CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khát quát về Ngân hàng Thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại
NHTM được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở các nước khác nhau trên thế giới. Ở
một số nước thì khái niệm này được hiểu là các tổ chức tài chính tiền tệ mà hoạt động kinh
doanh chủ yếu của nó là nhận tiền gửi trong dân cư sau đó cho các tổ chức kinh tế khác vay
lại để sản xuất kinh doanh hoặc cho những hộ gia đình vay với mục đích tiêu dùng; Các
Ngân hàng không được phép kinh doanh tổng hợp các dịch vụ khác như đầu tư tài chính,
cung cấp dịch vụ cho các nhóm nghề riêng biệt. Trong khi đó ở một số nước khác cho rằng
NHTM có thể kinh doanh tổng hợp các dịch vụ như buôn bán vàng bạc, hành nghề thương
mại và giá trị địa ốc…
Ở Việt Nam, tại khoản 7, điều 20 Luật các Tổ Chức Tín dụng được sửa đổi, bổ sung
năm 2004 có quy định: “Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
Ngân hàng với nội dung thương xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Trên thực tế, các NHTM ở nước ta ngoài việc thực hiện các hoạt động ghi trong luật
nêu trên thì còn phải thực hiện các hoạt động khác phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế,
xã hội thực hiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là cho vay để khuyến khích phát
triển một số thành phần kinh tế, ưu đãi đối với một số dự án và đối tượng đặc biệt…
Do đó, ở Việt Nam các NHTM thường được hiểu như một Ngân hàng thực hiện các
dịch vụ tổng hợp về kinh doanh tiền tệ như nhận tiền gửi của khách hàng để cho vay, cung
cấp lại vốn đầu tư,… chịu sự chỉ đạo, định hướng và giám sát chặt chẽ của Nhà nước.
1.1.2. Bản chất của NHTM
NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế, hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Bản chất của NHTM thể hiện qua các khía cạnh sau:
NHTM là một loại hình doanh nghiệp và là một đơn vị kinh tế: NHTM hoạt động trong
một ngành kinh tế, có cơ cấu tổ chức bộ máy như một doanh nghiệp, bình đẳng trong quan
hệ kinh tế với các doanh nghiệp khác, phải tự chủ về kinh tế và phải có nghĩa vụ đóng thuế
cho Nhà nước như các đơn vị khác.
Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh. Vì vậy, các NHTM phải có vốn,
phải tự chủ về tài chính, hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận trên cơ sở chấp hành pháp luật
của Nhà nước. Đồng thời, hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền
tệ và dịch vụ ngân hàng, góp phần cung ứng một khối lượng vốn tín dụng rất lớn cho nền
kinh tế.
1.1.3. Chức năng của Ngân hàng Thường mại
Trung gian tài chính
Trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại hai loại tổ chức, cá nhân như sau: Một là những
người tạm thời thâm hụt chi tiêu hoặc có nhu cầu tiêu dùng mà chưa có tiền, tức là nhu cầu
về tiêu dùng và đầu tư của họ vượt quá mức thu nhập hiện tại. Thứ hai là những cá nhân
hoặc tổ chức có thu nhập lớn hơn mức chi tiêu của họ, còn gọi là thặng dư trong chi tiêu.
Nhóm thứ nhất có nhu cầu vay một khoản tiền trong hiện tại để bù đắp thâm hụt, tất nhiên
họ sẽ chi trả trong tương lai. Còn nhóm thứ hai muốn số tiền tiết kiệm của mình được bảo
vệ an toàn và nhất là có khả năng sinh lãi. Hai nhóm người này sẽ đạt được lợi ích tối đa
nếu họ gặp được nhau, quan hệ của họ khi đó gọi là quan hệ Tài chính trực tiếp.
Nhưng những giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, không gian, thời gian…đã
ngăn cản họ.
NHTM ra đời, nhờ khả năng thẩm định thông tin tốt và lợi thế về quy mô, NHTM
hút tiết kiệm từ nhóm thứ hai cho nhóm thứ nhất - những người đảm bảo được khả năng trả
nợ vay. Người đi vay phải trả cho Ngân hàng chi phí sử dụng tiền vay, gọi là lãi suất vay
tính trên tổng số tiền vay, ngược lại thì Ngân hàng phải trả cho người gửi tiền một khoản
lợi nhuận gọi là lãi suất tiết kiệm đề bù đắp cho sự hy sinh không tiêu dùng trong hiện tại
mà cho Ngân hàng tại thời sử dụng. Lãi suất vay bao giờ cũng lớn hơn lãi suất huy động,
sau khi trừ những chi phí thì phần chênh lệch còn lại là thu nhập của Ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh của NHTM dựa trên hai nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi tiết
kiệm và cho vay còn được gọi là kinh doanh rủi ro. Ngân hàng luôn đảm bảo chi trả cho
khách hàng gửi tiền đúng kỳ hạn và đủ cả gốc lẫn lãi. Mặt khác những món cho vay của
Ngân hàng thì có rủi ro cao hơn do khả năng trả nợ của khách hàng thường ẩn chứa yếu tố
bất trắc. Với nguyên tắc rủi ro càng lớn, lợi nhuận càng cao, Ngân hàng sẽ sử dụng khả
năng thẩm định thông tin của mình cân băng giữa lợi nhuận và rủi ro để đem về cho mình
một kết quả kinh doanh tốt nhất.
Chức năng tiền ghi sổ
Quá trình tạo bút tệ của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và
thanh toán trong hệ thống Ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống Ngân hàng
Trung Ương (NHTW) của mỗi nước. Đó là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một
Ngân hàng thành một khoản tiền lớn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng
thanh toán qua nhiều Ngân hàng. NHTM tạo được bút tệ xuất phát từ NHTW. Nếu không
có sự ràng buộc nào thì khả năng tạo bút tệ là vô hạn, tuy nhiên dưới sự kiểm soát của
NHTW thì NHTM chỉ tạo bút tệ trong giới hạn nhất định.
Trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán
Thực hiện chức năng thanh toán, NHTM cung cấp các phương tiện thanh toán cho
nên kinh tế, tiết kiệm chi phí lưu thông và nâng cao khả năng tín dụng.
Thay vì phải thanh toán hàng hoá, dịch vụ trực tiếp bằng tiền mặt, giờ đây khách chỉ
cần mở tài khoản, Ngân hàng sẽ thừa lệnh của khách hàng thực hiện toàn bộ các nghiệp vụ
ngân quỹ và thanh toán cho khách hàng thông qua nhiều hình thức như chuyển khoản, séc,
Uỷ nhiệm chi, Uỷ nhiệm thu, thư tín dung L/C, các loại thẻ thanh toán khác….Khi sử dụng
các phương tiện thanh toán này, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí lao
động, thời gian, lại an toàn. Đồng thời, hệ thống NHTM lại tích tụ được một số vốn lớn để
mở rộng khả năng tín dụng.
Để thực hiện tốt chức năng là một trung gian thanh toán, Ngân hàng đầu tiên phải
đầu tư vào yếu tố cống nghệ, chuẩn hoá quy trình thanh toán và cần thiết phải có một sự kết
nối giữa các Ngân hàng trên toàn hệ thống. Hiện nay, nhiều trung tâm thanh toán bù trừ
quốc tế đã ra đời làm gia tăng hiệu quả thanh toán qua Ngân hàng, khách hàng dù ở bất kỳ
đâu trên thế giới đều có thề sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt này.
Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế
Một trong những chức năng quan trọng nhất do các Ngân hàng thực hiện trong việc
tham gia vào nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế là tài trợ xuất nhập khẩu và nền thương mại
giữa các quốc gia. Ngày nay, khi tài trợ thành một phần không thể thiếu đối với nhiều giao
dịch thương mại, các Ngân hàng đã phát triển các dịch vụ này từ việc tài trợ các hợp đồng
thương mại riêng biệt đến cung cấp các giải pháp tổng hợp đối với các nhu cầu thương mại.
Điều này bao gồm sự kết hợp việc cho vay của Ngân hàng với các nguồn tài trợ từ các cơ
quan xuất khẩu của Chính phủ, công ty thuê mua tài chính quốc tế và các nguồn tài trợ phi
Ngân hàng khác, cùng với bảo hiểm rủi ro chính trị và kinh tế
Cung cấp các dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, NHTM có những điều
kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp. Với những
điều kiện đó, Ngân hàng có thể thực hiện việc tư vấn về tài chính và đầu tư cho các doanh
nghiệp, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu bảo đảm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi
phí.
Và ngoài ra, NHTM còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác như: Dịch vụ
bảo quản an toàn vật có giá của khách hàng, dịch vụ cho thuê két sắt, dịch vụ tín thác hoặc
uỷ thác Ngân hàng…
1.2. Tổng quan về hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại NHTM
1.2.1. Khái niệm về hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
Thanh toán KDTM là cách thức thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ không có sự xuất
hiện của tiền mặt mà được tiến hành bằng cách trích từ tài khoản của người chi trả chuyển
vào tài khoản của người thụ hưởng hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung
gian của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. (Giáo trình kế toán ngân hàng của TS
Nguyễn Thị Thu Hương).
Như vậy, xét về góc độ kế toán thì kế toán nghiệp vụ thanh toán KDTM là thực hiện
các bút toán bằng đồng tiền ghi sổ hay bút tệ.
1.2.2. Đặc điểm của thanh toán không dùng tiền mặt
Trong thanh toán qua Ngân hàng sự vận động của vật tư hàng hoá độc lập với sự
vận động của tiền tệ cả về thời gian lẫn không gian.
Trong thanh toán KDTM, vật trung gian trao đổi (tiền mặt) không xuất hiện như
trong thanh toán tiền mặt theo kiểu hàng - tiền – hàng, mà chỉ xuất hiện dưới hình thức tiền
tệ kế toán và được ghi chép trên các chứng từ sổ sách.
Mỗi bên tham gia thanh toán phải mở tài khoản tại ngân hàng. Do việc mở tài khoản
tại ngân hàng nên ngân hàng là người quản lý các tài khoản tiền gửi của các cá nhân, tổ
chức. Đồng thời ngân hàng có vai trò là người thực hiện và là người kết thúc quá trình
thanh toán.
Trong thanh toán KDTM, ngoài chủ thể chịu trách nhiệm thanh toán và chủ thể được
hưởng, còn có sự tham gia của ít nhất là một ngân hàng. Quá trình thanh toán KDTM được
diễn ra tại ngân hàng nên ngân hàng có vai trò to lớn không thể “vắng mặt” vì ngân hàng
vừa là người thực hiện các khoản thanh toán.
1.2.3. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
Chức năng thanh toán của tiền tệ với nhiều mô thức ngày càng đa dạng. Sự nhanh
chóng, tiện ích, an toàn, hiệu quả của thanh toán sẽ đẩy nhanh việc tập trung và phân phối
các dòng vốn trong nền kinh tế và xã hội, cung ứng vốn cho nền kinh tế phát triển. Đã đến
lúc điều hành chính sách tài chính, tiền tệ phải thông qua màn hình thanh toán quốc gia, với
những phương tiện, kỹ thuật công nghệ thanh toán hiện đại, hạn chế việc sử dụng tiền mặt
trong lưu thông. Hình thức thanh toán KDTM đã phổ biến ở nhiều quốc gia có nền kinh tế
phát triển và đã chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình:
Thứ nhất, thanh toán KDTM sẽ đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
Bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doang nào cũng cần cố vốn, và nếu dòng vốn luân
chuyển càng nhanh thì việc sản xuất kinh doanh diễn ra càng liên tục và thuận lợi, mang lại
hiệu qua cao. Thanh toán KDTM được thực hiện dựa trên việc áp dụng công nghệ tin học
hiện đại, thông qua việc bù trừ các tài khoản tại ngân hàng, do đó tạo điều kiện nhanh
chóng cho việc giao dịch, chu chuyển vốn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của đồng vốn
trong nền kinh tế.
Thứ hai, thanh toán KDTM góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt. Nếu
không sử dụng tiền mặt để giao dịch thì sẽ tiết kiệm được chi phí phát sinh do việc in ấn,
vận chuyển, phát hành, bảo quản tiền.
Thứ ba, muốn sử dụng hình thức thanh toán KDTM thì nhất thiết mỗi chủ thể phải
mở cho mình một tài khoản riêng với số dư nhất định trong tài khoản tại ngân hàng, và qua
đó đã tạo ra một lượng tiền gửi trong ngân hàng. Do đó Ngân hàng luôn huy động được
một lượng vốn nhất định từ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán mà khách hàng chưa
sử dụng đến.
Thứ tư, thông qua việc thực hiện các giao dịch thanh toán cho khách hàng, ngân
hàng sẽ thu được một khoản lợi nhuận từ việc thu phí thực hiện dịch vụ.
Thứ năm, thanh toán KDTM còn có vai trò nổi bật so với thanh toán dùng tiền mặt,
đó là việc hạn chế những rủi ro gặp phải trong lưu thông. Chẳng hạn người bán hàng chỉ
cầm tờ séc của người mua phát hành tới Ngân hàng phục vụ mình hoặc Ngân hàng phục vụ
người phát hành thì Ngân hàng sẽ trích Nợ tài khoản của người phát hành séc nếu tờ séc đó
hợp lệ, hợp pháp. Không may trong thời gian chưa nộp séc (séc vẫn còn thời hạn) mà bị
mất thì tài sản của họ vẫn được đảm bảo không bị mất nếu khách hàng thông báo việc mất
séc với Ngân hàng mình kịp thời.
Xét về mặt vĩ mô, thanh toán KDTM còn tạo điều kiện cho Nhà nước quản lý, kiểm
soát về mặt tài chính, tiền tệ trong xã hội được dễ dàng. Với những thông tin so Ngân hàng
cung cấp, Nhà nước nắm bắt được chính xác hơn lượng tiền lưu thông trong xã hội, từ đó
có những chính sách, kế hoạch điều hoà, ổn định giá trị của đồng tiền.
Rõ ràng, thanh toán KDTM giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Muốn đáp
ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế thì đẩy mạnh từng bước công tác thanh toán
KDTM và đi kèm với nó là các nghiệp vụ kế toán phản ánh quá trình thanh toán đó phải trở
nên hoàn thiện, đầy đủ, kịp thời và chính xác.
1.2.4. Các nguyên tắc trong thanh toán không dùng tiền mặt
Các chủ thể tham gia thanh toán (kể cả pháp nhân và thế nhân) đều phải mở tài
khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và được quyền lựa chọn tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán để mở tài khoản.