Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận cao học, xây DỰNG ĐẢNG về tổ CHỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.46 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh
một điều rằng: để đánh thắng được kẻ thù xâm lược, giành lại nền độc lập cho tổ
quốc và cuộc sống tự do, hoà bình cho nhân dân, thì ngoài sức mạnh tinh thần (lòng
yêu nước, ý chí căm thù giặc, yêu chuộng hoà bình…) không thôi thì không thể đánh
thắng được kẻ thù xâm lược. Điều đó đã được lịch sử chứng minh bằng sự thất bại
của các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40-43) và cuộc khởi nghĩa Bà Triệu
(248)… chống quân xâm lược phương bắc. Nên để đánh thắng được kẻ thù xâm lược
thì ngoài sức mạnh tinh thần cần có sức mạnh lực lượng quần chúng nhân dân. Nếu
kết hợp được sức mạnh của hai yếu tố đó, thì chúng ta có thể đánh bại được bất kỳ kẻ
thù xâm lược hung mạnh nào, điều đó được chứng minh bằng sự thắng lợi của quân
và dân nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên thế kỷ XIII, khởi
nghĩa Lam Sơn đánh thắng quân Minh thế kỷ XV và cuộc đánh đuổi quân xâm lược
nhà Thanh và Xiêm của Quang Trung (Nguyễn Huệ) thế kỷ XVIII.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi mà hầu hết các dân tộc ở Châu Á, Phi,
Mỹ la tinh đều nằm dưới sự thống trị và bóc lột của các nước đế quốc chủ nghĩa.
Trong đó Việt Nam nằm dưới sự thống trị và bóc lột của thực dân Pháp. Kể từ khi
Pháp tiến hành xâm lược nước ta từ 1858, đã có rất nhiều phong trào yêu nước theo
khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản nổ ra nhưng đều thất bại. Bởi vì các
phong trào yêu nước đó đều không có đường lối cách mạng đúng đắn và phát huy
được sức mạnh của quần chúng nhân dân. Từ bài học kinh nghiệm ấy và nhận ra
được tầm quan trọng sức mạnh của quần chúng nhân dân tức là sức mạnh của lực
lượng cách mạnh đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, thì ngay
khi mới ra đời năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương)
đã chú trọng đến công tác xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Chính điều
này là một trong những sự chuẩn bị và là nhân tố quan trọng cho thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám 1945, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên
của độc lập, tự do. Vì vậy để hiểu rõ hơn và làm sáng tỏ hơn quá trình xây dựng lực
lượng cách mạng do Đảng lãnh đạo (1930-1945), là điều rất cần thiết đối với mỗi
1




chúng ta, đặc biệt là đối với những nhà nghiên cứu lịch sử Đảng . để từ đó thấy rõ
hơn tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng đối với thắng lợi của
cuộc cách mạng Tháng Tám 1945. Đồng thời rút ra những kinh nghiệm về xây dựng
lực lượng cách mạng trong giai đoạn về sau. Chính vì điều đó mà em tập trung
nghiên cứu đề tài này.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ hơn về công tác xây dựng lực
lượng cách mạng của Đảng trong giai đoạn 1930-1945. Giúp cho người nghiên cứu
cũng như người đọc có cái nhìn toàn diện, sâu sắc, đánh giá đúng hơn về công tác xây
dựng lực lượng cách mạng và về thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám 1945. Đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn cách
mạng sau.
3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Với phạm vi nghiên cứu của một bài tiểu luận, trên cơ sở xác định mục đích,
nhiệm vụ của đề tài, thì đề tại tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề cơ bản
sau:
- Đường lối, chủ trương của Đảng.
- Xây dựng lực lượng chính trị.
- Xây dựng lực lượng vũ trang.
Phạm vi nghiên cứu đề tài tập trung chủ yếu 3 vấn đề nói trên, trải dài trong
khoảng 15 năm, từ khi Đảng ra đời 1930 đến thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa
tháng Tám 1945.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch
sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp với việc thu thập
và sử lý những tài liệu này giúp người nghiên cứu có cái nhìn tổng quát và đúng đắn
hơn về vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài

Kết cấu đề tài gồm 3 phần: mở đầu, nội dung gồm 3 chương , kết luận và mục
tài liệu tham khảo.
2


NỘI DUNG
Chương I: Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng
1930-1939
Vận dụng học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh và lực lượng vũ trang vào điều
kiện cụ thể nước ta, đồng thời kế thừa tư tưởng quân sự trong truyền thống đánh giặc
cứu nước của nhân dân ta, chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề xây
dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang trong nhân dân cách mạng. Người cho
rằng: bạo lực cách mạng ở Việt Nam là bạo lực cách mạng của quần chúng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, bao gồm hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị quần chúng và
lực lượng vũ trang; với hai hình thức đấu tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang. Lực lượng chính trị theo người là lực lượng là lực lượng đông đảo của
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, là lực lượng cơ bản, là nền tảng của
cách mạng và là cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, là nguồn
tiếp sức vô tận cho phát triển quân đội nhân dân. Do đó, muốn xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân cách mạng, phải xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh. Người
khẳng định: muốn có quân đội vũ trang, trước hết phải có quân đội tuyên truyền vân
động, đội quân chình trị, nên phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng
đông, ngày càng mạnh. Phải có quần chúng giác ngộ chính trị, tự nguyện vác sung thì
mới thắng lợi được. Trên đây là đôi nét của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực
lượng cách mạng và đây cũng chính là tư tưởng xuyên suốt trong đường lối xây dựng
lực lượng cách mạng của Đảng.
Kể từ khi thức dân Pháp nổ súng tiến hành xâm lược nước ta từ giữa thế kỷ
XIX, biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến với hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
đế quốc Pháp và bè lũ tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân lao động (chủ yếu là nông

dân) với địa chủ phong kiến. Kể từ đó đã có rất nhiều phong trào yêu nước nổ ra
nhằm đánh đuổi thực dân Pháp để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc nhưng đều thất

3


bại. Vì các phong trào yêu nước đó đều không có đường lối cách mạng đúng đắn và
phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc.
Để giải quyết được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc này cần có
một tổ chức cách mạng có khả năng đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân và xu thế của thời đại. Với sự chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ
chức của Nguyễn Ái Quốc, đầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Cùng lúc
đó thì mặt trận dân tộc thống nhất cũng ra đời và trong suốt quá trình cách mạng, việc
xây dựng lực lượng tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất là bộ phận hữu cơ
trong đường lối chiến lược của Đảng.
I. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị 1930-1935
1. Hoàn cảnh lịch sử
a. Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 nổ ra trong hệ thống các nước tư
bản chủ nghĩa, tàn phá nền kinh tế các nước này, đẩy lùi sản xuất về nửa thế kỷ XIX.
Giai cấp tư sản ở các nước đế quốc trút gánh nặng khủng hoảng lên vai nhân dân
trong nước và nhân dân các nước thuộc địa, nửa thuộc địa. Mâu thuẫn giữa nhân dân
với tư bản, giữa nông dân với địa chủ, giữa các nước thuộc địa và nửa thuộc địa với
các nước đế quốc, giữa các nước đế quốc với nhau trở nên gay gắt.
Trong lúc này, Liên Xô đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên phát triển nhanh
chóng về kinh tế, xã hội và văn hoá và quốc phòng. Tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa đã cổ vũ các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động các nước tư bản vùng
lên đấu tranh.
b. Tình hình trong nước
Ở Đông Dương trong đó có Việt Nam, thực dân Pháp chống đỡ những tai hoạ

của cuộc khủng hoảng bằng cách tăng cường bóc lột nhân dân. Công nhân và nông
dân là những nạn nhân trực tíêp và chịu nhiều tai hoạ nhất, Công nhân thất nghiệp
ngày càng đông, nông dân bị bần cùng, nạn đói xảy ra trầm trọng. hang vạn người
phải rời bỏ làng xã, thợ thủ công bị phá sản, nhà buôn nhỏ đóng cửa, viên chức bị sa
thải hang loạt, nhiều nhà tư sản dân tộc và tư sản nhỏ không tránh khỏi sa sút và phá
sản. Mâu thuẫn giữa nhân dân với thực dân Pháp và tay sai ngày càng gay gắt.
4


Giữa lúc đó thì Đảng Cộng sản Việt nam ra đời lãnh trách nhiệm thúc đẩy
phong trào quần chúng phát triển thành cao trào cả nước.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị
trong cao trào cách mạng 1930-1931
Mùa xuân năm 1930, từ ngày 6/1 đến 7/2 Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
họp ở Cửu Long (Hương Cảng- Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc,
với sự tham gia của hai đại biểu Đông Dương cộng sản Đảng và hai đại biểu của An
Nam cộng sản Đảng và hai đại biểu nước ngoài. Hội nghị đã nhất trí thành lập một
Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3/2/1930)1.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và cao trào cách mạng 1930-1931 đã hình thành
trên thực tế khối liên minh công nông, tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển
của cách mạng Việt Nam.
Ngay sau khi Đảng ra đời, thì công tác xây dựng lực lượng cách mạng đã được
chú trong xây dựng từng bước. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng 1930,
Đảng đã chỉ ra sự phát triển của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, phù hợp với xu thế chung của thời đại và nguyện vọng của đông đảo quần
chúng trong nhân dân, mở ra khả năng lớn để tập hợp và và thống nhất các lực lượng
yêu nước trong nhân dân.
Cương lĩnh đã chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến,
mở đường cho đất nước tiến lên xã hội cộng sản, “chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” 2. Trong đó nổi lên hàng

đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc tự do cho toàn thể đồng bào.
Cương lĩnh đã vạch ra những nguyên tắc chiến lược, sách lược nhằm xây dựng
một đội quân vững mạnh của Đảng.
Cương lĩnh chỉ rõ: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm sao cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng… thu phục được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm
thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”3.
1

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết định lấy ngày 3/2/1930 là ngày kỷ niệm thành lập
Đảng.
2
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 2.
3
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 4.

5


Ở Việt Nam lúc này giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất chiếm 90% dân
số, nhưng đời sống lại rất khổ cực do bị đế quốc và phong kiến áp bức nặng nề, nên
trong cách mạng giải phóng dân tộc này họ là lực lượng tích cực nhất chống đế quốc
và phong kiến. Mặc dù vậy, nhưng giai cấp nông dân lại không thể lãnh đạo được
cách mạng vì họ không đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nào, không có hệ
tư tưởng và vị trí chính trị độc lập. Vì vậy, trong cuộc cách mạng này họ chỉ có thể đi
theo giai cấp công nhân và chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thì giai cấp nông
dân mới được giải phóng nên Đảng phải thu phục cho được nông dân đi theo mình,
thì mới xây dựng được đội quân chính trị đông đảo được.
Giai cấp công nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân
Pháp (1897-1914), xuất thân chủ yếu từ nông dân, nên giữa công nhân và nông dân

có mối quan hệ khăng khít tự nhiên. Để tăng thêm sức mạnh của mình, giai cấp công
nhân phải biết dựa vào sức mạnh của giai cấp nông dân, người bạn đồng minh tin cậy,
có tinh thần cách mạng và lực lượng to lớn. Ngược lại giai cấp nông dân chỉ có thể
phát huy được sức mạnh của mình nếu như liên minh với giai cấp công nhân và chịu
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Trong cuộc cách mạng này công nông là lực lượng chủ yếu trong đội quân đông
đảo quần chúng cách mạng. Vì vậy, muốn xây dựng được một đội quân chính trị đông
đảo hung mạnh thì Đảng cần thắt chặt được mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân, để thực hiện được các nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng.
Trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc giai cấp, Đảng có nhận định đúng đắn
nhằm củng cố và mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách
mạng của cả dân tộc. Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định giải quyết vấn đề ruộng
đất ở Việt Nam chỉ là: “Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia
cho dân cày nghèo”4; “quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và
địa chủ phản cách mạng An Nam chia cho dân nghèo”5. đảng chỉ rõ, bọn địa chủ phản
cách mạng là bọ địa chủ giàu ôm chân đế quốc, có quyền lợi gắn liền với quyền lợi
của đế quốc. Đó là đối tượng cách mạng cần đánh đổ. “Còn đối với bọn phú nông,
trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
4
5

Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 3.
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 16.

6


dụng ít lâu mới làm cho học đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng
(Đảng lập hiến…) thì phải đánh đổ”6.
Còn đối với giai cấp tiểu tư sản, trí thức, học sinh phải kéo họ vào phe vô sản

giai cấp, vì họ có tinh thần yêu nước, rất hăng hái cách mạng và nhạy cảm với thời
cuộc.
Còn giai cấp tư sản thì ngay từ khi mới ra đời đã phân hoá làm hai bộ phận: tư
sản mại bản có quyền lợi gắn chặt với với đế quốc Pháp, là kẻ thù của dân tộc. Còn tư
sản dân tộc do bị đế quốc và tư sản mại bản chèn ép nên họ có tinh thần dân tộc.
Đảng phải biết lợi dụng họ hoặc ít ra làm cho họ trung lập, dần dần kéo họ về phía vô
sản để chống kẻ thù chung. Đây là một sách lược hết sức đúng đắn của đảng để huy
động sức mạnh dân tộc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Như vậy, ngay từ khi ra đời, đảng đã đề ra chủ trương hợp lý để liên minh các
giai cấp , tầng lớp nhằm thực hiện mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc. Mặc dù
vậy, đảng cũng chỉ rõ: “trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không
khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thoả hiệp”7.
Chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng đã thu hút đông đảo các tầng lớp
tham gia cách mạng, dấy lên một cao trào đấu tranh chưa từng có mà đỉnh cao là cao
trào với sự ra đời của Xô Viết Nghệ -Tĩnh. Trong cao trào, khí thế của quần chúng
công nông lên cao đã lôi cuốn phú nông, nhiều địa chủ vừa và nhỏ ở các “làng đỏ”
gia nhập các hội; lôi cuốn các tầng lớp nhân dân từ miền xuôi đến miền ngược, từ
Bắc đến Nam, các dân tộc thiểu số và đa số.
Cũng qua cao trào, giúp đảng nhìn nhận và đánh giá đúng năng lực phản đế cuả
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội như giai cấp địa chủ, tư sản mại bản và giai cấp
tiểu tư sản.
Từ ngày 14-30/10/1930 Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng
họp tại Hương Cảng, do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã nhận thấy tầm quan
trọng và tính cấp thiết của cuộc vận động, tập hợp lực lượng quần chúng. Án nghị
quyết và vấn đề phản đế được hội nghị thông qua nhận định: Ở Đông Dương có nhiều
lực lượng phản đế mà hiện nay cần phải liên hiệp lại thành một phong trào cách mạng
6
7

Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 4.

Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 4.

7


thống nhất để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mưu giải phóng cho xứ Đông Dương. Phê
phán những nhận thức sai, xem nhẹ các “đoàn thể phản đế”. Từ nhận định đó, nghị
quyết chỉ rõ: “Việc tổ chức phản đế là một nhiệm vụ cần kíp của Đảng, thế mà từ
trước đến giờ, không có một cái kế hoạch cho xác đáng để tổ chức hội ấy”.
Mục đích của Hội phản đế là đoàn kết các lực lượng phản đế để đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa, mưu việc hoàn toàn độc lập cho các xứ Đông Dương và bênh vực
phong trào giải phóng thuộc địa và bán thuộc địa. Làm cho Hội ấy có tính chất quần
chúng, hoạt động công khai, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh hang ngày của
công nông.
Nghị quyết về vấn đề phản đế của Đảng tại Hội gnhị trung ương tháng
10/1930, những phác hoạ cụ thể đầu tiên về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất
nhằm tập hợp lực lượng toàn dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cho nên không
tránh khỏi những sai lầm thiếu sót. “Luận cương chính trị” đánh giá các giai cấp, tầng
lớp có một số quan điểm khác với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Luận
cương chính trị khẳng định vai trò cách mạng của công nông, coi công nông là động
lực chính của cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc phải diễn ra với sức mạnh
của chính khối liên minh công nông. Còn các giai cấp, tầng lớp khác, Đảng có nhận
thức, đánh giá khác với Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
Còn đối với tư bản thương mại, tư bản công nghiệp, khi phong trào quần chúng
nổi lên cao thì bọn này sẽ theo đế quốc. Còn tiểu tư sản có nhiều hạng: thủ công
nghiệp đối với phong trào cách mạng vô sản, hang này cũng có ác cảm… rất do dự.
Bọn thương gia không tán thành cách mạng. Trí thức, tiểu tư sản, học sinh… đại biểu
quyền lợi cho tất cả giai cấp tư sản bản xứ.
Về nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư sản dân quyền: là đánh đổ phong kiến,
thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp. Hai mặt

đó có quan hệ mật thiết, trong đó vấn đề ruộng đất là cái cốt của cách mạng tư sản
dân quyền. Như vậy, Luận cương đã nhấn mạnh vấn đề đấu tranh giai cấp, không
thấy được kẻ thù cần tập trung đánh đổ là thực dân Pháp, phải đặt nhiệm vụ chống đế
quốc lên hàng đầu.

8


Với nhận thức trên “Luận cương tháng 10” chỉ bó hẹp lượng cách mạng trong
phạm vi công nông, còn các giai cấp, tầng lớp khác, bị đẩy ra xa cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc. Vì vậy, Đảng đã không phát huy được mọi nhân tốc dân tộc dân tộc,
chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chung là đế quốc, phong kiến để giành lại độc lập, tự do.
Những quan niệm của Đảng trong “Luận cương tháng 10” và án nghị quyết
xuất phát từ nhận thức chưa chính xác, giáo điều do không hiểu biết đầy đủ về tình
hình, đặc điểm giai cấp, xã hội, chưa đánh giá hết động lực to lớn của chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam… của một số lãnh đạo Đảng, nhất là do ảnh hưởng tả của Quốc tế
cộng sản lúc đó.
Thực tiễn sinh động của cao trào 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh
là chất liệu được phản ánh trong chỉ thị của Ban thường vụ trung ương Đảng về vấn
đề thành lập Hội phản đế đồng minh ngày 18/11/1930.
Chỉ thị nhắc lại những quan điểm đúng đắn của chánh cương vắn tắt, sách lược
vắn tắt: cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương đã phân tích rõ giai cấp công
nhân không đồng minh với nông dân thì không đánh đổ được đế quốc Pháp. Mặt
khác, không tổ chức được toàn dân lại thành lựclượng thật, thật kín thì cuộc cách
mạng khó mà thành công.
Trên cơ sở nhận thức trên, thường vụ trung ương Đảng quyết định thành lập
Mặt trận phản đế đồng minh “hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc…
cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp.
Hội nghị Trung ương tháng 3/1931 đã phê phán những sai lầm như cưỡng bức
dân chúng đi đấu tranh trong khi họ chưa được giác ngộ. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ

tiếp tục phát triển các tổ chức nông hội, công hội đỏ… để thu hút quần chúng nhưng
lại không đề cập phải rtanh thủ các tầng lớp khác như địa chủ, phú nông… có tinh
thần dân tộc chống đế quốc, phong kiến.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã góp phần hình thành trên thực tế khối liên
minh công nông, phong trào của các tầng lớp nhân dân. Đó chính là nền tảng cho sự
ra đời của mặt trận dân tộc thống nhất Đông Dương.
3. Thời kỳ vừa đấu tranh khôi phục các tổ chức Đảng và phong trào cách
mạng, vừa lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị (1932-1935)
9


Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang dâng cao. Sauk hi Xô viết
Nghệ Tĩnh ra đời, đế quốc Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp hòng dập tắt phong trào
cáchmạng Việt Nam và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương.
Hàng chục vạn chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước đã bị bắt và giết hại.
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở trung ương và địa phương lần lượt bị phá vỡ. Toà
án của thực dân Pháp mở các phiên toà đặc biệt để xét xử những người cách mạng.
Đi đôi với khủng bố, tàn sát, thực dân Pháp tìm cách lừa bịp, mị dân: tăng số đại
biểu người Việt ở các viện dân biểu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, ở Hội đông quản hạt
Nam Kỳ và các hội đồng thành phố, đề ra cải cách giáo dục, cho địa chủ lớn và tư sản
mại bản một số quyền lợi.
Sự khủng bố và lừa bịp của thực dân Pháp không làm cho những chiến sĩ cách
mạng và quần chúng yêu nước từ bỏ con đường cách mạng, rất nhiều cuộc đấu tranh
của công nhân, nông dân vẫn nổ ra.
Các đảng viên cộng sản trong nhà tù Hoả Lò (Hà Nội), Kham Lớn (Sài Gòn), Hải
Phòng, Côn Đảo, Kon Tum… đã thành lập các chi bộ Đảng để lãnh đạo đấu tranh
chống chế độ nhà tù hà khắc, đòi cải thiện đời sống và tổ chức học tập, biến nhà tù đế
quốc thành trường học cách mạng.
“Biến được cái rủi thành cái may, các đồng chí đã lợi dụng được những ngày
tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính

sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù… nó rèn luyện cho người cách mạng càng
them cứng rắn mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”8.
Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố tàn bạo, một số tổ chức Đảng ở Cao Bằng,
Hải Phòng, Nam Định… đã bám chắc quần chúng để hoạt động. Các đồng chí vượt tù
đã tích cực tham gia khôi phục các tổ chức Đảng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Năm 1932 theo chỉ thị của quốc tế cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong và một số
đồng chí cán bộ chủ chốt tổ chức ban lãnh đạo trung ương Đảng. Tháng 6/1932, ban
lãnh đạo trung ương đã ra bản chương trình hành động củ Đảng Cộng sản Đông
Dương được Quốc tế cộng sản công nhận. Chương trình hành động của Đảng đặt vấn
đề phải lợi dụng hết thảy các hình thức đấu tranh công khai hợp pháp, nửa hợp pháp,
8

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, NxbCTQG, HN, 2000, trang 3-4.

10


gấp rút tổ chức quần chúng đấu tranh bằng nhiều hình thứuc khác nhau. Chương trình
cũng đưa ra những yêu cầu cụ thể về kinh tế- chính trị- xã hội cho mỗi giai cấp, tầng
lớp, các tổ chứ đoàn thể nhằm đấu tranh đòi những quyền lợi thiết thân hàng ngày,
từng bước tiến tới dẫn dắt quần chúng tiến tới đấu tranh đòi những yêu cầu cao hơn.
Từ thực tiễn cách mạng những năm qua, đã giúp đảng nhìn nhận, đánh giá đúng
các giai cấp, tầng lớp nhân dân. Tư sản mại bản và đại địa chủ là những kẻ tôi tớ
trung thành của đế quốc, đó là đối tượng cần đánh đổ. Tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ bị
chèn ép có tinh thần chống đế quốc. Giai cấp tư sản hoang mang, dao động, nhưng họ
luôn có tinh thần yêu nước. Nếu được động viên giáo dục, tổ chức họ sẽ hăng hái
tham gia cách mạng.
Năm 1934, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng được thành lập, các xứ uỷ Trung Kỳ,
Bắc Kỳ, Nam Kỳ được lập lại. Nhiều cơ sở Đảng được phục hồi, hệ thống tổ chức
Đảng được khôi phục. Phong trào quần chúng lại được tiép tục vươn lên.

Tháng 3/1935, đại hội lần thứ nhất của Đảng họp ở Macao (Trung Quốc) đã nhận
định sức mạnh của Đảng là dựa trên uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng.
Đại hội nhấn mạnh công tác tranh thủ rộng rãi quần chúng là nhiệm vụ quan trọng
nhất. Đại hội đã thông qua nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, binh lính,
thanh niên, phụ nữ… Điều đó chứng tỏ đảng tiếp tục chú ý xây dựng lực lượng cách
mạng, lấy đó làm cơ sở để đảng khôi phục và phát triển,chuẩn bị phát động phong
trào đấu tranh mới.
Đại hội đã ra quyết định thành lập tổ chức phản đế liên minh. Đay là tổ chức tập
hợp tất cả các lực lượng phản đế ở Đông Dương, bao gồm tất cà những đảng phái,
đoàn thẻ, tổ chức, lớp, nhóm có tính chất cách mạng kể cả những phần tử lẻ tẻ, với
những hình thức và biện pháp đấu tranh phong phú.
Đối với các đảng pháỉ cải lương, phản động thì tổ chức mặt tận phản đế bên dưới
với các đoàn thể của tiểu tư sản có thể thống nhất bên dưới, vừa thống nhất bên trên.
Trong khi thành lập được Mặt trận thống nhất phản đế, Đảng phải đưa ra khẩu
hiệu tối thiểu, đề ra những sang kiến lãnh đạo mặt trận,với những chủ trương trên cho
thấy đường lối của Đảng về thành lâpk phản đế liên minh đã có sự linh hoạt, mềm
dẻo hơn.
11


Đảng đã chủ trương liên minh với tất cả các Đảng cải lương, những phần tử phản
cách mạng lẻ tẻ để tăng cường lực lượng phản đế. Điều đó cho thấy Đảng đã có bước
tiến mới trong việc xây dựng lực lượng cách mạng.
Từ Hội phản đế đồng minh (1930) đến tổ chức phản đế liên minh (1935) được
hình thành cả hai tổ chức đó đều đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và tập
hợp lực lượng quần chúng đấu tranh trong cả nước và là sự chuẩn bị lực lượng cách
mạng cần thiết cho cách mạng tháng tám sau này.
II. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng trong cao trào cách mạng 1936-1939
1. Hoàn cảnh lịch sử
a. Tình hình thế giới

Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và nguy cơ của một cuộc
khủng hoảng kinh tế mới làm mâu thuẫn xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa them sâu
sắc. Các nước đế quốc Đức, Italia, Nhật Bản thiết lập chế độ phát xít, chuẩn bị chiến
tranh để chia lại thế giới và từ 1935 tiến hành xâm lược một số nước. Mâu thuẫn giữa
phát xít Đức, Italia, Nhật Bản và Anh, Pháp, Mỹ trở nên gay gắt. Mâu thuẫn giữa các
nước đế quốc đối với Liên Xô cũng rất sâu sắc, phong trào đầu tranh chống phát xít,
chống chiến tranh nổi lên ở nhiều nước.
Tháng 7/1935, đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản được triệu tập tại
Matxcơva. Đoàn đại biểu của đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí lê Hồng
Phong dẫn đầu đến tham dự đại hội.
Đại hội xác định ke thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới lúc này
chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chúng mà là chủ nghĩa phát xít, nhiệm vụ trước
mắt của giai cấp công nhân chưa phải là đấu tranh chống lại toàn bộ chủ nghĩa tư bản
mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ, hoà bình,
bảo vệ Liên Xô. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, cần phải thành lập mặt trận thống nhất
của giai cấp công nhân và thiết lập mặt trận thống nhất rộng rãi chống phát xít và
chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống.
Ở Pháp, Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành lập do Đảng Cộng sản
Pháp làm lòng cốt đã giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử tháng 4/1936, thành lập
chính phủ phái tả gồm những người thuộc đảng Xã hội và Đảng cấp tiến. đối với các
12


nước thuộc địa, cương lĩnh của mặt trận nhân dân Pháp nêu ra việc thả tù chính trị, cử
các phải đoàn điều tra tình hình thuộc địa, đặc biệt là ở Đông Dương, thi hành một số
cải cách cho giới lao động.
b. Tình hình trong nước
Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và cuộc khủng bố trắng
kéo dài sau cao trào 1930-1931 cùng với những thủ đoạn vơ vét, bóc lột nặng nề của
thực dân Pháp, cuộc sống của các giai cấp và tầng lớp nhân dân, kể cả những tư sản

dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ rất khó khăn. Nguyện vọng của nhân dân lúc này là đòi
quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình.
Trong khi đó bọn cầm quyền ở Đông Dương đã phát xít hoá bộ máy chính
quyền, chúng ra sức bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, kéo dài chính sách khủng
bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
Tình hình trên đây làm cho nhân dân ta bao gồm nhiều giai cấp, tuy có quyền
lợi khác nhau, càng thêm căm thù bè lũ thực dân, tư bản độc quyền Pháp và đều có
nguyện vọng chung trước mắt về quyền lợi dân sinh dân chủ, trừ một nhòm tư sản
mại bản chỉ cam tâm làm tôi tớ cho bọn cướp nước. Vì thế, yêu cầu cải cách và cải
thiện đời sống nhân dân là một đòi hỏi bức thiết đối với mọi giai cấp và tầng lớp xã
hội, kể cả bộ phận lớp trên.
Lúc này cơ sở đảng và cơ sở quần chúng đã được khôi phục và dựa trên trận
địa cách mạng cơ bản được tạo ra khá vững chắc trong thời kỳ 1932-1935. đây là một
yếu tố rất quan trọng, quyết định bước phát triển của cách mạng thành một cao trào
mới.
2. Chủ trương của Đảng về xây dựng lực lượng trong thời kỳ vận động dân
chủ 1936-1939
Trước tình hình thế giới và trong nước như vậy, thì tháng 7/1936, Hội nghị ban
chấp hành trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã kịp thời chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh trong
thời kỳ mới.
Hội nghị khẳng định mục tiêu chiến lược vẫn là chống đế quốc và chống phong
kiến, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, song mục tiêu trước mắt là
13


đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi
tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình. Hội nghi quyết định thành lập Mặt trận dân chủ
thống nhất nhân dân phản đế phối hợp với Đảng cộng sản và nhân dân lao động
chống phát xít, phản động thuộc địa, đông thời nêu ra khẩu hiệu ủng hộ chính phủ

Pháp nhằm đòi thực hiệnc các yêu cầu dân chủ cho nhân dân Đông Dương.
Hội nghị chủ trương hình thức bí mật sang hình thức tổ chức công khai, hợp pháp
và nửa hợp pháp nhằm thực hiện quần chúng rộng rãi, giáo dục và lãnh đạo quần
chúng đầu tranh. Để giữ vững sự lãnh đạo đối với các hình thứuc tổ chức và đấu tranh
công khai hợp pháp. Đảng cần củng cố tổ chức bí mật của Đảng.
Hội nghị tháng 7/1936 đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến
lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh
công nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai
cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp và
trên thế giới. Đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt thích hợp nhằm
hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hang ngày, chuẩn bị cho những
cuộc đấu tranh cao hơn vì nền độc lập và tự do. Nghị quyết hội nghị đánh dấu một
bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh, tinh thần độc
lập, sang tạo của Đảng, mở ra một cao trào mới trong cả nước.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ những năm 1936, khẳng
định chủ trương đúng đắn của Đảng ta trong việc tập hợp rộng rãi lực lượng chi9nhs
trị, nên đội quân chính trị của Đảng ngày càng đựoc củng cố và mở rộng rãi hơn.
Hàng ngàn cuộc đấu tranh của lực lượng chính trị do Đảng lãnh đạo, đã nổ ra với
những hình thức phong phú, bí mật, công khai, nửa công khai với hình thức đấu tranh
linh hoạt qđòi quyền dân sinh dân chủ, tự do, hoà bình như: đấu tranh đòi thả tù chính
trị, tự do báo chí, văn hoá, lợi dụng dân biểu, Hội đồng quản hạt. hình thức đấu tranh
lôi kéo được nhiều trí thức học sinh. Đỉnh cao là những cuộc đấu tranh này là cuộc
mít tinh của hai vạn người tại quảng trường đấu xảo Hà Nội kỷ niệm ngày quốc tế lao
động 1/5/1938. Trong thực tiễn đấu tranh Đảng đã tập hợp được một đội quân chính
trị rộng lớn.

14


Tuy nhiên trong giai đoạn này, một bộ phận đảng viên có tư tưởng tả, đưa ra

những yêu cầu quá cao đối với các giai cấp, tầng lớp nhân dân khi họ muốn tham gia
mặt trận, đề ra khẩu hiệu quá cao trong đấu tranh quần chúng, cùng với nó lại có
những Đảng viên có tư tưởng hữu khuynh, họ đề cao hình thức đấu tranh côgn khai
hợp pháp, ít chú ý đến những cuộc đấu tranh của đông đảo quần chúng nhân dân, mà
chỉ chú ý đến những tầng lớp bên trên. Chính hai tư tưởng này đã ngăn cản phong
trào cách mạng đi lên.
Tháng 8/1938, Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng họp, xác định nhiệm vụ
trung tâm là thành lập mặt trận dân chủ Đông Dương, đề ra những chủ trương cụ thể
về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, các tầng lớp tiểu tư sản thành
thị, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ. Hội nghị nhắc nhở đấu tranh chống khuynh hướng tả
đưa khẩu hiệu quá cao, tư tưởng hẹp hòi đối với trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ
và chống khuynh hướng hữu coi thường phong trào đấu tranh của công nông, thiết
kiên quyết chống bọn Tờ-rớt-kit. Thông qua tác phẩm “Tự chỉ trích” của Tổng bí thư
Nguyễn Văn Cừ, cho thấy những kinh nghiệm thành công trong việc xây dựng và tập
hợp lực lượng.
Tổng kết hoạt động của mặt trận dân chủ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nêu lên mấy
bài học kinh nghiệm: Mặt trận dân chủ là sự liên hiệp các giai cấp, các đảng phái tán
thành cải cách, nhưng không thể liên hiệp được với các đảng phái phản động, vừa
liên minh bên trên, vừa liên minh bên dưới, phân biệt kẻ thù nguy hiểm nhiều với kẻ
thù nguy hiểm ít, cô lập bọn phản động, tranh thủ người tiến bộ và lưng chừng, tranh
thủ đông đảo quần chúng trong các đảng phái cải lương, liên minh với giai cấp tư sản,
phải vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, Mặt trận dân chủ đoàn kết được đông đảo quần
chúng, đòi những quyền tự do tư sản, chống phát xít nhưng không phải duy trì mãi
chế độ tự do tư sản mà để tiến lên chế độ tự do cao hơn.
Nhờ chính sách đúng, lại có phương pháp vận động khôn khéo, phương pháp đấu
tranh linh hoạt, Đảng đã động viên hàng triệu quần chúng vào mặt trận đấu tranh, bao
gồm công nhân, nông dân, trí thức, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ, hình thành đội
quân chình trị rộng lớn, thực sự là bước phát triển mới trong xây dựng lực lượng cách
mạng, là một trong những thành quả nổi bật của cao trào cách mạng 1936-1939. Đó
15



là bước tiến mới trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng về xây dựng lực
lượng cách mạng. Khuyết điểm của Đảng là lãnh đạo không sát, nhiều nơi cán bộ
phạm vào bệnh hẹp hòi, bệnh công khai, say sưa với thắng lợi bộ phận mà sao lãng
việc củng cố công tác bí mật.
Mặc dù còn nhiều thiết sót nhưng những thắng lợi dành được trong cuộc vận
đông dân chủ 1936-1939. Đảng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ đông đảo, dày
dặn trong đấu tranh, trưởng thành về tư tưởng chính trị, tổ chức và tích luỹ được
nhiều kinh nghiệm mới.

16


Chương II: Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng tiến
tới vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền
1939-1945
I. Hoàn cảnh lịch sử
1. Tình hình thế giới
Ngày 1/9/1939, Phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng
nổ. Quân Đức tiến công sang phía Tây trước, đến đầu 1941, đã chiếm đựoc hầu hết
các nước Tây Âu và Đông Âu tư bản chủ nghĩa. Nhật Bản mở rộng chiếm đóng
Trung Quốc, tiến xuống Đông Nam Á.
Ngày 22/6/1941, Đức bất ngờ tiến công Liên Xô. Ngày 8/12/1941, Nhật bản bất
ngờ tấn công trân châu cảng ở Quần đảo Ha Oai (Mỹ), chiến tranh lan sang châu ÁThái Bình Dương. Từ khi phát xít Đức tấn công sang Liên Xô, tính chất chiến tranh
đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột
với lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
2. Tình hình trong nước
Chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến nước ta.
Chính phủ phản động thực dân Pháp thực hiện chính sách đàn áp các lực lượng cộng

sản và tiến bộ ở trong nứoc và ở thuộc địa.
Ở Đông Dương thực dân Pháp điên cuồng tấn công Đảng Cộng sản Đông Dương
và các đoàn thể quần chúgn do Đảng lãnh đạo. Một số quyền tự do, dân chủ giành
được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Đông chí Lê Hồng Phong bị bắt cuối tháng
9/1939. Nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt giam, tù đày. Hàng vạn thanh niên bị bắt lính
để đưa sang Pháp.
Thực dân Pháp tăng thuế, trưng thu, trưng dụng các xí nghiệp tư nhân cho quốc
phòng, kiểm soát trực tiếp, gắt gao sản xuất và phân phối, sản xuất và nhập khẩu. Trừ
bọn tay sai của Pháp, địa chủ lớn và tư sản mại bản, tất cả các giai cấp và tầng lớp
trong xã hội Việt Nam đều bị ảnh hưởng tai hại bởi chính sách phản động của đế quốc
Pháp.
II. Chủ trương của Đảng trước tình hình mới
17


1. Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1939
Trước những biến động của tình hình thế giới và trong nước. Tháng 11/1939,
Trung ương Đảng họp Hội nghị tại bà Điểm (Gia Định), gồm các đồng chí Nguyễn
Văn Cừ, Lê Duẩn, Nguyễn Thị Minh Khai… Hội nghị nhấn mạnh “giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương”, “Cách mệnh phản đế và điền
địa là hai cái mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền… Các nguyên tắc ấy không
bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải được ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để
thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc”9.
Dựa trên sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược ấy. Hội nghị chủ trương tạm gác
khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của giai cấp địa chủ, chỉ đề ra chính sách chống địa tô
cao, chống cho vay nặng lãi và tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội lại
quyền lợi dân tộc chia cho dân cày; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xô Viết công
nông binh bằng khẩu hiệu thành lập chính phủ cộng hoà dân chủ. Hội nghị quyết định
thành lập mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương. Lực lượng chính của cách mạng là
công nhân, nông dân, trí thức đoàn kết với tiểu tư sản thành thi và nông thôn, đồng

minh hoặc trung lập giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ, do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Như vậy trước những biến động trên thế giới và trong nước, Đảng đã
kịp thời điều chỉnh chiến lược cách mạng phù hợp với tình hình thực tế để tập hợp
quần chúng vào mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương nhằm thựuc hiện các mục
tiêu cách mạng.
2. Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1940
Tháng 11/1940, Hội nghị trung ương Đảng họp ở Đình Bảng (Bắc Ninh). Hội
nghị khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược mà hội nghị trung ương tháng
11/1939 đề ra đúng đắn. Hội nghị xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là
phát xít Pháp- Nhật.
Hội nghị quyết định duy trì lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn- đơn
vị tập trung đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng do Đảng lãnh đạo. Hội nghị
quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì chưa đủ điều kiện (nhưng do liên lạc
khó khăn, quyết định của trung ương không kịp truyền đi kịp, nên cuộc khởi nghĩa
9

Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, NxbCTQG, HN, 2000, trang 58.

18


vẫn nổ ra). Với những chủ trương trên của Hội nghị trung ương Đảng, về cơ bản lực
lượng vũ trang đã được hình thành nằm dưới sự lãnh đạo của đảng. đây là bước
chuẩn bị quan trọng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang tiến tới tổng khởi nghĩa
tháng Tám thắng lợi sau này.
3. Hội nghị trung ương Đảng tháng 5/1941
Sau khi về nước ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị
Ban chấp hành trung ương Đảng tại Pác Bó (Cao Bằng). Từ sự phân tích diễn biến
của chiến tranh thế giới và tình hình trong nước, hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ
yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc.

Hội nghị khẳng định tính đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất của Hội nghị trung ương tháng 11/1939, tập trung chĩa mũi nhọn chống đế
quốc và tay sai giành độc lập dân tộc, đồng thời nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia
lại ruộng công, tiến tới người cày có ruộng. Hội nghị chỉ rõ, sau khi đánh đuổi đế
quốc Pháp- Nhật, sẽ thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà; Hội nghị quyết định thay tên các Hội phản đế thành hội cứu quốc. Thành lập
Mặt trận Việt nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thay cho mặt trận dân tộc phản đế
Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào và Cam Pu Chia.
Hội nghị xác định hình thái khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần
tiến lên tổng khởi nghĩa là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân.
Hội nghị trung ương Đảng tháng 5/1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã
hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng nhằm giải quyết
mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra chủ trương sáng tạo nhằm
thực hiện các mục tiêu ấy. Cùng với nghị quyết Hội nghị trung ương tháng 11/1939
có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945.
III. Đảng xây dựng lực lượng cách mạnh
1. Xây dựng căn cứ địa cách mạng
Ngày 28/1/1941, tại cột mốc 108 đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã trở về tổ quốc sau
30 năm buôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người đã chọn pác Bó
(Cao Bằng) là nơi dừng chân đầu tiên sau khi trở về lãnh đạo, chèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam. Chính pác Bó (Cao Bằng) là nơi Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập
19


Hội nghị trung ương Đảng tháng 5/1941. Đây là hội nghị có ý nghĩa quan trọng đối
với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 sau này.
Cuối năm 1941, khi chính thức chọn Cao Bằng làm nơi xây dựng căn cứ địa cách
mạng đầu tiên, Người nói: “căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách
mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ
sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải tiến về Thái Nguyên và

thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc vơi toàn quốc được, có nối phong trào với Thái
Nguyên thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể công, lúc khó khăn
có thể thủ”.
Cùng với căn cứ địa Cao Bằng, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn 1940, thì căn cứ địa
Bắc Sơn- Vũ Nhai cũng được thành lập. đây là cơ sở có rất nhiều đội du kích đựơc
thành lập hoạt động, theo chủ trương của Đảng từ sau thất bại của cuộc khởi nghĩa
Bắc Sơn.
Thực hiện chỉ thi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 4/6/1945, tổng bộ Việt Minh
triệu tập hội nghị cán bộ và tuyên bố chính thức thành lập khu giải phóng gồm 2 căn
cứ lớn nằm trên 6 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn Thái Nguyên, Hà Giang,
Tuyên Quang) và một số vùng thuộc ngoại tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên
bái. Trong khu giải phóng, các uỷ ban nhân dân do dân cử được hình thành, tổ chức
thực hiện 10 chính sách lớn của mặt trận Việt Minh.
Khu giải phóng với một triệu người gồm nhiều dân tộc khác nhau thực sự là “hình
ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới”, cùng với các hệ thống chiến khu trong cả nước
tạo thành hậu phương và bàn đạp cho thế tổng tiến công giành chính quyền tháng
Tám 1945.
2. Xây dựng lực lượng chính trị
Để tiếp tục xây dựng và phát triển lực lượng chính trị tiến tới tổng khởi nghĩa
tháng Tám giành chính quỳên 1945. Ngay từ Hội nghị trung ương đảng tháng
11/1939, Đảng đã nhận định nhiệm vụ chấn chỉnh các tổ chức quần chúng và quyết
định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương để liên hiệp tất cả
các dân tộc ở Đông Dương, tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế

20


muốn giải phóng dân tộc, đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bản xứ và bọn tay sai đế
quốc.
Với chủ trương trên, cho thấy Đảng đã vận dụng khéo léo 2 nhiệm vụ của cách

mạng tư sản dân quyền là chống đế quốc và chống phong kiến để thực hiện nhiệm vụ
cốt yếu của cách mạng, là đánh đổ đế quốc. Đảng cho rằng phải “đứng trên lập
trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc lam tối cao, tất cả mọi vấn đề của
cách mệnh, cả vấn đề điện địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết ” 10.
Việc xây dựng lực lượng cach mạng đươc tập hơp trong một tổ chức mặt trận mới
thích hợp hơn. Lực lượng chính của măt trận là công, nông, trung, tiểu địa chủ dưới
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Chủ trương về xây dựng và phát triển lực lượng chính trị được đề ra từ hội nghị
trung ương tháng 11 – 1939 của Đảng, tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện ở hội nghị
trung ương tháng 5 – 1941. Sau khi nhận định tình hình, hội nghị khẳng định “trong
lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi đươc độc
lập,tự do cho toàn thể dân tộc,thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của đại bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
lại được”11.
Trên tình thần đó, hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh (Việt Minh), bao gồm các tổ chưc quần chúng lấy tên là hội cứu quốc nhằm:
liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ,
gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc
giải phóng dân tộc và sinh tồn. Ngay khi ra đời, Mặt trận Việt Minh đã thông qua 10
chính sách lớn mà tinh thần cơ bản là ích nước, lợi nhà. Những chủ trương và chính
sách đó phù hợp vốimị tầng lớp nhân dân nên đã thu hút đươc ngày càng nhiều các
giai cấp, tầng lớp yêu nước đánh thức được tinh thần dân tộc trong nhân dân.
Tháng 2 – 1943, Ban thường vụ trung ương Đảng họp bàn việc mở rộng Măt trận
dân tộc thống nhất, chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Hội nghị nhận định phong trào việt
minh đã phát triển ở nông thôn , mền núi nhưng phong trào ở đô thị còn yếu, phong
trào công nhân chưa mạnh đồng thời còn yếu ớt. Từ nhận định đó phong trào đề ra
10
11

văn kiện Đảng toàn tập: tập 6,NXBCTQG,HN.2000,Tr.539

văn kiện Đảng toàn tập: tập7,NxbCTQG,HN.2000.Tr.113

21


biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong trào quần chúng rộng khắp, đặc biệt chú
trọng công tác vận động. Đồng thời phải mở rộng phong trào đấu tranh của thanh
niên, học sinh, trí thức nhằm làm cho cuộc khởi nghĩa mang tính chất toàn dân.
Quán triệt tinh thần đó, từ năm 1943 đến 1945, phong trào việt minh phát triển
mạnh trong công nhân, nông dân nghèo, phong trào học sinh, sinh vên, trí thức ở
thành phố cũng bắt đầu phát triển. đảng đã đẩy mạnh tuyên truyền đường lới cứu
nước, cổ vũ quần chúng lên trận tuyến đấu tranh cách mạng.
Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hoá Việt Nam, thành lập hội văn hóa
cứu quốc Việt Nam và tháng 6 – 1941, Đảng dân chủ Việt Nam ra đời , đã thu hút các
nhà trí thức, tư sản dân tộc, các nhà hoạt động văn hoá, thanh niên công chức,… khi
ra đời các tổ chức này đều tham gia Mặt trận Việt Minh. Cùng với đó Đảng cũng tăng
cường công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội pháp và tranh thủ cả
những ngoại kiều ở Đông Dương có tinh thần chống phát xít chủ yếu là người pháp
thuộc phái kháng chiến và hoa kiều chống Nhật.
Lực lượng chính trị được Đảng dày công xây dựng từ năm 1930 đã từng bước
phát triển và ngày càng trưởng thành vững mạnh. Đó là cơ sở để Đảng từng bước xây
dựng lực lượng vũ trang. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Muốn có đội quân vũ
trang phải có đội quân tuyền vận động, đội quân chính trị trước đã. Nên việc này phải
làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng đông. Như ở nước ta nếu muốn đánh
Pháp - Nhật thì ai vác súng? Ai là người tự nguyện vác súng? Ta phải có quần chúng
giác ngộ chính trị tự nguyện thì mới thắng được.

3. Xây dựng lực lượng vũ trang
Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng rất coi trọng công
tác xây dựng lực lượng vũ trang. Hội nghị trung ương Đảng tháng 5/1941, khẳng

định: cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương hiện nay phải được giải
quyết bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Đảng chủ trương xây dựng lực lượng vũ
trang từ thấp đến cao, như các đội tự vệ cứu quốc, các tổ chức du kích cứu quốc và
các đội du kích.
22


Cùng với các cuộc đấu tranh chính trị diễn ra sôi nổi, thì ở một số địa phương đã
diễn ra những cuộc khởi nghĩa vũ trang. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn
(27/9/1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940). Đó chính là tiếng súng báo hiệu khới
nghĩa vũ trang nhân dân đã hình thành. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, theo chủ
trương của Đảng một bộ phận lực lượng vũ trang khởi nghĩa chuyển sang xây dựng
thành các đội du kích, hoạt động ở căn cứ địa Bắc Sơn- Vũ Nhai, về sau dược thống
nhất thành cứu quốc quân.
Ngày 22/12/1944, Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập “đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân” hoạt động theo phương châm: “chính trị trọng hơn quân sự, dựa vào
dân và vận động toàn dân kháng chiến”: lực lượng vũ trang ra đời đã đánh thắng liên
tiếp hai trận Phay Khắt, Nà Ngần (Cao Bằng).Tỉnh Cao Bằng thực sự la mũi nhọn
chiến đấu, hỗ trợ đắc lực các lực lượng chính trị, kết hợp đấu tranh chính trị vơi quân
sự, xây dựng cơ sở cách mạng thúc đẩy mạnh mẽ phong trào trong cả nước. Sau cuộc
nổi dậy của anh em tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ (Quảng Ngãi), chiếm binh đồn giặc,
thành lập chính quyền cách mạng, thì đội du kích Ba Tơ cũng được thành lập.
Công tác xây dựng lưc lượng vũ trang tiếp tục được phát triển và hoàn thiện, ngàu
15/4/1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp. Hội nghị quyết định thống nhất
các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng
vũ trang và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cán bộ quân sự vá chính trị; đề ra nhiệm
vụ cần kíp tiếp tục phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cư địa kháng Nhật để
chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.
Như vậy, với những chủ trương đúng đắn của mình, trong giai đoạn này Đảng đã
xây dựng được một đội quân chính trị hùng hậu và một lực lượng vũ trang mạnh để

khi thời cơ đến là phất động tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
IV. Kết quả trong cách mạng tháng Tám 1945
Chiến tranh thế giới đã đi đến những ngày cuối cùng. Ở châu Âu, phát xít Đức đã
bị tiêu diệt hoàn toàn và buộc phải đầu hàng không điều kiện (5/1945). Ơ châu Á
quân Nhật cũng đã đầu hàng Đồng Minh không điều kiện (8/1945). Quân Nhật ở
Đông Dương bị tê liệt, chính phủ bù nhìn tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực

23


độ. Đây là thời cơ ngàn năm có một để nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của đảng, đứng
lên đánh đổ bọn phát xít Nhật giành lại nến độc lập, tự do cho tổ quốc.
Trước tình hình thế giới biến chuyển có lợi cho cách mạng Việt Nam, từ ngày
13/8 đến 15/8, Hội nghị toàn quốc của đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị
nhận định điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, Đảng chủ trương lãnh đạo toàn dân
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương.
Hội nghị cử ra uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách: đề
ra đường lối đối nội và đối ngoại trong tình hình mới và kiện toàn Ban chấp hành
trung ương. Đêm 13/8, uỷ ban toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945, cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân họp, nhiệt liệt tán thành chủ
trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh: quyết định thành
lập uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam tức chính phủ lâm thời do Hồ Chi Minh làm
chủ tịch.
Ngay sau đại hội, chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ
cả nước : “ Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến, toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”12
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy giành
chính quyền. Từ ngày 14/8, các đơn vị giải phóng đã liên tiếp hạ nhiều đồn địch của
Nhật tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày
18/8, quân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hoá, Hà

Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hòa đã giành được chính quyền ở tỉnh lỵ .
Ngày 17/8, đông đảo nhân dân thành phố Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
điều hành của Mặt Trận Việt Minh, đã biến cuộc mít tinh của chính phủ bù nhìn ở nhà
hát lớn thành cuộc mít tinh và diễu hành của nhân dân ta, chuẩn bị tổng khởi nghĩa
giành chính quyền.
Theo chủ trương “ sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khó có đủ điều kiện “ của
trung ương, căn cứ thực tế diễn biến ngày 17/8, đêm 17/8 xứ ủy bắc kỳ cùng với
thành uỷ Hà Nội quyết định tổng khởi nghĩa ở Hà Nội vào ngày 19/8/1945. Sáng

12

Hồ Chí Minh toàn tập: tập 3, nxb, CTQG, Hà Nội: 2000, tr.554

24


19/8, hàng chúc vạn quần chúng nội thành và ngoại thành Hà Nội tiến về quảng
trường nhà hát thành phố dự cuộc mít tinh do Việt Minh tổ chức.
Sau cuộc mít tinh, quần chúng xuống đường biểu tình vũ trang, tiến về các ngả
đường đánh chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn, trước hết là phủ khâm sai,
toà thị chính, trại lính bảo an, sở cảnh sát. Bạo lực cách mạng và khí thế sục sôi khởi
nghĩa của quần chúng đã buộc ngụy quyền đầu hàng và buộc Nhật phải để nhân dân
giành quyền làm chủ toàn bộ thành phố.
Thắng lợi của tổng khởi nghĩa 19/8 ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với cả
nước, làm cho chính quyền tai sai Nhật ở khắp nơi bị tê liệt, cổ vũ và thúc đẩy mạnh
mẽ các tỉnh và thành phố khác nổi dậy giành chính quyền, nhất là ở Huế và Sài Gòn.
Ngày 23/8, dưới sự lãnh đạo của xứ uỷ trung kỳ và tỉnh uỷ Thừa Thiên, 150.000
nhân dân thành phố Huế và các huyện ở Thừa Thiên đã nổi dậy chiếm các công sở
của triều đình Huế và buộc vua Bảo Đại phải đầu hàng bằng hình thức thoái vị. Chiều
30/8 trước cửa Ngọ Môn, trước cuộc Mít tinh hàng vạn người tham gia, vua Bảo Đại

đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng,. Đại diện chính phủ lâm thời Việt
Nam dân chủ cộng hòa tuyên bố bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.
Ngay khi được tin tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế thắng lợi dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ miền Nam, nhân dân Sài Gòn đã nổi dậy giành chính quyền ngày 25/8.
Ở Côn đảo, Đảng bộ nhà tù đã lãnh đạo 10.000 chiến sĩ cách mạng bị giam cầm
nổi dậy giành chính quyền làm chủ trên đảo.
Như vậy, chỉ trong vòng 15 ngày ( từ 14 đến 28/8 ), cuộc tổng khởi nghĩa đã
thành công hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, chính quyền cả nước thực
sự thuộc về tay nhân dân ta.
Ngày 2/9/1945, trong cuộc mít tinh lớn của gần 1 triệu người tại Quảng trường Ba
Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản tuyên
ngôn độc lập lịch sử, tuyên bố với nhân dân ta và thế giới sự ra đời của nươc Việt
Nam dân chủ cộng hoà độc lập, tự do và khẳng định quyết tâm sắt đá “toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết quyết đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ

25


×