Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TRIỂN VỌNG MỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT-NHẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.04 KB, 24 trang )

Triển vọng mối quan hệ thơng mại Việt-Nhật và
các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam sang Nhật Bản
3.1 Triển vọng quan hệ thơng mại Việt-Nhật:
Quan hệ thơng mại Việt-Nhật vốn có truyền thống từ lâu đời và trong những năm gần
đây quan hệ đó đã phát triển hết sức tốt đẹp. Trớc đây, quan hệ hai nớc đã có nhiều
thời kỳ bị gián đoạn do những nguyên nhân khách quan nhng trong điều kiện mới,
khi xu hớng hoà bình hợp tác trở thành xu thế nổi trội thì cơ hội để hai nớc tăng cờng
quan hệ với nhau là rất lớn. Bởi đó là nhu cầu cần thiết vì lợi ích chung của cả hai
quốc gia. Việt Nam đã thực hiện chính sách hội nhập, đa phơng hoá, đa dạng hoá
quan hệ kinh tế quốc tế trong đó Nhật Bản là đối tác đợc u tiên hàng đầu. Về phía
Nhật Bản cũng có sự điều chỉnh rõ rệt trong quan hệ với Đông Nam á và Việt Nam.
Thập kỷ 90 là thập kỷ mà quan hệ Việt-Nhật phát triển khá toàn diện trên tất cả các
mặt. Nhật Bản là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam và khả năng đẩy mạnh sản xuất
hàng xuất khẩu và sử dụng hiệu quả ngoại tệ thu đợc sẽ tạo ra tiềm lực mới cho quan
hệ thơng mại Nhật Bản và Việt Nam. Các nhà kinh tế đã dự báo rằng, trong thập kỷ
này, quan hệ buôn bán Việt-Nhật sẽ đợc tăng cờng và mở rộng. Tuy nhiên tốc độ tăng
trởng sẽ không đột biến. Có hai lý do khiến tốc độ tăng trởng không đột biến. Một là
cơ cấu buôn bán giữa hai nớc ít có sự thay đổi. Dầu thô là mặt hàng xuất khẩu chủ
đạo của Việt Nam, khi dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất đợc hoàn thành thì lợng
dầu thô xuất khẩu có thể bị giảm đi. Tuy nhiên, số lợng giảm do dầu thô có thể đợc
bù bằng các mặt hàng nông sản nh gạo, chè, rau quả, Các nhà xuất khẩu của Việt
Nam đã bắt đầu tính đến khả năng cạnh tranh với hàng hoá của các nớc trên thị trờng
Châu á và Nhật Bản và nhất là khi Nhật Bản đang có dự kiến đầu t để xuất khẩu trực
tiếp các mặt hàng này sang Nhật. Trong tơng lai, các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ xoá
1 1
bỏ việc xuất khẩu sang thị trờng Nhật Bản qua trung gian. Hai là, nhu cầu và khả
năng thị trờng liên quan đến buôn bán trao đổi giữa hai nớc thay đổi chậm Trong thời
gian tới, khối lợng trao đổi giữa hai nớc sẽ không tăng vọt. Những nhu cầu của Nhật
Bản sắp tới Viêt
Nam khó có thể đáp ứng nh những sản phẩm công nghệ thông tin, Hơn nữa, hàng


hoá trong nớc của Việt Nam ngày càng đáp ứng nhu cầu của ngời tiêu dùng và có khả
năng thay thế nhập khẩu nên nhập khẩu hàng hoá từ Nhật ít có cơ hội mở rộng.
Về lĩnh vực đầu t và ODA, vốn là những lĩnh vực có quan hệ chặt chẽ với nhau trong
chiến lợc kinh tế đối ngoại của Nhật với Việt Nam. Thực tế cho thấy ODA và đầu t
của Nhật Bản cho Việt Nam tăng nhanh phản ánh chủ trơng tiếp tục quan hệ làm ăn
lâu dài với Việt Nam. Thực chất ODA là một hình thức hỗ trợ cho các nhà đầu t Nhật
Bản ở Việt Nam và cũng là một hình thức đầu t chắc chắn dù lãi suất thấp. Vì vậy,
trong thời gian tới, nếu Nhật Bản đầu t vào nông nghiệp và các ngành mới thì khối l-
ợng vốn và tốc độ đầu t sẽ tăng nhanh chóng.
Nh vậy, trong tơng lai, quan hệ kinh tế Việt-Nhật sẽ đợc tăng cờng. Tốc độ tăng trởng
kinh tế ổn định trong những năm gần đây góp phần vào sự hồi sinh của nền kinh tế
Nhật Bản. Nhật Bản sẽ không chỉ tiếp tục duy trì vị trí kinh tế của mình mà còn tăng
cờng mạnh mẽ hơn các mối liên kết và quan hệ hợp tác với khu vực và thế giới. Trong
chuyến viếng thăm Việt Nam của Thủ tớng Nhật Bản Junichiro Koizumi tháng 4 và
chuyến viếng thăm Nhật Bản gần đây của Tổng bí th Nông Đức Mạnh đã một lần nữa
khẳng định sự hợp tác kinh tế giữa hai nớc.
Tóm lại, triển vọng phát triển quan hệ thơng mại giữa Việt Nam và Nhật Bản trong
thời gian tới là tơng đối khả quan. Nó phù hợp với chiến lợc kinh tế đối ngoại của hai
nớc và xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế. Tuy nhiên, triển vọng đó có thành hiện thực
hay không, phụ thuộc rất nhiều vào những nỗ lực của Chính phủ hai nớc trong việc
tạo dựng khuôn khổ pháp lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hai nớc thâm nhập sâu
2 2
hơn vào thị trờng của nhau. Hơn nữa, nó còn phụ thuộc vào tình hình kinh tế thế giới,
sự cải cách chính sách và cơ cấu kinh tế của Nhật Bản. Hy vọng rằng hoạt động kinh
tế đối ngoại của Nhật Bản sẽ sống động trở lại và mở ra cơ hội kinh doanh cho các
đối tác trong đó có Việt Nam.
3.2 Định hớng xuất khẩu hàng Việt Nam sang Nhật Bản đến
năm 2010:
3.2.1 Định hớng chung:
Chiến lợc xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2002-2010 dự kiến mức tăng trởng

xuất khẩu hàng hoá ít nhất đạt 14%/năm và đạt 59 tỷ USD vào năm 2010. Ngoài ra,
xuất khẩu dịch vụ dự kiến tăng từ mức hiện tại là 2,5 tỷ USD lên 8-9 tỷ USD vào năm
2010. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật Bản, chúng ta phải xác
định đợc các mục tiêu xuất khẩu từ nay đến năm 2010 sao cho phù hợp với tình hình
kinh tế của đất nớc cũng nh khu vực.
Trớc hết, cơ cấu xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu cần có sự điều chỉnh lại. Cần giảm
mạnh tỷ lệ hàng xuất khẩu thô và sơ chế, tăng cờng xuất khẩu các mặt hàng chế biến
sâu, có hàm lợng khoa học cao, thu ngoại tệ mạnh. Mặt hàng trọng tâm cần đẩy
mạnh xuất khẩu là gạo, linh kiện điện tử, hàng hoá tiêu dùng, thực phẩm chế biến,
sản phẩm nhựa, Về nhập khẩu, các mặt hàng chủ yếu sẽ là linh kiện vi tính, có khí,
điện tử, tân dợc,.. Tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản phải đợc nâng lên từ 16,62% năm
2001 lên 18,2% ngang với mức năm 1997. Với đà phục hồi nền kinh tế Nhật Bản có
thể tăng xuất khẩu vào Nhật ở mức 21-22% và đến năm 2005 tổng kim ngạch vào thị
trờng này đạt mức 5,4-5,9 tỷ USD.
Đồng thời, cần tăng giá trị của nhóm hàng chế biến sâu lên nhanh, chiếm 40% kim
ngạch vào năm 2010. Nhóm hàng chế biến sâu gồm có: dệt may, giày dép, nông sản
3 3
chế biến, sản phẩm điện tử, đồ chơi trẻ em, khí hoá lỏng, xăng dầu và sản phẩm hoá
dầu, hoá chất, thép và hợp kim đặc biệt, vật liệu xây dựng, sành sứ và thuỷ tinh, dợc
phẩm, hải sản cao cấp.
Hai nớc cần có sự trao đổi, bàn bạc cụ thể (tốt nhất là trong khuôn khổ song phơng
bởi dự kiến đàm phán Việt Nam gia nhập WTO còn kéo dài) về việc Nhật Bản dành
cho Việt Nam quy chế MFN đầy đủ. Bên cạnh việc có thể chỉ đạo cụ thể cho các
Tham tán thơng mại trong việc thu thập thông tin, Bộ Thơng mại cần phối hợp với tổ
chức JETRO (tổ chức xúc tiến thơng mại Nhật Bản tại Việt Nam) để tăng cờng công
tác thông tin đến các doanh nghiệp về thị trờng, thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục xin
dấu chứng nhận của JIS, JAS và Ecomark, cũng nh chế độ xác nhận trớc về thực
phẩm nhập khẩu, JIS (Japan Industrial Standards) là hệ thống tiêu chuẩn đợc sử
dụng rộng rãi ở Nhật dựa trên Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp. Hệ thống tiêu
chuẩn JIS áp dụng đối với tất cả các sản phẩm công nghiệp và khoáng sản trừ những

sản phẩm đợc áp dụng các tiêu chuẩn chuyên ngành nh dợc phẩm, phân hoá học, sợi
tơ tằm, thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp khác đợc quy định trong Luật Về
tiêu chuẩn hoá và dán nhãn các nông lâm sản (JAS-Japan agricutural Standards).
Hàng hoá đáp ứng tiêu chuẩn JIS hoặc JAS sẽ dễ tiêu thụ hơn trên thị trờng bởi ngời
tiêu dùng Nhật Bản rất tin tởng chất lợng của những sản phẩm đóng dấu JIS hoặc
JAS. Nhà sản xuất có thể xin dấu tại Bộ Công Thơng và Bộ Nông Lâm Ng nghiệp.
Trong quá trình xem xét, Nhật Bản cho phép sử dụng kết quả giám định của tổ chức
nớc ngoài nếu tổ chức đó đợc Bộ trởng bộ Công Thơng hoặc Bộ Nông Lâm Ng
nghiệp Nhật Bản cho phép.
Về chế độ xác nhận trớc chất lợng của thực phẩm nhập khẩu đợc Nhật Bản áp dụng
từ tháng 3 năm 1994. Đây là việc kiểm tra trớc các nhà máy sản xuất để cấp giấy
chứng nhận sản phẩm sản xuất tạo đó có đáp ứng đợc các quy định của Luật Vệ Sinh
Thực phẩm hay không. Nếu đợc cấp xác nhận này thì thủ tục nhập khẩu vào Nhật
Bản và việc tiêu thụ trên thị trờng sẽ dễ dàng hơn.
4 4
Ngoài tiêu chuẩn JIS và JAS thì ở Nhật Bản còn có nhiều loại dấu chất lợng khác
trong đó những sản phẩm có dấu tiêu chuẩn môi trờng Ecomark rất đợc khuyến khích
tiêu dùng. Vấn đề môi trờng đang đợc sự quan tâm của ngời tiêu dùng Nhật Bản vì
vậy nên khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam xin dấu chứng nhận Ecomark.
Để tiến trình phát triển quan hệ kinh tế hai nớc ngày càng thuận lợi thì Việt Nam phải
cải thiện môi trờng đầu t và đẩy mạnh thu hút vốn đầu t từ nớc ngoài. Tình trạng xuất
khẩu trở lại của các công ty Nhật Bản có vốn đầu t tại Việt Nam cho thấy tỷ trọng
xuất khẩu của các công ty Nhật Bản tại Việt Nam là không nhỏ. Thu hút đầu t nớc
ngoài góp phần cải thiện cở sở hạ tầng, nâng cao khối lợng và chất lợng hàng xuất
khẩu vì vậy các đề xuất của các nhà đầu t Nhật Bản cần đợc nghiên cứu kỹ và giải
quyết một cách hợp lý.
3.2.2 Định hớng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực:
Mời mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nớc ta năm 2002 xếp theo thứ tự từ cao xuống
thấp là hàng dệt may, hải sản, nội thất gỗ, dầu thô, giày dép, than đá, tấm kim loại
các loại, cà phê, cao su, vật liệu xây dựng. Mời mặt hàng này đem lại trên 70% doanh

thu xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2002. Tuy nhiên, danh sách các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực không phải cố định ở 10 mặt hàng trên. Trọng tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào
Nhật trong những năm tới đây sẽ là: hàng dệt may, hải sản, giày dép và sản phẩm da,
dầu thô, rau quả, cà phê, cao su, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ.
1. Hàng dệt may:
Hàng dệt may hiện nay đã đợc xuất khẩu vào Nhật với kim ngạch khá cao
(khoảng 400-500 triệu USD/năm) nhng thị phần của ta còn quá nhỏ bé, khoảng
2%, trong khi Trung Quốc 65%, Italia 8%, Hàn Quốc 6%, Thái Lan 2,2%. Để
tăng cờng xuất khẩu hàng dệt may, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn tới hàng
5 5
dệt kim bởi khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu dệt may vào Nhật là hàng dệt kim.
Mục tiêu hớng vào thị trờng đại chúng vì hàng hoá của Việt Nam cha đủ sức để
cạnh tranh với các hàng cao cấp của các nớc khác về chất lợng, mẫu mã, Phát
triển ngành dệt may là nhu cầu tất yếu của tiến trình công nghiệp hoá đất nớc.
Ngành dệt may đợc coi là mũi nhọn trong chiến lợc phát triển đến năm 2010. Là
một đất nớc có 80 triệu dân, trình độ lao động cha cao, nên ngành dệt may đã góp
phần giải quyết công ăn việc làm cho ngời lao động. Hiện nay, hàng dệt may của
Việt Nam cha gây đợc ấn tợng gì đối với ngời tiêu dùng Nhật Bản. Các hợp đồng
dệt may chủ yếu là hàng gia công làm theo đơn đặt hàng trực tiếp của Nhật Bản
hoặc gián tiếp qua các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan và thờng phải nhập khẩu
vải và linh kiện từ nớc ngoài. Nh vậy, hàng dệt may Việt Nam có giá cao, khó
cạnh trạnh tranh trên thị trờng Nhật Bản. Muốn tháo gỡ tình trạng này, từ nay đến
năm 2010, các xí nghiệp may của Việt Nam cần trang bị đồng bộ để có thể cung
ứng các phụ kiện liên quan. Đồng thời phải chú trọng đến việc nắm bắt thị hiếu
của ngời tiêu dùng Nhật Bản, liên tục tạo ra những sản phẩm mới thu hút sự quan
tâm của ngời tiêu dùng.
2. Hải sản:
Hải sản của Việt Nam nhất là tôm đông lạnh đang đợc xuất khẩu với một khối l-
ợng lớn và đợc ngời tiêu dùng Nhật Bản đánh giá cao. Hiện nay, kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản đạt khoảng 340-360 triệu USD/năm. Vì ngời Nhật rất thích ăn hải

sản đặc biệt là cá nên hàng năm hải sản đợc họ nhập khẩu rất nhiều từ các nớc
trên thế giới. Tuy nhiên để nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trờng này nhằm
nâng cao giá bán và tăng tính hấp dẫn đối với mạng lới xuất khẩu và phân phối tại
Nhật, các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm hơn nữa tới khâu chất lợng và vệ
sinh thực phẩm. Đây là yếu tố rất quan trọng đối với các mặt hàng thực phẩm nói
chung. Trong đó, việc có đợc các dấu chứng nhận chất lợng của JIS, JAS,
Ecomark, và lấy xác nhận trớc về chất lợng (pre-certification) đóng vai trò hết
6 6
sức quan trọng vì nó góp phần giảm chi phí lu thông hàng hoá ở Nhật. Chi phí lu
kho lạnh tại Nhật có thể lên tới 80USD/ngày cho 1 container, chi phí giám định
khoảng 130 USD. Nếu không có giấy xác nhận của hệ thống pre-certification,
hàng hoá có thể phải lu kho bãi tới 7 ngày. Trong khi đó, nếu có giấy xác nhận,
hàng hoá có thể đợc thông quan trong ngày, tiết kiệm ít nhất 500 USD cho 1
container 20 feet. Mục tiêu tăng trởng đặt ra cho ngành hải sản là 10% năm để
đên năm 2005 đạt kim ngạch 700 triệu USD xuất khẩu hải sản.
3. Giày dép và các sản phẩm da:
Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu giày dép và sản phẩm da vào Nhật còn khá khiêm
tốn. Trung bình mỗi năm Việt Nam xuất khẩu khoảng 1 tỷ USD. Trớc năm 1999,
khi Nhật Bản cha dành cho Việt Nam đãi ngộ MFN thì kim ngạch xuất khẩu giày
dép và sản phẩm da còn rất thấp, khoảng 27,3 triệu USD năm 1998 (theo số liệu
thống kê của Hải quan Việt Nam). Từ tháng 5 năm 1999, Nhật Bản dành cho Việt
Nam quy chế tối huệ quốc (MFN), các doanh nghiệp Việt Nam đã rất quan tâm
tới thị trờng này. Bởi đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật vừa tạo điều kiện phát triển
ngành, vừa giúp cho ngành tránh đợc sự áp đặt quota của EU. Đặc biệt lợng giày
da nhập khẩu của Nhật đã tăng nhanh trong những năm qua. Trong năm 1999,
nhập khẩu tăng 23%, năm 2000 tăng 7% một phần do xu hớng chuyển sản xuất
sang Trung Quốc và tái nhập sản phẩm của các công ty Nhật Bản. Trung Quốc
hiện đang là nớc xuất khẩu lớn nhất sang Nhật Bản, chiếm tỷ trọng 34,6% trong
năm 1999, nhng về giá trị Italia vẫn là nớc đứng đầu về xuất khẩu sang Nhật,
chiếm tỷ trọng 36,6% năm 2000. Vì vậy, ngành da giày Việt Nam có nhiều cơ hội

để thâm nhập thị trờng Nhật. Mục tiêu tăng trởng của ngành trên thị trờng là trên
20%/năm, phấn đấu đến năm 2005 đạt kim ngạch xuất khẩu là 550 triệu USD và
đến năm 2010 đạt 1 tỷ USD.
4. Dầu thô
7 7
Sự tăng trởng kinh tế thế giới làm cho nhu cầu về nguyên nhiên liệu ngày càng
tăng, đặc biệt là dầu thô. Nhu cầu về dầu thô trên thế giới có chiều hớng tăng
khoảng 2%/năm nhất là ở khu vực Châu á trong đó phải kể đến Nhật Bản.
Việt Nam đã không ngừng thăm dò, đầu t, khai thác. Hiện nay, xuất khẩu dầu thô
mang lại nhiều kim ngạch nhất cho Việt Nam. Trong nhiều năm qua, Nhật Bản là
bạn hàng lớn nhất của Việt Nam nhập khẩu mặt hàng này. Kể từ năm 1991, khi
lần đầu tiên xuất khẩu dầu thô sang Nhật đem lại cho Việt Nam thặng d thơng
mại đến nay, xuất khẩu dầu thô vẫn chiếm vị trí số 1 trong số những mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật, chiếm 20,7% năm 2000. Trong những năm
tới, Việt Nam sẽ vẫn coi xuất khẩu dầu thô là một mặt hàng quan trọng, đồng thời
tăng cờng chế biến để có thể xuất khẩu dầu đã qua chế biến cho Nhật Bản.
5. Rau quả:
Ngời Nhật tiêu thụ rau nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, bình quân mỗi
ngời tiêu thụ khoảng 100 kg/năm. Mỗi năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 17 triệu
tấn rau với giá trị khoảng 3 tỷ USD. Năm 1999, tổng sản lợng rau tơi nhập khẩu là
719.263 tấn. Việt Nam cung cấp cho Nhật Bản khoảng 7-8 triệu tấn/năm, chiếm
cha đầy 0,3% thị phần. Các loại rau tơi nhập khẩu chính là hành, bí ngô, bắp cải
và hoa lơ. Những năm gần đây, trào lu ăn kiêng đã dẫn đến việc nhập khẩu các
loại rau trớc đây không phổ biến nh: rau diếp, hành tăm, tỏi tây, salat củ cải và
một số loại cây có rễ củ dùng làm rau. Loại rau đông lạnh nhập khẩu nhiều nhất là
khoai tây, gần đây nhập khẩu rau bina cũng tăng. Nguồn nhập khẩu chủ yếu của
thị trờng Nhật là Mỹ, Newzealand, Trung Quốc, Mexico, Thái Lan, Đài Loan,
Rau quả Việt Nam cũng có một số loại đợc ngời Nhật chấp nhận, nhng nhìn
chung thì còn nhiều yếu kém nhất là về chất lợng, vệ sinh thực phẩm và thời hạn
giao hàng. Tất cả các loại rau quả nhập khẩu vào Nhật đều phải đáp ứng đầy đủ

các điều khoản của Luật Bảo vệ thực vật, quy định vệ sinh thực phẩm. Hơn nữa,
8 8
khi tiêu thụ rau tơi phải dán nhãn quốc gia xuất khẩu theo yêu cầu của Luật Về
Tiêu chuẩn và dán nhãn hợp lệ đối với hàng nông sản (Luật JAS). Vì vậy, khi gia
nhập thị trờng này, các doanh nghiệp phải hiểu rõ hệ thống bán đấu giá trên thị tr-
ờng bán buôn để đảm bảo hàng hoá đến tay ngời tiêu dùng nhanh và trôi chảy.
Đồng thời có thể trực tiếp ký hợp đồng với các nhà sản xuất lớn hay với một số xí
nghiệp sản xuất dịch vụ thực phẩm để cung cấp rau tơi trực tiếp cho họ nhằm
giảm bớt những chi phí qua trung gian,Ngoài ra, các tiêu chuẩn về dán nhãn và
chất lợng của Nhật rất nghiêm ngặt đòi hỏi phải đảm bảo hàng về độ tơi, độ vỡ,
kích cỡ, màu sắc, Quan trọng nhất là an toàn và vệ sinh thực phẩm có lợi cho
sức khoẻ trong suốt quá trình chế biến từ khâu sản xuất tới khâu xuất khẩu và
phân phối tại Nhật.
6. Cà phê:
Sức tiêu thụ cà phê trên thị trờng Nhật Bản nhìn chung là lớn, mặc dù không thể
so sánh với các nớc phơng Tây, nhng nó có chỗ đứng vững chắc trong thị trờng đồ
uống Nhật Bản và sức tiêu thụ có xu hớng ngày một gia tăng. Nhật Bản nhập khẩu
và phê sơ chế từ 40 nớc trên thế giới, những nớc xuất khẩu chính là Colombia,
Brazil, Indonesia, chiếm tới hơn 60% lợng cà phê sơ chế nhập khẩu vào thị trờng
Nhật. Cà phê nhân đợc nhập rất nhiều từ Indonesia, Mỹ, Anh, đối với các loại
chiết xuất và tinh chất cà phê thì Brazil là nhà xuất khẩu hàng đầu. Trung bình
mỗi năm Việt Nam xuất khẩu sang Nhật khoảng 18-20 triệu USD cà phê, chiếm
một tỷ trọng rất nhỏ trong kim ngạch nhập khẩu cà phê của Nhật Bản. Nhật Bản
phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vào nguồn cà phê nhân sơ chế nhập khẩu, vì đa
phần cà phê nhân thông thờng và cà phê uống tại Nhật đợc sản xuất trong nớc từ
nguồn cà phê nhập khẩu từ nớc ngoài. Trong thời gian tới, cà phê Việt Nam có thể
mở rộng thị phần của mình trên thị trờng Nhật Bản bằng việc tăng cờng xuất khẩu
cà phê sơ chế sang thị trờng này.
9 9

×