Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tổng quan về thị trường tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.34 KB, 23 trang )

Tổng quan về thị trờng tài chính
I. Khái niệm thị trờng tài chính
1. Khái niệm
Thị trờng tài chính là thị trờng trong đó vốn đợc chuyển từ những ngời
hiện có vốn d thừa sang những ngời thiếu vốn.
Nền kinh tế nào cũng đều có nhu cầu to lớn về vận hành và phát triển kinh tế.
Vậy thì, vốn lấy từ đâu ra? Nói chung, vốn lấy từ ba nguồn: Nhà nớc - chủ nhân
của doanh nghiệp quốc doanh cấp vốn cho các xí nghiệp của mình, cho các doanh
nghiệp đó vay tiền và đảm bảo sự tăng trởng của chúng; Hệ thống ngân hàng và
các định chế tài chính - những cơ quan này chấp thuận cho các doanh nghiệp vay
với những điều kiện nhất định; Qua trung gian thị trờng tài chính - một công cụ
hết sức quan trọng của nền kinh tế thị trờng về phơng diện cấp vốn.
Một vấn đề đợc nhiều ngời thừa nhận là nền kinh tế của các nớc công nghiệp
hóa đã cất cánh và bay cao nhờ đôi cánh ngân hàng. Thị trờng tài chính cấp vốn
cho nền kinh tế bằng hai cách: tăng t bản và cho vay vốn. Vậy điều này diễn ra
nh thế nào?
Một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng bắt đầu vận hành đợc chủ yếu
nhờ số vốn đóng góp ban đầu của các cổ đông sáng lập. Dần dần doanh nghiệp
phát triển, ăn nên làm ra, doanh nghiệp cần thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh
doanh. Có thể lúc đầu bằng tài sản của mình và các khoản lợi nhuận thu đợc do
doanh nghiệp trả, các cổ đông sáng lập có thể góp vốn thêm để doanh nghiệp phát
triển. Nhng rồi đến một lúc nào đó khi nhu cầu vốn lớn mãi lên họ sẽ không còn
đủ khả năng theo kịp tốc độ tăng trởng đó. Cơ cấu tài chính doanh nghiệp sẽ mất
cân đối nghĩa là hoặc các khoản tín dụng ngắn hạn đã vợt quá xa nhu cầu cấp vốn
lu động, hoặc vốn tự có chỉ còn đủ cấp một phần nhỏ cho kinh doanh, trong khi đó
các khoản công ty cho vay không dễ gì thu hồi về đợc. Doanh nghiệp có thể bị đe
dọa phá sản! Trong tình huống này, một khoản vốn nóng rót từ bên ngoài vào là tối
cần thiết. Khoản tiền đó có thể lấy từ Thị trờng tài chính.
Cơ chế huy động vốn thông qua thị trờng tài chính đợc hiểu nh sau: một số
tác nhân kinh tế có nhu cầu đầu t nhiều hơn phần mình tiết kiệm đợc - và do đó
cần đến vốn từ bên ngoài (số này đa số là các doanh nhiệp thuộc khu vực sản xuất


và Nhà nớc). Trong khi đó, một số tác nhân kinh tế khác có khoản tiết kiệm nhiều
hơn khoản đầu t - và do vậy có khả năng cấp vốn (số này thông thờng là các hộ gia
đình). Một trong số các công cụ thực hiện việc lu chuyển vốn từ nơi này đến nơi
khác chính là thị trờng tài chính. Việc lu chuyển này có thể thực hiện bằng nhiều
cách khác nhau, hoặc là các doanh nghiệp trực tiếp mua khoản tiết kiệm này của
các hộ gia đình trên thị trờng tài chính (thông thờng tại thị trờng chứng khoán),
hoặc là các doanh nghiệp mua lại khoản vốn đó gián tiếp tại các tổ chức tài chính
trung gian. Thị trờng chứng khoán chỉ là một trong những công cụ cấp vốn, nhng
là một trong những công cụ cấp vốn hợp lý và hiệu quả nhất.
2. Chức năng thị tr ờng tài chính
2.1. Huy động và dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn
Thị trờng tài chính có chức năng cơ bản là dẫn vốn từ những ngời d thừa vốn
sang những ngời cần vốn. Với những ngời d thừa vốn, thu nhập lớn hơn chi tiêu,
những ngời này có thể là Chính phủ, các tổ chức hoặc cá nhân. Trong khi đó, do
chi tiêu lớn hơn thu nhập, các đơn vị khác lại cần vốn. Sự chuyển dịch vốn này đợc
thực hiện theo sơ đồ sau:
Hình 1: Sơ đồ dịch chuyển vốn
Qua sơ đồ trên ta thấy, sự chuyển dịch vốn đợc thực hiện qua hai con đờng tài
trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp. Trong tài trợ trực tiếp, những ngời cần vốn huy
động trực tiếp từ những ngời có vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ. Các
chứng khoán này là các công cụ tài chính, nó cung cấp quyền yêu cầu về thu nhập
và tài sản và các quyền khác cho chủ sở hữu đối với ngời phát hành. Các chứng
khoán đợc mua bán rộng rãi trên thị trờng cấp một và thị trờng cấp hai. Cách thức
thứ hai để dẫn vốn là tài trợ gián tiếp thông qua các trung gian tài chính. Các trung
gian tài chính nh các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các tổ chức bảo hiểm và các
trung gian khác có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân
phối vốn trong nền kinh tế, đồng thời các tổ chức này cũng có vai trò quan trọng
trong việc cấp vốn và hỗ trợ cho dòng tài chính trực tiếp nh thông qua các hoạt
động đại lý, bảo lãnh, thanh toán...
Nh vậy, thông qua việc dẫn chuyển vốn, thị trờng tài chính có vai trò quan

trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối trong nền kinh tế, trên cơ sở đó
làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Thị trờng tài chính trực
tiếp cải thiện mức sống cho cả những ngời có vốn và những ngời cần vốn.
2.2. Xác định giá cả của các tài sản tài chính
tài trợ gián tiếp
Tài trợ trực tiếpTài trợ trực tiếpTài trợ trực tiếp
Vốn
Vốn
Trung gian tài
chính
Ng ời cho vay vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp
Ng ời đi vay vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp
3. Chính phủ
Thị trờng tài
chính
Vốn Vốn
Thông qua quan hệ giữa ngời mua và ngời bán (quan hệ cung cầu trên thị tr-
ờng) giá cả của các tài sản tài chính đợc xác định, hay nói cách khác, lợi tức yêu
cầu của tài sản tài chính đợc xác định. Vì vậy, thị trờng tài chính là nơi hình thành
nên giá cả của các tài sản tài chính - các "hàng hoá" trên thị trờng.
2.3. Tạo tính thanh khoản cho tài sản tài chính
Thị trờng tài chính cung cấp một cơ chế để các nhà đầu t có thể trao đổi, mua
bán các tài sản tài chính của mình trên thị trờng thứ cấp, nh vậy thị trờng tài chính
tạo ra tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Nếu thiếu tính thanh khoản, ngời
đầu t sẽ buộc phải nắm giữ các công cụ nợ cho tới khi đáo hạn, hoặc nắm giữ các
công cụ vốn cho tới khi công ty phá sản hoặc giải thể phải thanh lý tài sản. Mức

độ thành khoản của các thị trờng tài chính là khác nhau, nó phụ thuộc vào sự phát
triển của thị trờng.
2.4. Giảm thiểu chi phí cho các chủ thể tham gia trên thị trờng
Để cho các giao dịch có thể diễn ra, những ngời mua và những ngời bán cần
phải bỏ ra các chi phí nh chi phí tìm kiếm đối tác và tìm kiếm thông tin trong quá
trình trớc, trong và sau khi ra các quyết định đầu t. Nhờ tính tập trung, các thông
tin phục vụ quá trình đầu t đợc cung cấp đầy đủ, chính xác và nhanh chóng trên thị
trờng tài chính, từ đó cho phép giảm thiểu những chi phí đối với các bên tham gia
giao dịch và góp phần tăng hiệu quả đối với các chủ thể trên thị trờng cũng nh đối
với toàn bộ nền kinh tế.
2.5. Khuyến khích cạnh tranh và phát triển hiệu quả kinh doanh
Thị trờng tài chính là thị trờng định giá các công cụ tài chính. Vì vậy, sẽ
khuyến khích quá trình phân phối vốn một cách có hiệu quả, góp phần tăng tính
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và từ đó đặt ra cho các doanh nghiệp phải tăng
hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển.
2.6. ổn định và điều hoà lu thông tiền tệ
Thị trờng tài chính có một chức năng quan trọng là ổn định và điều hoà lu
thông tiền tệ, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Chức năng này đ-
ợc thể hiện thông qua việc mua bán các trái phiếu, tín phiếu và các giấy tờ có giá
khác của Ngân hàng Trung ơng trên thị trờng tài chính là thị trờng tiền tệ. Thông
qua đó, Chính phủ có thể huy động đợc nguồn vốn lớn để bù đắp thâm hụt ngân
sách và kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, Ngân hàng Trung ơng cũng có thể mua bán
ngoại tệ trên thị trờng ngoại hối để điều chỉnh lợng cung và cầu ngoại tệ nhằm
giúp Chính phủ ổn định tỷ giá hối đoái.
Nh vậy, thị trờng tài chính có chức năng hết sức quan trọng không những đối
với nền kinh tế mà cả đối với từng các nhân, tổ chức kinh tế. Thị trờng tài chính
tạo điều kiện cho phép vốn đợc chuyển từ ngời có tiền nhàn rỗi và không có cơ hội
đầu t hiệu quả sang cho ngời có cơ hội đầu t, có khả năng sản xuất, giúp nâng cao
năng suất và hiệu quả toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, thị trờng tài chính cũng trực
tiếp cải thiện mức sống của ngời tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho

việc mua sắm tốt hơn. Thị trờng tài chính hoạt động hiệu quả sẽ trực tiếp cải thiện
đời sống kinh tế xã hội.
II. Các thành viên thị trờng
1. Các trung gian tài chính
Các trung gian tài chính hoạt động nh là những ngời trung gian chuyển vốn từ
những ngời cho vay cuối cùng tới những ngời đi vay cuối cùng. Điểm chung của
tất cả các trung gian tài chính là huy động vốn bằng cách phát hành các phiếu nợ
của chính mình cho công chúng (tiền gửi tiết kiệm, tiền tiết kiệm và các cổ phiếu)
rồi sau đó sử dụng tiền (vay đợc) để mua các chứng khoán nh cổ phiếu, trái phiếu,
cầm cố - mortage cho chính mình.
Các cơ quan tài chính có vị trí tốt hơn so với các cá nhân trong việc gánh chịu
và phân chia các rủi ro của sở hữu chứng khoán. Nhờ có quy mô lớn nên các trung
gian có thể đa dạng hoá các loại chứng khoán và giảm tới mức tổi thiểu các rủi ro
trong việc giữ các loại chứng khoán. Họ là các chuyên gia trong việc đánh giá các
thuộc tính của tín dụng vay. Họ thuê những vị quản lý chứng khoán thành thạo và
có thể chiếm đợc lợi thế của các nền kinh tế hành chính trong việc mua và bán có
quy mô lớn.
Vì những lý do này, họ có thể chịu đựng đợc việc nhận những khoản lãi suất
thấp hơn cho các tài sản của mình và họ sẽ chấp nhận các mức lãi suất thấp hơn
nếu tình thế bắt buộc. Sự cạnh tranh giữa các trung gian tài chính ép các mức lãi
suất xuống mức thấp nhất tơng đơng với sự đánh giá của họ về những rủi ro trong
việc sở hữu chứng khoán. Những mức lãi suất này thấp hơn so với khi các chứng
khoán khởi thuỷ ở trong tay các nhà đầu t cá thể là những ngời không thể tối thiểu
hoá một cách có hiệu quả các rủi ro của mình.
Cần thấy rằng lãi suất thấp đã tạo ra nhiều thuận lợi cho mức tăng trởng kinh
tế. Mức lãi suất mà những ngời đi vay cuối cùng phải trả càng thấp thì khoản chi
phí cho đầu t thực càng thấp. Dới giác độ gánh chịu mạo hiểm ta cũng thấy đợc
tác động thuận lợi của các trung gian tài chính tới tăng trởng kinh tế. Các trung
gian có nhiều khả năng hơn so với các cá thể để gánh chịu các rủi ro trong việc
cho vay vốn. Đó là nhờ vào khả năng đa dạng hoá, các nền kinh tế có quy mô và

sự thành thạo trong việc tính toán tới việc cho vay của các cơ quan tài chính hơn
hẳn so với các cá thể. Do các trung gian tài chính ngày càng nắm một phần lớn
hơn của các chứng khoán lu thông cha đợc thanh toán nên những rủi ro do nền
kinh tế gây ra bị giảm xuống, các mức lãi suất đợc hạ thấp và các đầu t thực đợc
thực hiện nhiều hơn. Các vốn đợc chuyển từ những ngời cho vay cuối cùng, thông
qua các trung gian tới những ngời đi vay cuối cùng một cách hiệu quả hơn so với
khi không có các trung gian.
Các trung gian tài chính không phải ai khác mà chính là các cơ quan tài
chính - các ngân hàng thơng mại, quỹ tiết kiệm, các hiệp hội tích luỹ và cho vay,
các liên đoàn tín dụng, các quỹ hu trí, các công ty bảo hiểm
2. Những ng ời sử dụng cuối cùng trong hệ thống tài chính
Trong hệ thống tài chính có hai loại "ngời sử dụng cuối cùng" đó là những
ngời cho vay cuối cùng và những ngời đi vay cuối cùng.
Ngời cho vay cuối cùng thờng là các cá nhân, hộ gia đình. Mục đích cuối
cùng của họ có thể nói là làm sao nâng tới mức tối đa lợi ích tiêu dùng trong đời
sống hàng ngày. Nếu nh ở thời điểm hiện tại họ không chi tiêu hết toàn bộ thu
nhập vào tiêu dùng thì chắc chắn họ sẽ tìm một chỗ cất giữ nhất thời và chỉ huy
động để chừng nào cần tài trợ cho việc chi tiêu tiếp theo. Điều này dẫn đến hoạt
động mua tậu các tài sản tài chính. Mặc dù đôi khi các hãng kinh doanh và các cơ
quan chính phủ (của liên bang, bang và của địa phơng) cũng cho vay những khoản
đáng kể.
Những ngời đi vay cuối cùng chủ yếu là các hãng kinh doanh và các cơ quan
chính phủ, mặc dù các hộ gia đình cũng là một bộ phận quan trọng là những
ngời đi vay tín dụng tiêu dùng và những ngời đi vay cầm cố. Thị trờng tài chính
mà tại đó các hoạt động đợc diễn ra nói chung mang tên do những ngời đi vay đặt
ra - chủ yếu mang tên của loại chứng khoán khởi thủy đợc kinh doanh: thị trờng
chứng khoán chính phủ, thị trờng chứng khoán thành phố (Municipal Bond
Market), thị trờng chứng khoán công ty (Corporate Bond Market), thị trờng cầm
cố gia đình (Home Mortage Market) Song đôi khi những ngời cho vay cũng đặt
tên cho thị trờng, ví dụ nh, thị trờng đối với các khoản cho vay của các ngân hàng

(Market For Bank Loans).
3. Các nhà môi giới
Hoạt động môi giới là loại hoạt động trung gian thuần tuý. Các nhà môi giới
chứng khoán hoạt động nh các đại lý cho các nhà đầu t trong việc mua, bán chứng
khoán. Chức năng của họ là hoà hợp yêu cầu của ngời mua và bán chứng khoán,
qua đó, họ nhận đợc các khoản hoa hồng môi giới. Cơ chế tiền hoa hồng môi giới
đợc chia làm 2 loại:
- Cơ chế tiền hoa hồng định sẵn hay cơ chế tiền hoa hồng tối thiểu. Trong
trờng hợp này, chi phí môi giới do từng Sở giao dịch chứng khoán quy
định.
- Cơ chế tiền hoa hồng thoả thuận. Chi phí môi giới đợc hình thành dựa trên
sự thoả thuận giữa nhà môi giới và khách hàng trong từng giao dịch.
Đặc trng của các nhà môi giới chứng khoán là họ không nắm giữ chứng
khoán trong khi tiến hành các hoạt động dịch vụ nên không bị đặt trớc bất kỳ một
rủi ro nào có liên quan đến chứng khoán.
Căn cứ vào đặc điểm hoạt động trên thị trờng chứng khoán, hoạt động môi
giới đợc chia ra làm các loại sau:
Các nhà môi giới của hãng dịch vụ hoa hồng: Các nhà môi giới của hãng dịch
vụ hoa hồng hầu hết là các thành viên của Sở giao dịch chứng khoán. Họ là cổ
đông có quyền bỏ phiếu và là các uỷ viên quản trị (hoặc các bên góp vốn) của một
công ty môi giới. Hoạt động của họ là thực hiện các lệnh cho khách hàng của công
ty trong phòng giao dịch trên Sở nên họ đợc gọi là nhà môi giới của hàng dịch vụ
hoa hồng hay nhà môi giới trong phòng giao dịch.
Nhà môi giới độc lập (hay nhà môi giới hai đô la): Nhà môi giới độc lập là
một thành viên của Sở giao dịch chứng khoán. Anh ta không thuộc một công ty
môi giới nào mà tự thuê hoặc sở hữu chỗ để hoạt động trên Sở. Anh ta thực hiện
các lệnh giao dịch do bất kỳ một công ty môi giới nào thuê anh ta với mức định
phí trớc đây là 2 đô la/100 cổ phiếu (trong cả hai trờng hợp mua và bán). Hiện nay,
mức định phí mà các nhà môi giới độc lập đợc trả thờng lớn hơn 2 đô la/100 cổ
phiếu.

Nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký: Một số ngời mua chỗ trên Sở giao
dịch chứng khoán chỉ nhằm mục đích mua và bán chứng khoán cho chính họ.
Những ngời đó đợc gọi là nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký. Hiện nay, do sự
gia tăng các nguyên tắc, các quy định nên đặc quyền này bị hạn chế nghiêm ngặt.
Các nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký chỉ đợc hoạt động với t cách là ngời
tạo thị trờng hoặc là một nhà môi giới hai đô la.
Nhà môi giới chuyên môn: Mỗi chứng khoán niêm yết tại Sở chỉ đợc buôn
bán trên một vị trí nhất định trong phòng giao dịch. Vị trí này đợc gọi là khu.
Trong mỗi khu có một số nhà môi giới đợc gọi là những nhà môi giới chuyên
môn. Mỗi nhà môi giới chuyên môn trong số này đợc Hội đồng quản trị của Sở
chứng khoán phân công vào một khu nhất định. Anh ta mua và bán các chứng
khoán đã đợc Hội đồng quản trị phân công.
III. Phân loại thị trờng tài chính
1. Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn
Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn thì thị trờng tài chính có thể phân
chia thành thị trờng tiền tệ và thị trờng vốn.
Thị trờng tiền tệ là thị trờng tài chính trong đó các công cụ ngắn hạn (có kỳ
hạn dới một năm) đợc mua bán, còn thị trờng vốn là thị trờng giao dịch, mua bán
các công cụ tài chính trung và dài hạn (gồm các công cụ vay nợ dài hạn và cổ
phiếu). Vốn ngắn hạn chủ yếu do các ngân hàng cung cấp, còn thị trờng chứng
khoán là đặc trng cơ bản của thị trờng vốn.
Các hàng hoá trên thị trờng tiền tệ có đặc điểm là thời gian đáo hạn ngắn hạn
nên có tính lỏng cao, độ rủi ro thấp và ổn định. Thị trờng tiền tệ bao gồm: thị tr-
ờng liên ngân hàng, thị trờng tín dụng và thị trờng ngoại hối.
2. Căn cứ vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài
chính
Căn cứ vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài chính thì thị trờng tài
chính đợc chia thành thị trờng sơ cấp và thị trờng thứ cấp.
Thị trờng sơ cấp hay còn gọi là thị trờng phát hành, là thị trờng trong đó các
công cụ tài chính đợc mua bán lần đầu tiên. Do là thị trờng phát hành lần đầu nên

thị trờng này còn đợc gọi là thị trờng cấp một.

×