Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.53 KB, 21 trang )

Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm về lợi nhuận
Từ lâu lợi nhuận đã được nhiều trường phái tham gia nghiên cứu, tranh
luận và đưa ra các học thuyết kinh tế từ những ngày đầu khi hoạt động sản xuất,
mua bán hàng hóa diễn ra.
Người đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu một cách khoa học về
học thuyết kinh tế là Adam Smith. Ông là nhà kinh tế học cổ điển đầu tiên
nghiên cứu một cách toàn diện về bản chất, nguồn gốc của lợi nhuận. Ông xuất
phát từ quan điểm giá trị trao đổi của mọi hàng hóa là do lao động sản xuất ra
hàng hóa đó quyết định.Từ đó đặt nền tảng cho nền kinh tế thị trường. Ông cho
rằng chất lượng của lao động chi phí cho việc sản xuất một sản phẩm nào đó
càng lớn thì giá trị và giá trị trao đổi cũng càng lớn. Ông bác bỏ quan điểm giá
trị trao đổi được quyết định bởi tính hữu dụng của hàng hóa. Theo ông, lợi
nhuận tư bản được tạo ra trong quá trình sản xuất là hình thái biểu hiện khác của
giá trị thặng dư, tức phần giá trị lao động không được trả công tạo ra. Ông định
nghĩa: “ Lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao
động.” (khoản khấu trừ thứ nhất là địa tô).
Ông còn cho rằng lợi nhuận không chỉ có ở lao động nông nghiệp mà cả
lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận. Nhà tư bản tiền tệ cho nhà tư bản
sản xuất vay vốn, nhận được lợi tức cho vay. Đó cũng là biểu hiện khác của lợi
nhuận đã được tạo ra trong sản xuất. Mặc dù còn một số sai lầm trong lí luận
của mình, Ông cũng chỉ ra rằng: nguồn gốc thực sự cho giá trị thặng dư là do
lao động tạo ra, còn lợi nhuận, địa tô, lợi tức chỉ là biến thể, là hình thái khác
của giá trị thặng dư mà thôi.
Người kế tục và phát triển học thuyết kinh tế của Adam Smith là David
Ricardo. Ông khẳng định: lao động là nguồn gốc của giá trị và giá trị hàng hóa,
sản phẩm lao động được phân thành: tiền lương, địa tô, lợi nhuận. Cũng như
Adam Smith, ông cho rằng giá trị do công nhân tạo ra là lớn hơn so với tiền
công mà họ được nhận. Ông khẳng định: “Lợi nhuận chính là phần giá trị lao
động thừa ra ngoài tiền công, lợi nhuận là lao động không được trả công của


công nhân”.
Kế thừa những nguyên lý đúng đắn và khoa học của các nhà tiền bối,
người nghiên cứu toàn diện và triệt để nhất về nguồn gốc, bản chất của lợi
nhuận kinh doanh tư bản chủ nghĩa là Các Mác. Ông khẳng định: “Nguồn gốc
lợi nhuận là do lao động làm thuê tạo ra, về bản chất, lợi nhuận là hình thức
biểu hiện của giá trị thặng dư, là kết quả của lao động không được trả công do
tư bản chiếm lấy, là mối quan hệ bóc lột, nô dịch người lao động trong xã hội
TBCN”.
Các Mác đã phân tích tất cả các khía cạnh khác nhau của lợi nhuận, sự
hình thành, vận động của qui luật bình quân, xuyên qua các quan hệ kinh tế là
các quan hệ chính trị - xã hội của phạm trù lợi nhuận.
Đứng trên giác độ là nhà quản lý: Lợi nhuận của doanh nghiệp là chỉ tiêu
tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nó là khoản chênh lệch giữa các khoản thu nhập thu được và các
khoản chi phí đã bỏ ra để đạt được thu nhập đó trong một thời gian nhất định.
1.1.2. Kết cấu của lợi nhuận
Trong nền kinh tế thị trường với nhiều loại hình doanh nghiệp, đa dạng về lĩnh vực đầu tư kinh doanh,
phạm vi hoạt động kinh doanh được mở rộng. Do đó, lợi nhuận thu được cũng đa dạng theo phương thức đầu tư
của doanh nghiệp. Kết cấu của Lợi nhuận doanh nghiệp bao gồm:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa – dịch vụ
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
- Lợi nhuận từ hoạt động khác.
Trong lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa- dịch vụ gồm
lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính và lợi nhuận thu
được từ hoạt động sản xuất kinh doanh phụ. Đối với các doanh nghiệp thương
mại thì lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính là: theo sự
phân công lao động xã hội chức năng chủ yếu của DNTM là mua bán, trao đổi
hàng hóa, cung cấp các dịch vụ nhằm đưa hàng hóa từ sản xuất tới tiêu dùng.
Như vậy, vai trò chủ yếu của DNTM là tổ chức lưu chuyển hàng hóa. Lợi nhuận
thu được chủ yếu từ hoạt động kinh doanh chính được hình thành từ việc thực

hiện chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Doanh nghiệp. Nó chiếm tỉ trọng lớn
nhất trong tổng lợi nhuận DNTM.
Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh phụ là lợi nhuận doanh nghiệp đạt được ngoài
chức năng, nhiệm vụ chính của Doanh nghiệp.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
các doanh nghiệp còn có thể tham gia vào hoạt động tài chính. Hoạt động tài
chính là hoạt động liên quan đến việc đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp như:
Góp vốn liên doanh liên kết, góp cổ đông, hoạt động mua bán tín phiếu, cổ
phiếu, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi và các lãi cho vay thuộc nguồn vốn kinh
doanh… Các khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động này góp phần làm tăng
tổng lợi nhuận cho Doanh nghiệp.
Lợi nhuận từ hoạt động khác: Là các khoản lãi thu được từ các hoạt động
riêng biệt khác ngoài những hoạt động nêu trên, những khoản lãi này phát sinh
không thường xuyên, Doanh nghiệp không dự kiến trước hoặc có dự kiến nhưng
ít có khả năng thực hiện. Lợi nhuận từ các hoạt động này gồm: các khoản phải
trả không có chủ nợ, thu hồi các khoản nợ khó đòi được duyệt bỏ, thu được từ
nhượng bán thanh lý tài sản cố định, tiền được phạt, được bồi thường.
Như vậy, tổng lợi nhuận của doanh nghiệp được cấu thành bởi lợi nhuận
từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa – dịch vụ, tài chính và lợi nhuận từ
hoạt động khác.
1.1.3. Vai trò của lợi nhuận
Hiện nay, trong các chỉ tiêu mà doanh nghiệp muốn đạt được thì lợi
nhuận là mục tiêu quan trọng nhất và là mục tiêu cuối cùng của doanh
nghiệp. Lợi nhuận có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định không những đến
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đến đời sống người lao động... mà
còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước.
Lợi nhuận vừa là mục tiêu vừa là động lực, là điều kiện để doanh nghiệp
tồn tại và phát triển. Hoạt động kinh doanh của Doang nghiệp trong nền kinh tế
thị trường là nhằm đạt được lợi nhuận trong khuôn khổ của Pháp luật. Trong
quá trình kinh doanh, Doanh nghiệp cố gắng xây dựng những kế hoạch, tìm ra

phương án và con đường riêng, tối ưu nhất để có thể thỏa mãn một cách tối ưu
nhu cầu của thị trường để từ đó đạt được lợi nhuận tối đa. Doanh nghiệp làm
ăn có lợi nhuận là tiền đề cho sự phát triển của doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp có lợi nhuận thì mới tồn tại, mua sắm thêm và cải thiện cơ sở vật chất,
kĩ thuật nâng cao khả năng cung cấp hàng hóa và cải tiến sản phẩm. Thêm
vào đó dần dần có thể mở rộng qui mô kinh doanh. Nâng cao đời sống cho
người lao động, giúp họ yên tâm làm việc, cống hiến cho sự phát triển của
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và đứng vững trong
các cuộc cạnh tranh khốc liệt của thị trường.
Đối với doanh nghiệp, việc thực hiện tốt lợi nhuận là điều kiện quan
trọng để đảm bảo cho tình hình tài chính doanh nghiệp được vững chắc, lợi
nhuận cao hay thấp ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán, khả năng chi
trả của doanh nghiệp. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào trong quá trình sản
xuất kinh doanh đạt được lợi nhuận cao, đều đặn và tiếp tục gia tăng thì có
nghĩa là tình hình sản xuất tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ là tốt. Trên cơ
sở đó doanh nghiệp trang trải được những khoản chi phí đã bỏ ra, nhanh chóng
thanh toán các khoản lãi tiền vay kinh doanh…
Đối với nền kinh tế: lợi nhuận là nguồn tích lũy cơ bản để tái sản xuất mở
rộng nền kinh tế xã hội. Khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lợi nhuận
cũng có nghĩa là nguồn thu ngân sách của Nhà nước cũng được tăng lên thể
hiện ở thuế thu nhập doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu tích lũy vốn để thực hiện
quá trình đầu tư phát triển kinh tế theo các chức năng của Nhà nước. Từ các
nguồn thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, Nhà nước mới có kinh
phí để xây dựng các công trình phúc lợi, cơ sở hạ tầng… thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển, tạo công ăn việc làm cho người lao động, làm giảm tỉ lệ thất
nghiệp trong xã hội.
Đối với người lao động thì họ mong muốn có được mức tiền lương cao
nhất có thể để cải thiện đời sống. Và khi doanh nghiệp hoạt động có lợi nhuận
cao, bền vững thì thu nhập của người lao động mới được đảm bảo có thể trang
trải được các chi phí bản thân và gia đình, nhằm tái sản xuất sức lao động và có

tích lũy. Thu nhập ổn định và cao là động lực để người lao động tận tụy làm
việc, cống hiến hết mình cho doanh nghiệp. Như vậy, lợi nhuận cũng góp phần
làm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. Ngoài ra, lợi
nhuận tăng còn đồng nghĩa với việc tăng thêm các quĩ trong đó có quĩ khen
thưởng và phúc lợi từ đó lợi ích của người lao động cũng được tăng thêm. Khi
doanh nghiệp có lợi nhuận chứng tỏ doanh nghiệp đó đang hoạt động có hiệu
quả, sử dụng vốn kinh doanh hợp lý và khả năng lãnh đạo cũng như trình độ của
cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Tóm lại: Qua một số điểm đã nêu, ta thấy được vai trò quan trọng của lợi nhuận trong doanh nghiệp.
Nó không những là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển mà nhờ nó uy tín, thế lực của doanh nghiệp
ngày càng được củng cố và phát triển. Hơn thế nữa, lợi nhuận còn có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân bởi lợi ích mỗi doanh nghiệp luôn gắn liền với lợi ích của nhà nước, của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2. Các phương pháp xác định lợi nhuận
1.2.1. Xác định theo số tuyệt đối
Khi nền kinh tế thị trường mở ra thì các hoạt động kinh doanh cũng rất đa
dạng và phong phú. Mỗi doanh nghiệp tự tìm cho mình một lĩnh vực đầu tư
khác nhau sao cho vốn đầu tư có hiệu quả nhất. Do đó, lợi nhuận thu được của
doanh nghiệp cũng phong phú và đa dạng theo phương thức đầu tư mà họ đã
chọn cụ thể là:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
- Lợi nhuận từ hoạt động khác.
1.2.1.1. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa-dịch vụ.
Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ: Là
khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và giá thành toàn bộ của sản phẩm
hàng hóa dịch vụ đã tiêu thụ trong năm tài chính của doanh nghiệp. Đây là
phần lợi nhuận chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận của doanh
nghiệp.
a. Xác định doanh thu
Doanh thu = Σ Doanh thu ghi trên - Các khoản

thuần hóa đơn bán hàng giảm trừ doanh thu.
Trong đó:
* Tổng doanh thu: Là toàn bộ tiền bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên
thị trường, tiền thu từ phần trợ giá của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp
hàng hoá, dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước. Các hàng hoá, dịch vụ đem tặng,
cho, biếu hoặc tiêu dùng trong nội bộ doanh nghiệp cũng phải được hạch toán
để xác định doanh thu. Thời điểm để xác định doanh thu là khi người mua đã
chấp nhận thanh toán không phụ thuộc đã thu tiền hàng hay chưa.
* Các khoản giảm trừ bao gồm: Giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu (nếu có).
+ Giảm giá hàng bán: Là các khoản giảm giá hoặc hối khấu sau khi bán
hàng vì những lý do như: Hàng kém phẩm chất, sai quy cách theo hợp đồng, ưu
đãi cho khách hàng mua với số lượng lớn…
+ Giá trị hàng bán bị trả lại: Là giá trị của hàng hoá và dịch vụ đã tiêu thụ
bị khách hàng trả lại do vi phạm cam kết, vi phạm hợp đồng kinh tế, hàng kém
phẩm chất…
* Phần còn lại của doanh thu bán hàng thuần sau khi đã trừ đi giá vốn
hàng bán gọi là lợi nhuận gộp còn phải bù đắp những chi phí chưa được tính
vào trị giá vốn hàng bán đó là: Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp, phần còn lại là kết quả bán hàng hay lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
b. Xác định giá vốn hàng bán.
Giá vốn hàng bán được xác định như sau:
+ Đối với doanh nghiệp sản xuất:
Giá vốn
hàng bán
=
Giá thành sản
xuất
+

CPBH phân bổ cho
lượng hàng hoá tiêu
thụ
+
CPQL phân bổ
cho lượng hàng
hoá tiêu thụ
+ Đối với doanh nghiệp thương mại:
Giá vốn
hàng bán
=
Giá vốn hàng
mua
+
CPBH phân bổ cho
lượng hàng hoá tiêu
thụ
+
CPQL phân bổ
cho lượng hàng
hoá tiêu thụ
- Giá thành sản xuất sản phẩm dịch vụ gồm các khoản chi phí sau:
+ Chi phí vật tư trực tiếp: Gồm các chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp,
nhiên liệu tiêu dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm cảu Doanh nghiệp.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm các khoản phải trả cho người lao
động trực tiếp sản xuất như: Tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính
chất lương, chi ăn ca, chi BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản
xuất.
+ Chi phí sản xuất chung: Gồm các khoản chi phí chung phát sinh ở phân
xưởng, khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền

khác ngoài chi phí kể trên.
- Chi phí bán hàng: là những khoản chi phí phát sinh trong quá trình tiêu
thụ sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong kỳ, nó bao gồm: Chi phí vật liệu bao bì,
khấu hao TSCĐ, lương, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng, chi
phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác như chi phí bảo hành sản
phẩm, chi phí quảng cáo, tiếp thị, hoa hồng đại lý. Chi phí bán hàng phát sinh
trong một thời kỳ kinh doanh có thể phân bổ dần cho nhiều kỳ kinh doanh đảm
bảo phản ánh đúng tình hình lợi nhuận đơn vị của doanh nghiệp trong một kỳ
kinh doanh.
- Chi phí Quản lý doanh nghiệp: Là những khoản chi phí có liên quan đến
việc tổ chức quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là những chi
phí cho bộ phận gián tiếp trong doanh nghiệp. Trong điều kiện bình thường,
những khoản chi phí này tương đối ổn định qua các kỳ kinh doanh. Để phản ánh
đúng quá trình hạch toán lợi nhuận, chi phí này cũng được phân bổ tương xứng
với lượng hàng hóa tiêu thụ.
Vậy lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ được xác
định bởi công thức sau:
Lợi nhuận Doanh Giá Chi phí Chi phí quản

×