Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN GIẦY CẨM BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.66 KB, 21 trang )

1
Chuyên Đề tốt nghiệp
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG
TY CỔ PHẦN GIẦY CẨM BÌNH
\I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DA GIẦY VÀ CỦA
CÔNG TY GIẦY CẨM BÌNH.
1. Định hướng của ngành da giầy Việt Nam đến năm 2010.
Trước khi Đông Âu tan rã thị trường truyền thống của ngành da giầy Việt
Nam là các nước đông âu và Liên Xô cũ với các sản phẩm như: Mũi Giầy,
đồ giả da, đồ gia ... được sản xuất với số lượng lớn, yêu cầu chất lượng cao,
mẫu mã phù hợp, giản đơn. Sau khio Đông Âu tan vỡ thị trường giầy da
việt Nam rơei vào tình trạng khó khăn, và phải tự tìn hướng đi riêng cho
mình, tuy nhiên nhờ có chính sách khuyến khích của nhà nước, ngành da
giầy trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, sản phẩm xuất khẩu
chủ yếu vào các nước phát triển như: thị trường Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật...
Hiệp họi da giầy Việt Nam dự báo năm 2010 ngành da giầy đạt 4,7 tỷ USD.
Riêng nhón hàng Giầy dép đã có mặt trên hơn 40 nước trên thế giới. Tại EU
sản phẩm của việt Nam chhỉ đứng sau Trung Quốc. Song về mặt xuất khẩu
chi phí sản xuất, chi phí lưu thông thấp do đó giá sản phẩm da giầy Việt
Nam tương đối rẻ, có thể cạnh tranh về giá với sản phẩm của các nước
khác.
Là một ngành mới phát triển nhưng da giầy Việt Nam đứng trước những
thử thách lớn do sự cạnh tranh găy gắt trên thị trường đặc biệt là khi Việt
Nam gia nhập khu mậu dịch tự do AFTA hoàn toàn vào năm 2006, và việc
Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO) đã làm cho ngành
da giầy Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Các DN của Việt Nam ít có mối
liên hệ trực tiếp với khách hàng cuối cùng, mà phải qua nhiều khâu trung
gian. Hiện nay, khoảng 80% các DN sản xuất giầy dép của Việt Nam phải
nhận làm gia công cho các hãng lớn của nước ngoài. Chương trình xúc tiến
thương mại và tiếp thị của ngành công nghiệp giầy dép còn nhiều hạn chế,
Nguy n V n M nh công nghi p 44Aễ ă ạ – ệ


1
2
Chuyên Đề tốt nghiệp
đặc biệt là việc khai thác và đột phá vào những thị trường mới trong các
liên doanh sản xuất giầy dép ở Việt Nam, thường thường phía nước ngoài
chịu trách nhiệm về kỹ thuật như nhập khẩu, vận chuyển máy móc, thiết bị,
cung cấp phần lớn các nguyên vật liệu và lo đầu ra cho sản phẩm ở thị
trường nước ngoài. Phía Việt Nam chỉ cung cấp nhân lực, duy trì bảo
dưỡng các thiết bị máy móc và chịu trách nhiệm về công tác quản trị hành
chính.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thuộc Ngân hàng Thế giới
(WB) tại Hà Nội, Trung Quốc thực sự là một đối thủ cạnh tranh lớn nhất
của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất giầy dép. Việc Trung Quốc gia nhập
WTO đã càng khẳng định điều này. Hiện nay, Trung Quốc đang dẫn đầu
thế giới về sản xuất giầy dép với sản lượng hàng năm khoảng 6 tỷ đôi
(chiếm 1/2 tổng sản lượng của cả thế giới). Như vậy cuộc cạnh tranh giữa
sản phẩm giầy dép của 2 nước sẽ là cuộc cạnh tranh về chất lượng và giá
cả. Nhiều DN Việt Nam cũng phải thừa nhận giầy dép của Trung Quốc giá
rất rẻ, mẫu mã phong phú hơn, chi phí sản xuất cũng thấp hơn, nguồn
nguyên liệu cũng được chú trọng đầu tư một cách dài hơi và bài bản hơn.
Trung Quốc từ lâu đã rất chú trọng phát triển ngành chăn nuôi và công
nghiệp thuộc da; mở rộng những ưu đãi về thuế cho đầu tư vào việc ứng
dụng những công nghệ mới; tăng cường hỗ trợ hệ thống thiết kế và trung
tâm thông tin cho ngành da giầy; củng cố các hiệp hội của ngành, nhằm
nâng cao hình ảnh ngành da giầy Trung Quốc trên thị trường quốc tế.
Các nhà đầu tư giầy dép chuyển hướng từ Việt Nam sang Trung Quốc
chính là để tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ và ngành công
nghiệp phụ trợ rất phát triển tại đây. Bằng cách này sẽ giúp họ giảm chi phí
sản xuất và tăng sức cạnh tranh. Theo tính toán của một DN da giầy thì chi
phí sản xuất một đôi giầy tại Việt Nam thường gấp 1,3 đến 1,5 lần so với

Trung Quốc.
2. Dự báo về thị trường.
Nguy n V n M nh công nghi p 44Aễ ă ạ – ệ
2
3
Chuyên Đề tốt nghiệp
2.1. Thị trường trong nước.
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, đời sông nhân dân ngày
càng được cải thiện, nhu cầu thiết yếu ăn mặc ngày càng được nâng cao, đó
là điều kiện thuận lợi cho ngành Giầy da vươn lên chiếm lĩnh thị trường.
trong những năm trước thì đời sống nhân dân còn khó khăn do đó thị
trường sản phẩm chủ yếu là thị trường xuất khẩu do đó thị trường trong
nước bị bỏ ngỏ, trong những năm gần đây đời sống nhân dân được nâng cao
do đó có thể nói thị trường trong nước là thị trường đầy tiền năng của các
doanh nghiệp việt nam. Dự báo trong những năm tới mức tiêu dùng của
người dân Việt Nam là 3 -4 đôi/người/năm. Khi sản phẩm được tiêu dùng ở
thị trường trong nước thì các nhà sản xuất có nhiều điểm lợi như: Hiểu rõ
thói quen, tập tục, tập quán tiêu dùng, có ưu đãi về thuế, chi phí vận
chuyển... vì vậy trong thời gian tới các nhà sản xuất nên tập chung vào khai
thác thị trường nội địa.
2.2. Thị trường xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu da giầy việt nam vào những năm 1999 đã đứng thứ 8
trên 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thế giới, đứng thứ 5 trong 7 quốc gia
sản xuất giầy xuất khẩu lớn nhất Châu Á sau Trung Quốc, Ấn Độ,
Inđonesia,Thái Lan. Kim ngạch xuất khẩu giầy dép toàn quốc năm 2001 đạt
1.575 tỷ USD, năm 2005đạt 3.1 tỷ USD.Ngành công nghiệp giầy dép của
Việt Nam trong 7 năm trở lại đây tăng trưởng rất nhanh, đặc biệt là sản
lượng và xuất khẩu. Giai đoạn từ 1997-2000, đã tăng từ 206 triệu đôi lên
đến 303 triệu đôi. Hiện nay, năng lực sản xuất của chúng ta có thể sản xuất
được khoảng 400 triệu đôi. Phần lớn các sản phẩm này đều được xuất khẩu,

trung bình mỗi năm tổng giá trị giầy dép xuất khẩu của Việt Nam đạt 1,5 tỷ
USD. Trong đó, châu Âu là thị trường hàng đầu, chiếm khoảng 65% lượng
hàng xuất khẩu của Việt Nam, sau đó là thị trường Mỹ, Nhật Bản, Hàn
Quốc và Ðài Loan. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay tốc độ tăng trưởng của
ngành đã bắt đầu chững lại và có dấu hiệu giảm dần, bởi sức cạnh tranh
ngày càng mạnh từ phía các nhà sản xuất giày dép Trung Quốc.
Nguy n V n M nh công nghi p 44Aễ ă ạ – ệ
3
4
Chuyên Đề tốt nghiệp
Chỉ tiêu đặt ra cho ngành công nghiệp giầy dép Việt Nam là năm 2005 xuất
khẩu được 410 triệu đôi và năm 2010 là 640 triệu đôi. Tuy nhiên, khi Việt
Nam chính thức gia nhập WTO, chỉ tiêu đó khó có thể hoàn thành nếu
chúng ta không đủ lực cạnh tranh quốc tế.
Ðể đạt được mục tiêu trên, ngành công nghiệp giầy dép Việt Nam
phải thực hiện 5 điểm cải tổ: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Tăng
cường đầu tư đổi mới công nghệ và hiện đại hóa thiết bị các dây chuyền sản
xuất; Đầu tư tập trung vào phát triển nguồn nguyên liệu và tăng cường khả
năng sáng tạo mốt; giảm hợp đồng gia công; Mở rộng mạng lưới bán hàng ở
nước ngoài.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG
TY Cổ PHẦN GIẦY CẨM BÌNH.
1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường.
Ngày nay, nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng găy gắt, diễn
biến của thị trường liên tục thay đổi. vì vậy, trong hoạt động của bất kỳ tổ
chức, hay cá nhân nào cũng cần có công tác nghiên cứu thị trường, hoạt
động này giúp họ nắm bắt được những diễn biến thị trường để có biện pháp
phù hợp phản ứng lại với thị trường, mặt khác việc mở rộng thị trường mới
cũng rất cần tới công tác nghiên cứu và dự báo thị trường, điều này giúp cho
doanh nghiệp tránh rơi vào tình trạng tụt hậu, và bị đối thủ cạnh tranh đánh

bật khỏi thị trường.
Thực tế hiện nay công ty giầy Cẩm Bình mặc dù có một số hoạt động
nghiên cứu thị trường nhưng không có bộ phận nào chuyên trách riêng biệt
mà do phòng xuất nhập khẩu kiên nhiệm, và do mối quan hệ từ trước. Do
vậy kết quả của hoạt đọng chưa cao , nhu cầu của người tiêu dùng doanh
nghiệp chưa nắm bắt được, không tạo ra được khả năng cạnh tranh của sản
phẩn trên thị trường. Xuất phát từ thực tế hiện nay, để đảy mạnh công tác
tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường công ty cần thiết tiến hành lập phòng
Marketing chuyên nghiên cứu và dụ báo về thị trường cả trong nước và nước
Nguy n V n M nh công nghi p 44Aễ ă ạ – ệ
4
Trưởng phòng Marketing
Bộ phận nghiên cứu thị trường Bộ phận phát triển thị trườngquản lý mạng lưới tiêu thụ Quảng cáo và khuyến mạiBộ phận hành chính
5
Chuyên Đề tốt nghiệp
ngoài. Để hoạt động nghiên cứu thị trường có hiệu quả thì phòng Marketing
của doanh nghiệp cần phải có chiến lược hoạt động một cách cụ thể:
- Phải nghiên cứu, xác định được những loại thị trường mà doanh nghiệp
có thể thâm nhập và có thể phát triển trong thời gian tới. Phân loại mặt hàng
mà có triển vọng phát triển với khối lượng lớn phù hợp với khả năng sản
xuất của công ty.
- Cần phải phân tích chhiến lược giá sản phẩm của đối thủ cạnh tranh dự
kiến về mạnh lưới tiêu thụ, phương thức phân phối sản phẩm.....
- Để thực hiện công việc thì công ty phải co các biện pháp như: Hàng
năm tổ chức các hội nghị khách hàng với sự tham gia của tất cả các đại lý và
tham khảo ý kiến các đại lý, vì đó là những ý kiến phẩn hồi trực tiếp từ khách
hàng, công ty cần phải tiếp thu và có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp. Ngoài
ra công ty cũng cần thiết lập các đường dây để lắng nghe ý kiến của khách
hàng như: thiết lập các đường dây điện thoại trực tiếp, thiêt lập các trang WEB
để khách hàng có thể tìn hiểu và xem xét các sản phẩm của công ty.

Cơ cấu tổ chức phòng Marketing
Nguy n V n M nh công nghi p 44Aễ ă ạ – ệ
5
6
Chuyên Đề tốt nghiệp
Việc thành lập phòng này cần có kế hoạch trước, bởi vì có sự đảo lộn trật
tự cơ cấu của công ty. Mặt khác cũng phải đặt ra một số nhiện vụ cấp thiết
cho phòng:
- Bộ phận chuyên nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu ở thị trường cần phải
dự đoán được những nhưu cầu, xu hướng tiêu dùng trong tương lai.
- Bộ phận chuyên nghiêm cứu thị trường nội địa: Cán bộ phòng Marketing
cần phải tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, phải có các chuyến công tác đi
các vùng thị trường để xem xét thị trường, cũng cần đặt các đại lý tại các
tỉnh, các vùng, và hàng năm phải tổ chức các hội nghị khách hàng để lắng
nghe ý kiến phản hồi từ khách hàng.. Sau khi nghiên cứu về thị trường thì
cần thử nghiệm các sản phẩm tại thị trường, thời gian thử nghiệm sẽ đánh
giá có nên mở rộng sản phẩm tại thi trường đó.
Như vậy, việc thành lập phòng Marketing sẽ giúp công ty củng cố mối
quan hệ truyền thống, đồng thời tạo được nhiều thị trường mới cho sản
phẩm, qua đó đưa sản phẩm của công ty đến với khách hàng và có thể phản
ứng với các đối thủ cạnh tranh
2. Đa dạng hoá mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm.
Mặc dù, doanh nghiệp đưa ra nhiều mẫu mã sản phẩm mới nhưng thật
sự chưa đáp ứng được thị trường người tiêu dùng.
Để nắm bắt được nhiều mẫu mã thì doanh nghiệp phải nắm bắt được xu
hướng của khách hàng thông qua nghiên cứu của phòng Marketing. Sản
phẩm giầy là sản phẩm thay đổi theo thời gian, thị hếu về mẫu mã. Đối với
giới trẻ là giới nhạy cảm nhất với mẫu mốt, do đó doanh nghiệp cần phải
tungn ra thị trường những sản phẩm mẫu mã sản phẩm mới lạ, đẹp mầu sắc,
bắt mắt thì mới thu hút được giới trẻ. Dự đoán đúng thị trường giúp doanh

nghiệp đưa ra nhiều sản phẩm mẫu mã phù hợp, không bị lỗi mốt so với đối
thủ cạnh tranh và đưa sản phẩm ra thị trường đúng thời điểm cần thiết.
Nguy n V n M nh công nghi p 44Aễ ă ạ – ệ
6
7
Chuyên Đề tốt nghiệp
Để làm được điều này thì doanh nghiệp cần có một đội ngũ cán bộ làm
côngtác thị trường nhanh, nhậy...ngoài ra còn có sự phục vụ của máy móc
hiện đại và các phần mền đồ hoạ như CAD- 2D, CAD -3D... đồng thời công
ty cũng cần có sự phục vụ của các nhân viên thiết kế để tạo ra các mẫu mã
sản phẩm.Mẫu mã sản phẩm đa dạng làm tăng sự llựa chọn của khách hàng,
đáp ứng hhu cầu thẩm mỹ khác nhau của người tiêu dùng. Chính điều này
cũng làm cho các đại lý của công ty thích bán sản phẩm của công ty hơn.
3. Hoàn thiện chính sách giá sản phẩm.
Việc chưa hoàn thiện chính sách giá làm cho việc tiêu thụ sản phẩm của
công ty gặp nhiều khó khăn mặc dù hình thức áp dụng đã khá linh hoạt. Vì
vậy côngty cần phải hoàn thhiện chính sách giá sẽ giúp cho công ty đẩy
mạnh được công tác tiêu thụ sản phẩm cả ở thhị trường trong nước và thị
trường nước ngoài, công ty có các chính sách giá linh hoạt cho từng sản
phẩm, từng đoạn thị trường, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường, vì vậy doanh nghiệp cần có những chính sách giá như
sau:
- chiến lược giá cho từng thị trường
Đại lý lớn với số lượng lớn: Công ty cần có mức chiết khấu cao hơn so
với các đại lý kém hơn.
Khách hàng ở các thành phố lớn do thu nhập của họ khá cao nên việc cắt
giảm giá cũng không trở lên quan trọng mà việc nâng cao chất lượng, đa
dạng kiểu dáng, mẫu mã, đẹp là quan trọng.
Khách hàng là dân cư nông thôn: Việc hạ giá thành để chiếm lĩnh thị
trường trong tương lai là rất cần thiết, côngty cần có chính sách giảm giá,

khuyến mãi để đưa sản phẩm của mình tới ngưòi tiêu dùng.
- Chiến lược giá phân biệt
Công ty sẽ bán hàng hoá của mình cho mỗi khách hàng với một mức giá
khác nhau. Giá sản phẩm của một sản phẩm trong một tổ chức cao hơn sẽ dễ
Nguy n V n M nh công nghi p 44Aễ ă ạ – ệ
7
8
Chuyên Đề tốt nghiệp
chấp nhận hơn là một cá thể tiêu dùng. Cần phân biệt giá giữa thành thị và
giá giữa nông thôn. Ở thành phố có thể áp dụng chính sách giá cao hơn ở
nông thôn vì ở thị trường này sản phẩm cần chất lượn, mẫu mã, kiểu dáng
sản phẩm, còn ở khu vực nông thôn là khu vực dễ tiêu thụ các sản phẩm đã
lạc mẫu mã, kiểu cách. Do đó khu vực này nên đặt chính sách giá mềm hơn.
Chính sách theo mùa. Lượng giầy tiêu thụ lớn nhất là vào đầu tháng 7 và
kết túc vào cuối tháng 12. Lượng tiêu thụ vào mỗi mùa khác nhau, trong
mỗi mùa thì sản phẩm từng loại tiêu thụ cũng khác nhau... vì vậy chính sách
giá cho từng loại sản phẩm cũng khác nhau, nhưng trong bất kỳ trong
trường hợp nào thì giá của sản phẩm cũng phải đảm bảo tính cạnh tranh.
Nâng cao Chất lượng sản phẩm là tập hợp những tiêu chuẩn của sản
phẩm, chứa đựng mức độ thích hợp của nó để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
nhất định. Việc đảm bả chất lượng sản phẩm là điều kiện không thể thiếu
trong chiến lược cạnh tranh của sản phẩm, ngay cả ở trong nước cũng như
thị trường nước ngoài. Đây là điều kiện đẻ doanh nghiệp tăng doanh thu,
giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm làm tăng lơụi nhuận, mở rộng thị
trường.hơn nưa việc đảm bảo chất lượng cũng đảm bảotăng uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường. Hiện nay vấn đề chất lượng là vấn đề luôn
được doanh nghiệp chú trọng, doang nghiệp thành lập phòng quản lý chất
lượng, song so với chất lượng sản phẩm của côngty với các doanh nghiệp
khác trên thị trường thì sản phẩm của doanh nghiệp cạnh tranh còn yếu hơn
so với cá doanh nghiệp khác trên thị trường, điều đó có thể nhận thấy như

sau:
- Trong khâu thiết kế: Mặc dù công ty có phòng thiết kế, song những mẫu
mã sản xuất cho đơn hàng chủ yếu do bên khách hàng yêu cầu hoặc giửi
thiết kế. Do đó doanh nghiệp bị động trong khây thiết kế sản phẩm do đó
sản phẩm không đáp ứng được nhưu cầu thị trường, khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trê thị trường yếu. Do vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
phòngthiết kế với các phòng kế toán, phònh xuất nhập khẩu... chính sự kết
Nguy n V n M nh công nghi p 44Aễ ă ạ – ệ
8

×