựng (Quốc hội thông qua tháng 12/2003) nhưng cho tới nay vẫn chưa có
hướng dẫn thi hành, chưa có Luật (hay Pháp lệnh) vềđấu thầu xây dựng... Giá trị
pháp lý thấp của quy chếđấu thầu cũng là một cản trở lớn đối với việc tổ chức
cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng hiện nay.
- Điều kiện cạnh tranh chưa thật bình đẳng, nhất là giữa doanh nghiệp lớn
và doanh nghiệp nhỏ,doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp trong ngành và ngoài ngành, doanh
nghiệp trong vùng và ngoài vùng. Thực tếưu thế trong đấu thầu thường thuộc về
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp trong ngành (thuộc Bộ
chủ quản, Sở chủ quản) hoặc doanh nghiệp trong vùng.
- Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng hiện nay còn mang nặng tính ngắn
hạn, theo từng dựán, gói thầu là chủ yếu. Điều đó xuất phát từđòi hỏi về giải
quyết việc làm, thu nhập vàđời sống trước mắt của đội ngũ lao động ở từng
doanh nghiệp và do vậy, doanh nghiệp rất khó khăn trong việc đưa ra những
định hướng cạnh tranh có tính chiến lược và tạo lập tiềm lực dài hạn của doanh
nghiệp.
- Sự thắng thầu (hay trượt thầu) của nhà thầu còn quá lệ thuộc vào phía
chủ quan của chủđầu tư hay Hội đồng xét thầu. Việc đưa ra các tiêu chuẩn chủ
quan, thiếu căn cứ, thiếu nhất quán... nhằm lựa chọn nhà thầu thân cận loại bỏ
các nhà thầu có tiềm lực thực sự là một thực tếđau lòng, song vẫn còn tiếp diễn
ở một số nước đấu thầu hiện nay. Điều đó, một mặt là vi phạm nguyên tắc trao
thầu, đi ngược lại mục đích đấu thầu và nguy hại hơn là làm giảm động lực của
nhà thầu trong việc tìm cách tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng.
Trong điều kiện như vậy, việc đánh giá thật chính xác thành tựu và kể cả
những hạn chế của đấu thầu xây dựng là một việc làm không phải là dễ dàng.

Tuy vậy, qua khảo sát thực tiễn, thu thập và xử lý thông tin, nghiên cứu tình
huống điển hình và nhìn nhận một cách tổng quát, chúng ta có thể nêu lên
những mặt được chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, việc xác định mục đích trúng thầu đang làđộng lực quan
trọng trong phát triển doanh nghiệp. Bởi vì doanh nghiệp ngày càng nhận thức
rõ ràng rằng chỉ có trúng thầu mới tạo ra sự tăng trưởng và phát triển ổn định,
giải quyết việc làm vàđảm bảo thu nhập cho người lao động. Hơn thế nữa, trúng
thầu không phải bằng mọi cách, mọi giá như trước đây, mà phải bằng cách tăng
khả năng cạnh tranh và thực hiện chiến lược cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng.
- Thứ hai, thông qua việc tham gia đấu thầu và triển khai thực hiện các
dựán hay gói thầu, các doanh nghiệp tích luỹđược nhiều kinh nghiệm trong lập
hồ sơ dự thầu và tổ chức thực hiện hợp đồng sau trúng thầu. Đây là bước quan
trọng để thực hiện các bước trong lộ trình tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp: từđấu thầu trong nước đến đấu thầu có yếu tố nước ngoài và tiếp đến là
tham gia đấu thầu quốc tế.
- Thứ ba, nhờ nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố tài chính và tài
sản trong việc tăng khả năng cạnh tranh, nên các doanh nghiệp đã coi trọng việc
gia tăng năng lực tài chính với việc huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau,
từđó mà làm tăng thêm năng lực tài sản thông qua việc đầu tư mua sắm thiết bị,
đổi mới công nghệ, nghiên cứu vàứng dụng các công nghệ thi công tiên tiến.
- Thứ tư, vì thi công công trình sau trúng thầu ngày càng đòi hỏi rất
nghiêm ngặt về chất lượng, tiến độ và chi phí, nên cán bộ, công nhân viên ởcác
doanh nghiệp đều luôn chú trọng nâng cao trình độ nghiệp vụ và tay nghề của
mình. Các doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp đã chú trọng lựa chọn các lĩnh
vực kinh doanh và quản lý kinh doanh theo hướng chuyên nghiệp hoá, tổ chức
thi công theo dây chuyền, đồng thời kết hợp đa dạng hoá, tận dụng các nguồn
lực khác và tăng tính linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của mình.
- Thứ năm, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp không chỉđược
nâng lên thông qua đấu thầu trong nước, mà còn tạo ra vị thế của mình trong

tham gia đấu thầu có yếu tố nước ngoài. Hơn thế nữa, một số doanh nghiệp đã
bắt đầu tham gia và thắng thầu đối với các dựán và gói thầu quốc tế (ví dụ Tổng
công ty xuất nhập khẩu và xây dựng VINACONEX, Tổng công ty xây dựng
giao thông 8 và Tổng công ty xây dựng giao thông 4...).
2.2. Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
thông qua kết quảđiều tra xã hội học.
Để nắm sâu hơn những khó khăn, vướng mắc trong đấu thầu xây dựng và
qua đó tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong đấu thầu xây lắp, chúng tôi đã thực hiện một cuộc điều tra xã hội
học quy mô nhỏ với 30 doanh nghiệp xây lắp thuộc các lĩnh vực hoạt động và
quy mô khác nhau. Có 15 doanh nghiệp đã trả lời phiếu điều tra (xem phụ lục 1
và phụ lục 2) và sau đây là một số kết quả tổng hợp chủ yếu về thực trạng tình
hình này:
- Thứ nhất, theo các lĩnh vực hoạt động. Trong số 15 doanh nghiệp xây
lắp có 14 lượt doanh nghiệp trả lời là có tham gia xây dựng công nghiệp, 13
lượt có tham gia xây dựng giao thông, 14 lượt tham gia xây dựng dân dụng, 9
lượt tham gia xây dựng thủy lợi và 10 lượt doanh nghiệp tham gia xây dựng
khác. Điều đó, chứng tỏ rằng lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp ngoài
lĩnh vực chuyên môn hoá theo thế mạnh, trong đó tập trung nhiều vào lĩnh vực
xây dựng công nghiệp và dân dụng và tiếp đến là lĩnh vực xây dựng giao thông,
các doanh nghiệp đã có chúý tới việc mở rộng lĩnh vực kinh doanh theo hướng
đa dạng hoá các lĩnh vực hoạt động.
- Thứ hai, xét về quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhìn chung
quy mô doanh nghiệp ở mức trung bình và dưới trung bình là chủ yếu. Đây là
một cản trở lớn trong cạnh tranh đấu thầu, nhất là trong đấu thầu có yếu tố nước
ngoài. Chẳng hạn, theo kết quảđiều tra giá trị trung bình về một số chỉ tiêu của
các doanh nghiệp điều tra tính cho năm 2006 như sau:
+ Tổng số lao động (người): 1890
+ Tổng vốn kinh doanh (tỷđồng): 281
+ Tổng doanh thu (tỷđồng): 320

+ Tổng giá trị TSCĐ (tỷđồng): 54
+ Giá trị xây lắp (tỷđồng): 286
- Thứ ba, về kết quả tham gia đấu thầu. Nếu tính theo chỉ tiêu trung bình
qua các năm kết quảđó thể hiện như sau:
Bảng 6: Tổng hợp kết quả tham gia đấu thầu của các doanh nghiệp
điều tra qua các năm 2002 – 2006.
ST
T
Tiêu thức
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
1 Số công trình tham gia đấu
thẩutungbình
42 65 105 156 145
2 Giá trị các công trình tham gia
đấu thầu trung bình (tỷđồng)
125 376 356 295 275
3 Số công trình thắng thầu
trung bình
24 31 44 55 53
4 Giá trị các công trình thắng
thầu trung bình

65 67 89 94 110
5 Số lượng công trình thắng
thầu có quy mô lớn trung bình
2 3,7 5,4 7 6,4
6 Giá trị công trình có quy mô
lớn trung bình (tỷđồng)
Không

34 27 21 36
(Ghi chú: Theo bản tổng hợp này,số lượng công trình thắng thầu trung
bình và giá trị công trình thắng thầu đạt khá hơn so với số liệu thống kê trên đây
vì trong kết quảđiều tra áp dụng cho cảđối tượng là Tổng công ty và công ty xây
dựng độc lập).
- Thứ tư, nhận định về kết quả tham gia đấu thầu và nguyên nhân thắng
thầu. Từ kết quảđiều tra cho thấy, phần lớn các ý kiến đều cho rằng để thắng
thầu doanh nghiệp xây dựng cần chú trọng giải quyết tốt các vấn đề chủ yếu sau
đâu:
+ Nghiên cứu kỹ hồ sơ dự thầu và hiện trường thi công (100%).
+ Lập hồ sơ dự thầu tốt (92,86%)
+ Chọn phương án thi công phù hợp (92,86%0
+ Đưa ra giá dự thầu thấp(71,43%)
+ Các kinh nghiệm khác (57,4%)
- Thứ năm, về nguyên nhân có thể dẫn đến trượt thầu. Đồng thời với việc
khẳng định các vấn đề chủ yếu cần tập trung giải quyết, các doanh nghiệp cũng
cho rằng nguyên nhân cơ bản sau đây có thểđưa doanh nghiệp đến chỗ trượt
thầu:
+ Nắm thông tin về gói thầu không chính xác (85,71%)
+ Đưa ra giá dự thầu cao (85,71%)
+ Khả năng tài chính thấp (73,43%)
+ Thiếu kinh nghiệm quản lýđiều hành thực hiện dựán sau khi trúng thầu

(71,43%).
+ Sai sót về hồ sơ dự thầu (42,86%)
+ Năng lực thi công kém (21,43%)
+ Những nguyên nhân khác (28,57%)
Có thể nói những đánh giá tổng hợp này là hướng gợi mở về bài học kinh
nghiệm thắng thầu và thua thầu có giá trị tham khảo tốt cần được nghiên cứu, cụ
thể hoá và vận dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu
thầu xây dựng.
- Thứ sáu, vềđánh giá các nhân tốảnh hưởng. Đánh giá về những nhân
tốảnh hưởng khách quan (môi trường kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng)
và nhân tố chủ quan đến khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, doanh
nghiệp cho rằng mức độ tác động của các nhân tố có khác nhau, trong đó có thể
chia làm các nhóm chính sau đây (Ghi chú: mức điểm cao nhất trong khi đánh
giá là 5):
+ Nhóm nhân tố có tác động mạnh gồm: quyền lực của chủđầu tư
(4,28điểm); khả năng của các đối thủ cạnh tranh (4,21 điểm) và khả năng của
chính bản thân doanh nghiệp (4,00 điểm).
+ Nhân tố tác động ở mức trung bình có cơ chế, chính sách của Nhà nước
(3,50 điểm);
+ Nhân tố tác động ở mức độ yếu hơn thuộc về nhân tố khác, ví dụ quan
hệ với chủđầu tư, tác động của các chủ thể khác có liên quan... (2,28 điểm).
2.3. Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của các
doanh nghiệp xây dựng qua thực tiễn một số doanh nghiệp điển hình.
2.3.1. Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng của Công ty xây lắp – vật tư- vận tải sông Đà 12 (TCT xây dựng sông
Đà).
2.3.1.1. Giới thiệu tổng quan về Công ty.
Khác với các công ty xây dựng khác, ngay từ thời kỳđầu hình thành và
phát triển, cán bộ công nhân viên của công ty đã bắt tay vào xây dựng một số
công trình trọng điêm của quốc gia, đã hoàn thành vàđưa vào sử dụng nhiều

công trình lớn như: nhà máy thủy điện Hoà Bình, Trị An, Vĩnh Sơn, nhà máy xi
măng Hoàng Thạch, Bút Sơn...Từ những công trình lớn này công ty đang ngày
càng được hoàn thiện hơn về nhiều mặt và ngày càng có thế mạnh và khẳng
định uy tín trên thị trường xây dựng. Hơn nữa vận động trong cơ chế thị trường,
đặc biệt thực hiện chếđộđấu thầu đã tạo cho công ty cơ hội khẳng định mình. Ví
dụ, năm 2005 ngoài 7 công trình được thực hiện mà chủđầu tưchính là công ty
(hoặc các đơn vị chi nhánh của công ty), công ty đã tiếp thịđấu thầu 60 dựán,
trong đó trúng thầu là 42 dựán, đạt 70%. Đặc biệt hơn, vào tháng 01/2006,
phòng thị trường của công ty được thành lập đểđảm trách mảng đấu thầu mà
trước đó chức năng này được thực hiện ở phòng kế hoạch- kỹ thuật. Điều đó
thể hiện tầm quan trọng, cũng nhưđịnh hướng của ban lãnh đạo nhằm thực hiện
có hiệu quả công tác đấu thầu để theo kịp với cơ chế thị trường bằng bước đột
phá trong cơ chế quản lý. Hoạt động đóđã mang lại hiệu quả tích cực, sau một
thời gian hoạt động, phòng thị trường đã chứng tỏ năng lực của mình trong việc
tiếp thịđấu thầu, góp phần quan trọng vào kết quả thắng thầu cũng như hiệu quả
sản xuất kinh doanh của công ty.
Bảng 7: Kết quả tham gia đấu thầu năm 2005 và2006.
Năm Số công trình Số công Giá trị Chỉ số Chỉ số
tiếp thịđấu
thầu
trình trúng
thầu
công trình
trúng thầu
(tỷđồng)
tương đối
theo số
lượng (%)
tương đối
theo giá trị

(%)
(1) (2) (3) (4) (5) (6)
2005 47 30 62,181 64 62
2006 55 42 83,034 76,36 70,21
Nguồn: Phòng thị trường công ty xây lắp – vật tư – vận tải sông Đà 12
2.3.1.2. Phân tích một số khía cạnh về khả năng cạnh tranh trong đấu thầu
xây lắp của Công ty xây lắp – vật tư- vận tải sông Đà 12.
- Khả năng về nhân lực
Với 6400 cán bộ công nhân viên chức, trong đó có 267 có trình độđại học
và trên đại học bao gồm kỹ sư các ngành xây dựng, vật liệu xây dựng, máy xây
dựng, cử nhân kinh tế... cùng với hàng nghìn thợ cả, lực lượng lao động cơ bản
của Công ty xây lắp – vật tư – vận tải sông Đà 12 như sau:
Bảng 8: Lực lượng lao động của Công ty xây lắp – vật tư – vận tải
sông Đà 12
STT Trình độ Số lượng (người) %
A Cán bộ khoa học 227 16,56
1 Trên đại học 1 0,04
2 Đại học 226 7,66
3 Cao đẳng các loại 24 0,9
4 Trung cấp 162 6,20
5 Sơ cấp 20 0,76
B Công nhân kỹ thuật 1852 70,95
1 Công nhân xây dựng 64 2,45
2 Công nhân cơ giới 692 26,51
3 Công nhân lắp máy 129 4,94
4 Công nhân cơ khí 146 5,59
5 Công nhân sản xuất vật liệu 818 31,34
6 Công nhân khảo sát 3 0,15
C Lao động phổ thông 300 11,49
D Nhân viên bán hàng 25 2.00

Nguồn: Phòng thị trường, công ty xây lắp- vật tư- vận tải sông Đà 12.
Mặc dù trong đấu thầu xây dựng, phương án kỹ thuật thi công là căn cứ
rất quan trọng – là một trong ba điều kiện cơ bản để chủđầu tư lựa chọn nhà
thầu khi tổ chức đấu thầu xây lắp. Song theo cách nhìn nhận của công ty, con
người vẫn là yếu tố quan trọng nhất, quyết định phương án thi công. Tuỳ theo
yêu cầu về số lượng và trình độ, kinh nghiệm của lực lượng lao động, công ty
luôn tìm cách đưa ra phương án thi công phù hợp với yêu cầu của chủđầu tư.
Nói cách khác, phương án thi công phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhân lực, từ việc
xem xét khả năng của nguồn nhân lực mà công ty đưa ra được phương án thi
công tối ưu.
Tình hình nhân sự như hiện nay, bậc thợ trung bình của công nhân là 3,0
phần lớn được đào tạo tại các trường lớp chính quy lại kinh qua làm việc ở các
công trường lớn, cộng với hàng năm công ty đều có chính sách tuyển dụng bổ
sung lực lượng lao động trẻ có năng lực tốt và luôn quan tâm đến vấn đềđào tạo
bằng nhiều hình thức hình thức khác nhau, công ty đã bước đầu đáp ứng được
đòi hỏi của cơ chế thị trường nói chung và chủđầu tư nói riêng.
- Khả năng về máy móc thiết bị
Công ty xây lắp – vật tư – vận tải sông Đà 12 trực thuộc Tổng công ty
xây dựng sông Đà, nên rất thuận lợi trong việc hỗ trợ, bổ sung năng lực lẫn
nhau. Ví dụ, trong Tổng công ty có trạm thí nghiệm xây dựng miền Bắc, đóng
tại thị xã HàĐông cóđầy đủ máy móc thiết bị thí nghiệm hiện đại (Anh, Mỹ,
Pháp, Đức, CHLB Nga...) để kiểm nghiệm vật liệu cho các công trình mà công
ty đã tham dự từ trước tới nay. Đây là một điều kiện đểđảm bảo yêu cầu kỹ
thuật và chất lượng nguyên vật liệu của công ty theo đúng tiêu chuẩn vàđáp ứng
yêu cầu của chủđầu tư. Cùng với cơ sở kiểm nghiệm trên, máy móc thiết bị thi
công của công ty đa dạng về chủng loại, số lượng lớn, đảm bảo đủ năng lực và
tiêu chuẩn quy định, đáp ứng yêu cầu của các chủđầu tư trong và ngoài nước.
Điều đáng nói là số máy móc thiết bị này giá trị còn lại khá lớn (>75%), những
thiết bị xe máy chủ yếu được mua sắm vào những năm gần đây. Với năng lực
thiết bị xe máy như vậy công ty đủ sức hoàn thành nhiều công trình với yêu cầu

×