Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất viện và các yếu tố liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.43 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

TỶ LỆ NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ HOÀN TOÀN TẠI THỜI ĐIỂM XUẤT
VIỆN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Lâm Kim Hường*, Nguyễn Anh Tuấn**, Bùi Quang Vinh**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị cho trẻ bú mẹ sớm và bú mẹ hoàn toàn trong 3 ngày đầu hậu
sản có tính quyết định đến thời gian bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất viện và các yếu tố liên quan.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành tại bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ từ tháng 14/2016. Sản phụ sau sinh thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu được theo dõi từ sau sinh đến thời điểm xuất viện, thông tin
ghi nhận bằng bộ câu hỏi bà mẹ tự điền về những đặc điểm dịch tễ học mẹ, con, kinh tế - xã hội, thực hành nuôi
con bằng sữa mẹ. Các yếu tố liên quan đến tình hình bú mẹ tại thời điểm xuất viện được xác định bằng phân tích
hồi qui đa biến với mức có ý nghĩa p<0,05.
Kết quả: Trong số 672 trường hợp tại thời điểm xuất viện, có 309 sản phụ sau sinh (46%) nuôi con bằng
sữa mẹ hoàn toàn, sau khi khống chế các yếu tố gây nhiễu, những yếu tố có liên quan đến tình hình cho con bú mẹ
hoàn toàn tại thời điểm xuất viện: mẹ khám thai ở cơ sở y tế công, mẹ được nhân viên y tế giúp cho trẻ bú sớm và
mẹ được gia đình giúp đỡ những ngày đầu hậu sản tại bệnh viện.
Kết luận: Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất viện khá thấp, dự báo tỷ lệ nuôi con bằng
sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm 6 tháng sẽ không cao. Nhiều biện pháp tích cực hơn cần được thực hiện để nâng
cao tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn tại địa phương cũng như tại Việt Nam nhằm mang lại những lợi ích bền vững
và lâu dài cho trẻ.
Từ khóa: bú mẹ hoàn toàn, các yếu tố liên quan.

ABSTRACT
PREVALENCE OF EXCLUSIVE BREASTFEEDING AT HOSPITAL DISCHARGE

AND FACTORS ASSOCIATED
Lam Kim Huong, Nguyen Anh Tuan, Bui Quang Vinh


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 226 - 231
Background: World Health Organization recommends breastfeeding early and exclusive breastfeeding
during the first 3 days postpartum period are critical to exclusive breastfeeding in the first 6 months.
Objectives: To determine prevalence of exclusive breastfeeding at hospital discharge and factors associated.
Methods: A cross sectional survey was carried out at Can Tho hospital of obstetrics and gynecology from
January to April 2016. Postpartum mothers were eligible for sampling is monitored from birth to the time after
discharge, the information recorded by the mothers themselves filled questions about the epidemiological
characteristics of mothers and children, economic - social, practice of breastfeeding. Multiple logistic regression
was use to identify the independent predictors at hospital discharge with significant level of 0.05.
Results: Among 672 women at hospital discharge, with 309 women (46%) exclusive breast feeding. The
predictors, independently associated with practice of exclusive breastfeeding, were pregnancy examination at
* Bệnh viện Phụ sản, TP Cần Thơ, ** Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: Ths. Bs. Lâm Kim Hường ĐT: 0919656270
Email:

226

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Nghiên cứu Y học

public health services, medical staff help for breastfeeding mothers and family help for breastfeeding mothers.
Conclusions: Prevalence of exclusive breastfeeding at hospital discharge were low, the forecast rate of
breastfeeding breastfed at 6 months will be limited. Many more positive methods should be taken to raise the
proportion of children are exclusively breastfed at the local as well as in Vietnam in order to bring the benefits of
sustainable and long term for children.
Key words: exclusive breastfeeding, factors associated.

Thành phố Cần Thơ trong khoảng thời gian từ
ĐẶT VẤN ĐỀ
tháng 01/2016 đến tháng 04/2016.
Đối với trẻ sơ sinh, việc không được bú mẹ
Phương pháp nghiên cứu
có liên quan với sự gia tăng của bệnh lý nhiễm
Nghiên cứu cắt ngang mô tả tại bệnh viện
trùng, bao gồm viêm tai giữa, viêm dạ dày ruột
Phụ sản Thành phố Cần Thơ với cỡ mẫu được
và viêm phổi, cũng như nguy cơ cao bị béo phì,
tính là 382 sản phụ sinh ngã âm đạo trong
bệnh đái tháo đường type 1 và type 2, bệnh bạch
(3)
khoảng thời gian từ tháng 01/2016 đến tháng
cầu, và hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh . Trong số
04/2016 (thực tế 672 mẫu), đồng ý tham gia
những trẻ sinh non, không được bú mẹ có liên
nghiên cứu, không có bệnh lý cần can thiệp sau
quan với tăng nguy cơ viêm ruột hoại tử(1). Bú
sinh như băng huyết sau sinh, tiền sản giật
mẹ hoàn toàn trong 3 ngày đầu hậu sản có tính
nặng,…Ngoài ra bé không có chỉ định nhập
quyết định đến thời gian bú mẹ hoàn toàn trong
khoa sơ sinh cũng như không có dị tật hay chống
6 tháng đầu. Tại Việt Nam, tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn
chỉ định liên quan đến động tác bú nút.
trong 3 ngày đầu sau sinh (2013) là 54%(13). Tuy
nhiên có đến 17,1% bà mẹ gặp phải các vấn đề
khó khăn khi nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn:
với các nguyên nhân về vú (vú đau, nhiễm trùng

hoặc tắc tia sữa) và một số khó khăn khác như
trẻ ngậm bắt vú không tốt, mẹ không đủ sữa và
trẻ gặp vấn đề về bú như nôn/trớ(2).

ĐỐITƯỢNG–PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU

Biến số nghiên cứu là tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn
tại thời điểm xuất viện. Dữ liệu được nhập và xử
lý bằng phần mềm SPSS 19.0.

KẾT QUẢ
Có 672 cặp mẹ - con thỏa điều kiện nghiên
cứu được thu thập thông tin và phân tích số liệu.

Đối tượng nghiên cứu
Các sản phụ đến sinh tại Bệnh viện Phụ sản
Bảng 1: Thực hành nuôi con tại thời điểm xuất viện (N=672)
Thực hành nuôi con tại thời điểm xuất viện
Trung bình ± ĐLC (ngày)
3 ngày
4 ngày
≥5 ngày
Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất viện

Không
Cách nuôi con bằng sữa lúc xuất viện:
Bú mẹ và sữa công thức
Bú mẹ
Bú sữa công thức
Thức uống khác ngoài sữa (sữa mẹ và sữa công thức):

Không uống gì thêm
Nước
Mật ong
Khác

Ngày xuất viện (ngày điều trị):

Nhi Khoa

N (%)
3,8 ± 0,8
279 (41,5)
274 (40,8)
119 (17,7)
309 (46,0)
363 (54,0)
332 (49,4)
318 (47,3)
22 (3,3)
571 (85,0)
75 (11,2)
15 (2,2)
11 (1,6)

227


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Nghiên cứu Y học


Thực hành nuôi con tại thời điểm xuất viện
Khó khăn khi cho con bú (N=502):
Bầu vú cứng, đỏ da, đau nhiều
Sữa mẹ xuống ít
Bầu vú bị sưng, nứt, chảy máu
Bầu vú bị tụt vào trong
Trẻ không chịu bú
Trẻ quấy khóc khi bú
Khác
Lý do bú mẹ kèm sữa công thức (N=354):
Nghĩ rằng sau sinh sữa chưa xuống
Nghĩ rằng không đủ sữa
Đau vết may tầng sinh môn
Nghĩ rằng sữa công thức đầy đủ dinh dưỡng hơn sữa mẹ
Vú nhỏ không đủ sữa
Sốt sau sinh
Mệt mỏi khi con bú mẹ hoàn toàn
Khó khăn từ gia đình khi nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn:

Không
Gia đình giúp đỡ cho trẻ bú:

Không

N (%)
2 (0,4)
8 (1,6)
19 (3,8)
51 (10,2)

105 (20,9)
134 (26,7)
183 (36,4)
153 (43,2)
145 (41,0)
23 (6,5)
14 (3,9)
12 (3,4)
6 (1,7)
1 (0,3)
6 (0,9)
666 (99,1)
449 (66,8)
223 (33,2)

Bảng 2: Các yếu tố dịch tễ học mẹ liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất viện (N=672)
Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại
thời điểm xuất viện

Đặc điểm
Tuổi mẹ: ≤30 tuổi
> 30 tuổi
Nghề nghiệp: Kinh doanh
Không
Khu vực sinh sống: Thành thị
Nông thôn

Có n (%)
201 (42,9)
108 (52,9)

35 (52,2)
274 (45,3)
110 (44,4)
199 (46,9)

Không n (%)
267 (57,1)
96 (47,1)
32 (47,8)
331 (54,7)
138 (55,6)
225 (53,1)

Trình độ học vấn: Từ cấp 2 trở xuống
Từ cấp 3 trở lên

161 (47,5)
148 (44,4)

178 (52,5)
185 (55,6)

OR (KTC 95%)
0,67 (0,48-0,93)
1
1,32 (0,79-2,19)
1
0,90 (0,66-1,24)
1
1,13 (0,84-1,53)

1

p

0,017
0,279
0,517
0,428

Bảng 3: Các yếu tố về đặc điểm của con liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất viện
(N=672)
Đặc điểm
Giới tính: Trai
Gái
Tuổi thai: < 37 tuần
37 – 42 tuần
> 42 tuần
Cân nặng lúc sinh: Nhẹ cân
Đủ cân

Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời
điểm xuất viện
Có n (%)
Không n (%)
178 (47,3)
198 (52,7)
131 (44,3)
165 (55,7)
23 (41,8)
32 (58,2)

286 (46,5)
329 (53,5)
0 (0,0)
2 (100)
18 (46,2)
21 (53,8)
291 (46,0)
342 (54,0)

OR (KTC 95%)
1,13 (0,83-1,54)
1
1
1,21 (0,69-2,12)
0
1,01 (0,53-1,93)
1

p
0,426
1
0,505
0,999
0,982

Bảng 4: Phân tích đa biến hồi quy logistic các yếu tố liên quan với nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm
xuất viện (N=672)
Các yếu tố

Cơ sở y tế công

Phòng khám tư

228

Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất
viện
Có n (%)
Không n (%)
Địa điểm khám thai
146 (56,6)
112 (43,4)
163 (39,4)
251 (60,6)

Hồi qui logistic đa biến
OR (KTC 95%)

p

1,98 (1,40-2,78)
1

<0,001

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Các yếu tố



Không

Không

Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất
viện
Có n (%)
Không n (%)
Nhân viên y tế giúp mẹ cho trẻ bú
252 (49,7)
255 (50,3)
57 (34,5)
108 (65,5)
Gia đình giúp đỡ cho trẻ bú
176 (39,2)
273 (60,8)
133 (59,6)
90 (40,4)

BÀN LUẬN
Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại
thời điểm xuất viện
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
tại thời điểm xuất viện tỷ lệ nuôi con bằng sữa
mẹ hoàn toàn là 46%, cao so với kết quả của
Huỳnh Văn Tú (19,8%)(10), và thấp hơn kết quả
nghiên cứu của Qiu (2009) có 50,3% bà mẹ cho
con bú mẹ hoàn toàn(12).

Sự thiếu kiến thức của bà mẹ về định nghĩa
của bú mẹ hoàn toàn. Một số bà mẹ lại không có
ý định cho bú mẹ hoàn toàn hoặc không biết thời
gian tối ưu cho trẻ bú mẹ hoàn toàn. Một số ý
kiến khác cho rằng: "Bên cạnh sữa mẹ, nước là cần
thiết" và "bú sữa mẹ là tốt, nhưng rất khó để thực
hành"(9). Bên cạnh đó sự hiểu lầm về bú mẹ hoàn
toàn là "ngay sau khi sinh sữa mẹ không có hoặc quá
ít". Nhận thức này đã được báo cáo bởi các bà
mẹ, ông bà, bạn bè, và thậm chí cả một số cán bộ
y tế; nhiều bà mẹ tương lai đã mua một hộp sữa
công thức và mang nó đến bệnh viện trước khi
sinh. Điều này có thể giúp giải thích lý do tại sao
hơn 80% số trẻ sơ sinh nhận được sữa công thức
cho trẻ sơ sinh như một thức ăn đầu tiên(9). Tỷ lệ
bú mẹ hoàn toàn thấp ở Trung Quốc trong các
cuộc thảo luận nhóm được các bà mẹ cố gắng
giải thích rằng "lượng sữa không đủ" là một trong
những lý do chính được đề cập(10). Trong các
nghiên cứu khác, "hội chứng thiếu sữa mẹ" cũng
đã được coi là một rào cản quan trọng để bú mẹ
thành công(15). Bởi vì người mẹ thường không thể
đo lường được lượng sữa, các bà mẹ thường
thiếu tự tin về việc liệu con của họ có đủ no hay
vẫn còn đói, các bà mẹ vẫn ưa thích cho sữa công
thức bổ sung cho con sau khi cho bú mẹ. Kết quả

Nhi Khoa

Nghiên cứu Y học

Hồi qui logistic đa biến
OR (KTC 95%)

p

1,66 (1,12-2,48)
1

0,012

0,42 (0,29-0,59)
1

<0,001

nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy có 49,4%
trẻ bú mẹ kèm sữa công thức, một số lý do mẹ
cho trẻ uống thêm sữa công thức vì mẹ nghĩ
rằng sau sinh sữa chưa xuống, mẹ không đủ sữa
vì thế trẻ không chịu bú, quấy khóc khi bú.
Trong hầu hết các trường hợp, theo dõi số lượng
và màu sắc của nước tiểu trong tã và tần số của
nhu động ruột là một chỉ số hiệu quả hơn so với
cảm xúc của mẹ(15). Việc cân trẻ sơ sinh mỗi ngày
ở bệnh viện và mỗi vài ngày sau khi xuất viện có
thể trấn an các bà mẹ và cải thiện sự tự tin của họ
về bú sữa mẹ. Do thực tế hầu hết các bà mẹ trì
hoãn việc khởi đầu cho con bú, cho ăn thức ăn
không phải sữa mẹ trước khi cho trẻ bú mẹ rất
phổ biến và thức ăn này vẫn được tiếp tục bổ

sung vì nghĩ mẹ không đủ sữa, đồng nghĩa với
việc bà mẹ đã không hiểu rõ về sinh lý bài tiết
sữa mẹ. Như vậy, trong chương trình giáo dục
tiền sản nên hướng dẫn cho bà mẹ về sinh lý bài
tiết, bài xuất sữa mẹ và tầm quan trọng của việc
bú mẹ thường xuyên.
Mặt khác, do quảng cáo về sữa công thức trẻ
em một cách rộng rãi mà thiếu kiểm soát nên các
bậc cha mẹ thường tin rằng có rất nhiều lợi ích,
chẳng hạn như sữa công thức rất bổ dưỡng hoặc
thậm chí vượt trội so với sữa mẹ, dẫn đến việc
nhiều bà mẹ xem đó như là thức ăn bổ sung
thêm ngoài sữa mẹ. Thêm vào đó sự tràn lan
không kiểm soát được sản phẩm sữa công thức
dưới dạng quà biếu, hàng dùng thử, có thể do sự
siết chặt quản lý tuân theo nghị định
21/2006/NĐ-CP, nghị định 100/2014/NĐ-CP còn
khá lỏng lẻo nên tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ
hoàn toàn thường là thấp hơn ở bà mẹ nhận
được sữa công thức miễn phí khi ra viện(8), cụ thể
các công ty sữa này có thể dễ dàng phân phát các

229


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

quảng cáo và sản phẩm đến các gia đình và

thuyết phục họ dùng sản phẩm sữa công thức
thay cho việc cho con bú mẹ và từ đó sức khỏe
của trẻ sẽ gặp các nguy cơ(1). Điều này ảnh
hưởng trực tiếp và tiêu cực đối với khoảng thời
gian bà mẹ duy trì cho con bú, đồng thời ảnh
hưởng không nhỏ đến tỷ lệ cho con bú mẹ hoàn
toàn (vì nghe theo quãng cáo của hãng sữa nên
giảm việc cho con bú). Một nghiên cứu được tiến
hành từ năm 1972 đến năm 2000 tại Mỹ chỉ ra
rằng khi các quãng cáo về nuôi trẻ bằng sữa công
thức xuất hiện ngày càng nhiều trên các tạp chí
dành cho cha mẹ thì tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ
hoàn toàn bị giảm(12). Bên cạnh đó, một số lý do
trẻ được cho ăn/uống thức ăn khác ngoài sữa mẹ
được các bà mẹ đề cập đến là sau sinh sữa chưa
xuống nên sẽ không đủ sữa cho con (50%), kết
quả này là thấp hơn so với 62% trẻ được thêm
sữa công thức vì mẹ thiếu sữa, 74% bà mẹ bổ
sung thêm nước vì sợ trẻ khát và 47% là làm sạch
miệng sau khi bú(Error! Reference source not found.).

Các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa
mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất viện
Địa điểm khám thai:
Việc khám thai định kỳ ngoài tác dụng theo
dõi sức khỏe thai nhi, bà mẹ được hướng dẫn
chế độ ăn uống và luyện tập ra sao để cải thiện
cân nặng và giúp thai nhi phát triển trí não tối
ưu nhất, khám thai còn giúp mẹ tầm soát dị tật
thai nhi để có thể đi đến những quyết định đúng

đắn nên hay không nên chấm dứt thai kỳ khi có
những bất thường xảy ra. Mặt khác, đối với
những bà mẹ mang thai nhưng vẫn đang trong
quá trình điều trị bệnh, việc khám thai định kỳ
càng có ý nghĩa.
Chúng tôi ghi nhận số bà mẹ khám thai tại
phòng khám tư nhiều hơn khám tại cơ sở y tế
công, nhưng khi phân tích mối liên quan giữa
địa điểm khám thai với nuôi con bằng sữa mẹ
hoàn toàn tại thời điểm xuất viện lại ghi nhận
những bà mẹ khám thai tại cơ sở y tế cho con bú
mẹ hoàn toàn cao hơn, vì việc lựa chọn khám
thai ở bệnh viện hay phòng khám tư còn tùy

230

thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau của từng
bà thai phụ. Khám thai ở bệnh viện phụ sản với
đầy đủ trang thiết bị, xét nghiệm cần thiết đảm
bảo mẹ và bé được kiểm tra sức khỏe chính xác
nhất có thể, giá cả hợp lý cho cả phần khám, siêu
âm và đặc biệt là bộ phận chăm sóc khách hàng
làm nhiệm vụ tư vấn sức khỏe cho thai phụ,
giúp hiểu rõ hơn các vấn đề khi mang thai cũng
như tư vấn về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn.

Nhân viên y tế giúp mẹ cho trẻ bú và gia đình
giúp đỡ mẹ cho trẻ bú:
Bú mẹ hoàn toàn là một trong những chỉ số
quan trọng để đánh giá chất lượng chăm sóc y tế

của môt quốc gia. Các tổ chức y tế trên thế giới
đều khuyên bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng và tiếp
tục cho bú mẹ đến 24 tháng tuổi(5, 14). Để có thể
cho con bú mẹ hoàn toàn đúng cách, bà mẹ cần
được sự hỗ trợ từ gia đình, xã hội và quan trọng
là vai trò của nhân viên y tế trong việc hướng
dẫn về kiến thức và thực hành, đặc biệt là sự tư
vấn và hỗ trợ của nhân viên y tế những ngày
đầu sau sinh góp phần giúp bà mẹ hiểu và cho
con bú mẹ thành công(4).
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận bà mẹ
được sự giúp đỡ của nhân viên y tế thì cho bú
mẹ hoàn toàn những ngày đầu hậu sản cao
hơn những bà mẹ không nhận được sự giúp
đỡ này. Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy
sự hỗ trợ của nhân viên y tế và hướng dẫn cho
con bú mẹ một cách đúng đắn giúp cải thiện
về kiến thức, thực hành đúng cách và làm gia
tăng tỷ lệ cho con bú mẹ hoàn toàn và tăng
thời gian trẻ được bú mẹ(6).
Vai trò của gia đình cũng góp phần vào
thành công của bú mẹ hoàn toàn. Quyết định
của bà mẹ thường bị ảnh hưởng bởi thái độ và ý
kiến của người thân trong gia đình đối với việc
cho con bú mẹ hoàn toàn. Nhiều nghiên cứu cho
thấy thái độ của những người trong gia đình
cũng tác động đến việc ngừng hay tiếp tục bú
mẹ(6, 7). Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, chúng
tôi ghi nhận trong những ngày đầu hậu sản, bà
mẹ có được sự giúp đỡ từ gia đình lại cho con bú


Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
mẹ hoàn toàn ít hơn, điều này có thể lý giải
ngoài nhân viên y tế, gia đình và bạn bè cũng có
tác động rất lớn đến việc thực hành bú mẹ. Các
người mẹ, người chị thường chia sẻ kinh nghiệm
nuôi con cho các bà mẹ, những kinh nghiệm này
có thể đúng hoặc sai. Thực tế cho thấy tỷ lệ nuôi
con bằng sữa mẹ hoàn toàn là thấp, đây là ảnh
hưởng từ phong tục tập quán, những thói quen
từ thế hệ trước, thường gặp là cho trẻ bú thêm
sữa công thức vì sợ bé đói, và cho bé uống nước
chín, cứ như vậy mà những thói quen sai lầm cứ
thế duy trì từ thế hệ này qua thế hệ khác. Điều
này khẳng định thêm một lần nữa về vai trò của
nhân viên y tế và gia đình trong việc hỗ trợ bà
mẹ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

4.

5.


6.

7.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

8.

Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại
thời điểm xuất viện là 46%.

9.

Các yếu tố liên quan đến tăng tỷ lệ nuôi con
bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất viện là
bà mẹ khám thai ở cơ sở y tế công, bà mẹ được
nhân viên y tế giúp đỡ, với giảm tỷ lệ nuôi con
bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất viện là
bà mẹ được gia đình giúp đỡ cho trẻ bú trong
thời gian nằm viện.

10.

11.

Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại
thời điểm xuất viện khá thấp, dự báo tỷ lệ
nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm
6 tháng sẽ không cao. Nhiều biện pháp tích
cực hơn cần được thực hiện để nâng cao tỷ lệ

trẻ được bú mẹ hoàn toàn tại địa phương cũng
như tại Việt Nam nhằm mang lại những lợi
ích bền vững và lâu dài cho trẻ.

12.

Cảm ơn: Nhóm nghiên cứu chúng tôi xin chân thành
cảm ơn Bác sĩ CKII Nguyễn Hữu Dự - Giám đốc Bệnh
viện Phụ Sản thành phố Cần Thơ đã tạo điều kiện cho
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này. Chúng tôi cũng xin
cảm ơn Bác sĩ Đoàn Văn Hòa, CNĐD Nguyễn Hồng
Như Phượng, ĐD Trần Thị Thu Hương (khoa sơ sinh –
bệnh viện Phụ Sản thành phố Cần Thơ) đã giúp đỡ
chúng tôi trong quá trình thu thập số liệu.

15.

Nhi Khoa

Nghiên cứu Y học

13.

14.

Alison S (2009), "The risks of not breastfeeding for mothers
and infants". Rev Obstet Gynecol, 2(4), pp.222-231.
Alive & Thrive (2012), "Báo cáo điều tra ban đầu: báo cáo tóm
tắt điều tra 11 tỉnh". Hà Nội, Việt Nam: Alive & Thrive.
Alive & Thrive, Bộ Y tế, UNICEF (2012), "Chính sách Pháp

luật nhằm bảo về việc Nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam".
tr.1-4.
Begum K, Dewey KG (2010), "Impact of early initiation of
exclusive breastfeeding on newborn deaths". A&T Technical
Brief(1), pp.1-6.
Berthold K, Susan B, Geoff C, et al (2005), "Global standard for
the composition of infant formula: recommendations of an
ESPGHAN coordinated international expert group". J Pediatr
Gastroenterol Nutr, 41(5), pp.584-599.
Britton C, McCormick F, Renfrew M, Wade A, King SE (2007),
"Support for breastfeeding mothers (Review)". Cochrane
Database Syst Rev, 1, pp.CD001141.
Cynthia AM, Amy JH, Sheila WM, Suzanne CT (2013),
"Maternal
perceptions
of
partnersupport
during
breastfeeding". Int Breastfeed J, 8 (1), pp.1.
Deborah LK, Kristina MG (2008), "Marketing breastfeeding—
reversing corporate influence on infant feeding practices".
Journal of Urban Health, 85(4), pp.486-504.
Haoyue G, Qi W, Elizabeth H, Wolfgang S, Caroline S, Hans
KB, Veronika S (2016), "Breastfeeding practices on postnatal
wards in urban and rural areas of the Deyang region, Sichuan
province of China". Int Breastfeed J, 11, pp.11.
Huỳnh Văn Tú (2010), "Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ
trong thời gian nằm viện sau sinh tại Bệnh viện Phụ sản-Nhi
bán công Bình Dương". Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh,
14(2), tr.366-370.

Katherine AF, Brian GS (2006), "Infant feeding and the media:
the relationship between Parents' Magazine content and
breastfeeding, 1972-2000". Int Breastfeed J, 1, pp.10.
Liqian Q, Yun Z, Colin WB, Andy HL, Xing X (2009),
"Initiation of breastfeeding and prevalence of exclusive
breastfeeding at hospital discharge in urban, suburban and
rural areas of Zhejiang China". Int Breastfeed J, 4, pp.1.
Viện Dinh dưỡng, UNICEF, Alive & Thrive (2014), "Đồng
Bằng Sông Cửu Long: thông tin giám sát dinh dưỡng năm
2013". NXB Hà Nội, tr.29-34.
World Health Organization (2009), The physiologycal basis of
breastfeeding. Infant and Young Child Feeding: Model Chapter for
Textbooks for Medical Students and Allied Health Professionals,
pp.9-17.
Zixin L, Guo Z, Lujiao H, Yu W, Lan Z, Katherine FK
(2014), "Maternal reported indicators and causes of insufficient
milk supply". J Hum Lact, 30(4), pp.466-473; quiz 511-462.

Ngày nhận bài báo:

24/11/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

17/12/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/03/2017


231



×