Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Nghiên cứu đặc điểm hội đồng quản trị ảnh hưởng đến kết quả tài chính của các công ty niêm yết sở hữu gia đình ở việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.68 KB, 12 trang )

1

2

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách đưa ra những định hướng phát triển loại
hình công ty gia đình Đ.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu là đánh giá tác động của đặc điểm HĐQT
đến KQTC của công ty gia đình niêm yết trên thị trường chứng khoán. Mục tiêu cụ
thể của nghiên cứu là hệ thống hóa cở sở lý luận về công ty gia đình để phân biệt với
công ty phi gia đình và đánh giá tác động của đặc điểm HĐQT đến KQTC của công
ty niêm yết có yếu tố sở hữu gia đình. Trên cơ sở đó khuyến nghị một số chính sách
QTCT hiệu quả đối với các công ty niêm yết sở hữu gia đình.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các công ty niêm yết sở hữu gia đình và
đặc điểm của HĐQT ảnh hưởng đến KQTC của công ty. Luận án nghiên cứu những
lý luận cơ bản về công ty gia đình, HĐQT trong các công ty gia đình và đặc biệt là
các cách tiếp cận định nghĩa về công ty gia đình phù hợp với các nghiên cứu theo
định hướng thực tiễn trong bối cảnh thị trường chứng khoán và điều kiện thực tiễn ở
Việt Nam. Theo đó, công ty gia đình Đ được định nghĩa căn cứ vào 2 tiêu chí: (i) Mối
quan hệ giữa các thành viên HĐQT và những người có liên quan; (ii) Tỷ lệ sở hữu
của các thành viên HĐQT và những người có liên quan.
Bên cạnh đó, luận án cũng đi sâu nghiên cứu những yếu tố thuộc về đặc điểm
của HĐQT ảnh hưởng đến KQTC của công ty đặc biệt, luận án bổ sung 2 yếu tố đặc
trưng riêng có của công ty gia đình là số lượng thành viên gia đình trong HĐQT và
Tỷ lệ sở hữu gia đình tức là sở hữu của thành viên gia đình trong HĐQT và những
người có liên quan. Đối với KQTC của công ty, luận án sử dụng 2 nhóm chỉ tiêu phản


ánh giá trị kế toán (ROA, ROE) và chỉ tiêu phản ánh giá trị thị trường (TOBIN’Q) để
đo lường và đánh giá KQTC.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về mặt không gian: Các công ty niêm yết có yếu tố sở hữu gia đình
có đầy đủ các điều kiện để niêm yết trên sàn chứng khoán theo quy định của Thông
tư số 29/2017/TT-BTC. Đồng thời, các thông tin công bố của những công ty niêm yết này
phải đảm bảo yếu tố minh bạch và công khai trên các BCTC, BCTN và Báo cáo QTCT.
- Phạm vi thời gian: Luận án lựa chọn nghiên cứu đặc điểm của HĐQT và KQTC
các công ty gia đình trong giai đoạn 2012 – 2017 vì từ trước năm 2012 trở về trước hầu
hết các công ty không có báo cáo QTCT. Mặt khác, từ sau khủng hoảng kinh tế năm
2008 đến 2011 là giai đoạn khủng hoảng kinh tế với những vấn đề về lạm phát, các công
ty gia đình chủ yếu là công ty vừa và nhỏ rơi vào tình trạng hết sức khó khăn. Kể từ
2012 đến nay, kinh tế vĩ mô mới có những bước tăng trưởng và phát triển ổn định, thị
trường chứng khoán có những bước phát triển tích cực và đặc biệt từ 2017 – 2018 là giai
đoạn thị trường chứng khoán Việt Nam đạt có bước phát triển nhảy vọt.
1.4. Những đóng góp mới của luận án
1.4.1. Đóng góp về mặt lý luận

1.1. Lý do lựa chọn đề tài
Trên thế giới, công ty gia đình là loại hình doanh nghiệp tồn tại lâu đời và
chiếm số lượng đông đảo nhất. Tỷ trọng công ty gia đình ở nhiều nước chiếm đến hơn
70% tổng số doanh nghiệp và đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
tạo công ăn việc cho người lao động (IFC, 2008). Các công ty gia đình bao gồm tất cả
các loại hình công ty từ quy mô nhỏ, vừa cho đến các tập đoàn kinh tế hoạt động đa
dạng ở nhiều ngành nghề khác nhau và ở nhiều nước khác nhau. Trung bình tại các
quốc gia phát triển có từ 40% – 60% công ty tồn tại dưới hình thức công ty gia đình.
Ở Việt Nam, công ty gia đình là một bộ phận của kinh tế tư nhân, là động lực
quan trọng của nền kinh tế”. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê (2017),
kinh tế tư nhân đã đóng góp 42,9% tỷ trọng GDP của cả nước, tăng thêm 4% so với
năm 2016 góp phần vào tăng trưởng GDP 6,81% so với năm 2016. Theo số liệu thống

kê của Forbes Việt Nam, 50 công ty niêm yết tốt nhất được vinh danh năm 2018 chiếm
giá trị vốn hóa toàn thị trường là 70,8% với tổng lợi nhuận đạt 106.949 tỉ đồng, tăng
34% so với năm 2017 trong đó phải kể đến tên tuổi của các tập công ty cổ phần tập
đoàn gia đình trong khối kinh tế tư nhân như Vingroup, Hòa Phát, Kinh Đô…
Trong hệ thống QTCT, HĐQT là một trong những nhân tố kiểm soát nội bộ
quan trọng nhất. Nghiên cứu về HĐQT trong các công ty cổ phần thường tập trung
vào mối quan hệ giữa đặc điểm HĐQT và KQTC của các công ty là một vấn đề quan
trọng trong QTCT được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới.
Tuy nhiên, với đối tượng nghiên cứu là công ty gia đình các nghiên cứu tập
trung vào nghiên cứu các định nghĩa công ty gia đình và so sánh sự khác biệt giữa các
yếu tố ảnh hưởng đến KQTC hay kết quả hoạt động giữa hai nhóm công ty gia đình
và công ty phi gia đình. Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy công ty gia đình có
KQTC và hiệu quả hoạt động tốt hơn các công ty phi gia đình (McConaughy, 2000;
Vàerson và Reeb, 2003, Villalonga và Amit, 2006)... Trên thế giới, chủ đề công ty gia
đình là một chủ đề được các nhà nghiên cứu học thuật cũng như các nhà nghiên cứu
thực tiễn hết sức quan tâm hình thành những chuyên san riêng về kinh doanh gia đình
như Family Business Review hay đưa ra các báo cáo đánh giá về công ty gia đình ở
các quốc gia, khu vực và các nước khác nhau như ở Mỹ, châu Âu, châu Á… Tuy
nhiên, ở Việt Nam số lượng các công trình nghiên cứu về công ty gia đình còn hạn
chế, tập trung vào các vấn đề về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu trong đó có sở hữu
gia đình và kết quả hoạt động hay quá trình kế nhiệm, chuyển giao thế hệ…
Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm HĐQT ảnh hưởng đến
kết quả tài chính của các công ty niêm yết sở hữu gia đình ở Việt Nam” không chỉ
tập trung nghiên cứu về đặc điểm HĐQT ảnh hưởng đến KQTC trong các công ty gia
đình mà còn chỉ ra sự khác biệt về đặc điểm HĐQT trong các công ty gia đình và
công ty phi gia đình; đồng thời nghiên cứu đã cung cấp một bằng chứng thực nghiệm
về ảnh hưởng của HĐQT đến KQTC của các công ty gia đình là cơ sở giúp cho các


3

Thứ nhất, Luận án đã xây dựng các tiêu chí nhận diện công ty gia đình phù hợp
với thực tiễn nghiên cứu ở Việt Nam, trong khi vẫn còn có rất nhiều các tranh biện
khác nhau về khái niệm công ty gia đình ở các nghiên cứu trên thế giới. Từ đó, Luận án
đã đưa ra những đặc điểm giúp nhận diện sự khác biệt giữa công ty gia đình và công ty
phi gia đình.
Thứ hai, ở Việt Nam hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu tác động của
đặc điểm Hội đồng quản trị đến kết quả tài chính ở các công ty niêm yết sở hữu gia
đình. Về mặt lý thuyết, Luận án đã chỉ ra để đạt được kết quả tài chính tốt, các công ty
gia đình vẫn nên theo đuổi lý thuyết người đại diện trong thành phần và cơ cấu hội
đồng quản trị, tương tự như các nghiên cứu trước đó đối các công ty niêm yết nói
chung trên toàn bộ thị trường. Đó là: (i) Cần đảm bảo sự tách biệt giữa vị trí Chủ tịch
hội đồng quản trị và Tổng giám đốc điều hành; (ii) Đảm bảo tính đa dạng trong thành
phần hội đồng quản trị.
1.4.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối
quan hệ giữa đặc điểm HĐQT và kết quả tài chính trong các công ty gia đình ở Việt
Nam đặc biệt cho thấy những đặc điểm khác biệt của HĐQT trong các công ty gia đình:
Thứ nhất, kết quả tài chính được biểu hiện qua các chỉ số ROA, ROE, TOBIN’S
của các công ty gia đình cao hơn các công ty niêm yết trên thị trường đặc biệt là chỉ
tiêu tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu ROE có giá trị trung bình là 11,18% cao hơn
rất nhiều so với các công ty trên toàn bộ thị trường (7,7%).
Thứ hai, tỷ lệ song trùng lãnh đạo có đến 37,42% công ty có vị trí chủ tịch hội
đồng quản trị kiêm tổng giám đốc điều hành, con số này cao hơn so với mức trung
bình của các công ty trên toàn bộ thị trường là 20,2%.
Thứ ba, tỷ lệ sở hữu của thành viên gia đình trong hội đồng quản trị và những
người có liên quan càng cao thì kết quả tài chính càng tốt. Điều này thể hiện tính sự
khác biệt so với các công ty phi gia đình, trong công ty gia đình tính tập trung về sở
hữu doanh nghiệp, tập trung trong ra quyết định, ảnh hưởng tích cực đến kết quả tài
chính của công ty.
1.5. Kết cấu của luận án

Kết cấu của luận án ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục luận án bao gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu đặc điểm hội đồng quản trị
ảnh hưởng đến kết quả tài chính của các công ty gia đình.
Chương 3: Giả thuyết và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Thảo luận kết quả nghiên cứu và một số khuyến nghị

4
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Định nghĩa công ty gia đình và các cách tiếp cận
Trên cơ sở tổng quan nghiên cứu định nghĩa công ty gia đình ở các nước thế
giới và tổng hợp các cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu, vấn đề đặt ra cần thiết lập
một định nghĩa công ty gia đình phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam trong
các nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề tài chính. Bảng tổng hợp các cách tiếp cận
định nghĩa cho thấy khuynh hướng tiếp cận theo nhóm thứ 3 phù hợp với mục đích
nghiên cứu của luận án. Đó chính là cách tiếp cận theo định hướng thực tiễn, đưa ra
những tiêu chí công ty gia đình thông qua cơ cấu chủ sở hữu gia đình và sự hiện diện
của các thành viên gia đình trong HĐQT hoặc ban điều hành kết hợp với giới hạn tối
thiểu về sở hữu và kiểm soát. Cách tiếp cận này được áp dụng cho các nghiên cứu
thực tiễn dựa trên những nhóm dữ liệu về các công ty gia đình công khai trong nghiên
cứu thực nghiệm về chủ đề tài chính.
Tổng hợp các nghiên cứu trên, để đưa ra một định nghĩa về công ty gia đình
một cách đầy đủ theo quan điểm chủ quan của tác giả cần hiểu công ty gia đình trên 2
góc độ:
- Về mặt định tính: Đó là các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
được chi phối bởi định hướng chiến lược của gia đình cũng như yếu tố quyền hành –
văn hóa – kinh nghiệm. (Yếu tố phần “mềm”).
- Về mặt định lượng: Bao gồm các số lượng các thành viên gia đình sáng lập

và tham gia vào hoạt động QTCT và tỷ lệ kiểm soát sở hữu của các thành viên gia
đình. (Yếu tố phần “cứng”).
Về số lượng các thành viên gia đình, đa số các định nghĩa đều xác định có hơn
một thành viên gia đình tham gia vào hoạt động kinh doanh, nằm trong ban điều hành
công ty và thông thường đó là thành viên sáng lập công ty (Villalonga và Amit
(2006), Rutherford và cộng sự (2008)…
Vấn đề quan trọng đặt ra là việc xác định tỷ lệ sở hữu của các thành viên trong
gia đình là bao nhiêu? Không có một định nghĩa thống nhất để đưa ra một tỷ lệ sở
hữu gia đình nói chung. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều nghiên cứu nói về mối quan hệ
giữa sở hữu gia đình và KQTC của các công ty gia đình như nghiên cứu của La Porta
(1999), Shyu (2011), Vàerson Reeb (2003), Gonzalez và cộng sự (2011)… Các
nghiên cứu thường sử dụng tỷ lệ sở hữu gia đình dao động trong khoảng 10% đến
20% hoặc 25%.
Ở Việt Nam có những nét tương đồng với các nước Đông Nam Á và châu Á,
theo nghiên cứu của tác giả các công ty niêm yết ở nước ta có thể quy định tỷ lệ sở
hữu gia đình từ 5% trở lên. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng của các công ty gia
đình là tính chất chi phối được thể hiện ở số lượng các thành viên và tỷ lệ sở hữu gia
đình. Khi tỷ lệ này thấp thì sự hiện diện của các thành viên gia đình sẽ nắm giữ vị trí
quan trọng có tính chất chi phối (là CEO hoặc chủ tịch HĐQT) hoặc sự hiện diện của
số đông các thành viên gia đình. Ngược lại, khi tỷ lệ sở hữu gia đình lớn thì tính chất
chi phối vẫn đảm bảo ngay cả khi số lượng các thành viên gia đình ít đi và không


5
nắm giữ những vị trí quan trọng trong HĐQT. Tỷ lệ sở hữu gia đình tức là tỷ lệ sở
hữu của thành viên gia đình nằm trong HĐQT hoặc ban điều hành và những người có
liên quan (bố mẹ, vợ chồng, con cái và anh chị em).
Như vậy, tóm lược các kết quả nghiên cứu, một công ty niêm yết được coi là
công ty gia đình khi nó thỏa mãn một trong các đặc điểm sau:
- Một thành viên gia đình là CEO hoặc chủ tịch HĐQT và tỷ lệ sở hữu gia đình

chiếm ít nhất 5%. (Marleen Dieleman và cộng sự, 2013).
- Có ít nhất 2 thành viên tham gia vào HĐQT hoặc ban điều hành (gia đình là cổ
đông lớn nhất trong công ty) và tỷ lệ sở hữu gia đình) chiếm ít nhất 5%.
(Marleen Dieleman và cộng sự, 2013).
- Có hơn ½ vị trí trong HĐQT được nắm giữ bởi các thành viên gia đình (Shyu, 2011).
- Có ít nhất 1 thành viên gia đình tham gia vào HĐQT và Tổng sở hữu của gia
đình (bố mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em) vượt quá 10% (Shyu, 2011)
- Các thành viên gia đình nắm giữ ít nhất 20% cổ phần của công ty trở lên. Số cổ
phần này bao gồm cổ phần của các thành viên gia đình và các công ty con/công
ty liên kết. (La Porta và cộng sự, 1999).
Để làm rõ hơn những đặc điểm của các công ty gia đình, tác giả cũng tổng hợp
nghiên cứu để so sánh sự khác biệt giữa công ty gia đình với công ty phi gia đình
trong bảng dưới đây.
Bảng 2.2: Sự khác biệt giữa công ty gia đình và công ty phi gia đình
Tiêu chí
Công ty gia đình
Công ty phi gia đình
- Trong dài hạn
1. Định
- Coi trọng kết quả trong ngắn
hướng và
- Quan tâm đến lợi nhuận trong dài hạn
tầm nhìn
hạn hơn là ngắn hạn
2. Mục tiêu - Ưu tiên đến mục tiêu xã hội và cộng - Mục tiêu chính là kinh doanh
ưu tiên
đồng với các mục tiêu phi tài chính và tài chính như tối đa hóa lợi
như sự ổn định của gia đình, sự tiếp nhuận, hiệu quả sử dụng vốn
nối của sở hữu gia đình, tuyển dụng chủ sở hữu, hiệu quả sử dụng
tài sản.

các thành viên gia đình…
3. Giá trị - Tuyên bố sứ mệnh liên quan đến - Tùy theo đặc trưng riêng của
và sứ mệnh danh tiếng, truyền thống của gia đình, từng công ty và tùy thuộc và
tôn trọng sứ mệnh ban đầu và các giá quan điểm của chủ sở hữu và
trị được sáng tạo bởi những người ban điều hành.
sáng lập
4. Tuổi thọ - Thời gian dài
- Thời gian ngắn
5. Quan
- Coi trọng sự kế nhiệm của các thế - Quan tâm đến việc tăng giá
hệ trong gia đình
cổ phiếu, lợi nhuận cho nhà
điểm phát
đầu tư, và tối đa hóa lợi nhuận
triển
trong ngắn hạn.

6
Tiêu chí
6. Lòng tin

Công ty gia đình
- Sự tin tưởng bền vững và sâu sắc
giữa các thành viên gia đình cùng
huyết thống
7.Chủ
- Đề cao chủ nghĩa vị tha, mục tiêu
nghĩa vị tha tập thể lâu dài có thể có giá trị hơn
lợi nhuận.
8. Quy mô - Hầu hết là các doanh nghiệp nhỏ,

kinh doanh quy mô vừa và nhỏ

Công ty phi gia đình
- Kém bền vững hơn công ty
gia đình

- Quan hệ rõ ràng trong công
việc vì mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận trong kinh doanh.
- Bao gồm cả các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, doanh
nghiệp có quy mô lớn
Nguồn: Tác giả tổng hợp
2.2. Các lý thuyết nghiên cứu về quản trị công ty và công ty gia đình
2.2.1. Lý thuyết người đại diện (Agency Theory)
Lý thuyết này thường được áp dụng trong những công ty có sự phân chia tách
bạch giữa quản lý và chủ sở hữu và được sử dụng để khám phá mối quan hệ giữa cơ
cấu sở hữu và quản lý. Tại các công ty gia đình, quản lý công ty chủ yếu là các thành
viên trong một gia đình, do đó chi phí dành cho các đại diện sẽ được tối thiểu khi các
quyết định không thực sự ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của công ty.
Mặt tích cực của lý thuyết đại diện là lý thuyết đã đề cập đến sự tách biệt
quyền sở hữu và kiểm soát. Hạn chế của lý thuyết đại diện là các đại diện có thể có
những sự tư lợi, hành vi cơ hội cho riêng mình. Khi công ty không do chính chủ sở
hữu quản lý dễ gặp phải những bất ổn về mặt tổ chức và mâu thuẫn có thể nảy sinh từ
đây vì hai lợi ích này có thể không gặp nhau. Theo Fama và Jensen (1983), “Người
quản lý công ty là người đại diện cho chủ sở hữu và khi người đại diện có sự quan
tâm và đề cao lợi ích cá nhân họ thì lợi ích thực sự của công ty sẽ bị đe dọa”.
Tuy nhiên, do đặc điểm của các công ty gia đình, cổ đông là thành viên GĐ và
thường là thành viên HĐQT hay CEO, có liên quan đến hoạt động QTCT nên mâu thuẫn
giữa cổ đông và người quản lý gần như bị triệt tiêu. công ty gia đình nếu được quản lý bởi

chính người chủ sở hữu thì họ sẽ làm việc hết sức mình để tối đa hóa lợi nhuận từ đó tối đa
hóa giá trị tài sản của họ vì sự thành bại của công ty gắn liền với tài sản của cá nhân họ.
Vì vậy, các nghiên cứu về lý thuyết người đại diện trong các công ty gia đình
thường cho rằng việc tách bạch giữa vị trí chủ tịch HĐQT và CEO không còn là quan
trọng. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu đều cho rằng tăng số lượng thành viên HĐQT
độc lập có thể dẫn đến tăng KQTC và hiệu quả hoạt động trong các công ty gia đình.
Bên cạnh đó, các học giả nghiên cứu về công ty gia đình còn cho đằng sau hoạt
động kinh doanh kém hiệu quả của công ty gia đình là do sự quản lý thiếu chuyên
nghiệp, sự lãnh đạo thiếu chặt chẽ hay những mối quan hệ phức tạp trong gia đình
(Keanon Alderson, 2011 .
Đặc điểm của các công ty theo lý thuyết người đại diện, hệ thống quản trị công
ty cần đảm bảo chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc là 2 người tách biệt, cơ


7

8

cấu sở hữu của các công ty này là sở hữu phân tán – có nghĩa là công ty được sở hữu
đa dạng bởi nhiều nhóm cổ đông đa dạng, khác nhau bao gồm cá nhân, tổ chức, và
HĐQT các công ty này sẽ là người đại diện cho cơ cấu sở hữu đa dạng này, cũng như
tỷ lệ lớn thành viên HĐQT bên ngoài hoặc độc lập.
2.2.2. Lý thuyết người dẫn đường (Stewarship Theory)
Lý thuyết người dẫn đường của Davis và cộng sự (1997) đối lập với lý thuyết người
đại diện. Theo lý thuyết này, cán bộ điều hành không phải là người cơ hội mà là người
muốn làm tốt công việc của mình, muốn là “người dẫn đường” cho tài sản của công ty, vì
vậy QTCT tập trung vào việc tạo điều kiện, trao quyền, hòa nhập vai trò của chủ tịch
HĐQT và tổng giám đốc để tăng tính hiệu quả, tạo ra lợi nhuận cao cho các cổ đông.
Đối với các công ty gia đình, lý thuyết người dẫn đường cho rằng các gia
đình tự chăm sóc chính doanh nghiệp của mình. Họ có trách nhiệm giám sát công

ty trên cơ sở tôn trọng các thế hệ trước vì sự phát triển thành công của thế hệ kế
tiếp sau này. Về vấn đề kết quả tài chính và hiệu quả hoạt động của công ty,
trường phái lý thuyết này ủng hộ quan điểm khi cho rằng Tổng giám đốc hay giám
đốc điều hành đồng thời là chủ tịch HĐQT vì bản thân họ là “người dẫn đường” và
sẵn sàng làm việc để gia tăng kết quả và hiệu quả cho công ty.
Lý thuyết người dẫn đường còn cho rằng các công ty gia đình thể đạt được mục
tiêu phát triển nên đưa các chuyên gia có kiến thức uyên thâm vào trong HĐQT. Những
thành viên HĐQT hoặc người quản lý bên ngoài được lựa chọn để bổ sung các năng lực,
kỹ năng còn thiếu của các thành viên gia đình. Các nghiên cứu đều cho thấy việc ra quyết
định sẽ được cải thiện mạnh nếu các công ty gia đình có một HĐQT có năng lực, kinh
nghiệm, trình độ chuyên môn và sự năng động, sáng tạo.
Các công ty theo lý thuyết người dẫn đường ở đó chủ tịch hội đồng quản trị và
tổng giám đốc có thể là cùng một người – tính song trùng, cơ cấu sở hữu của các
công ty này là sở hữu tập trung – có nghĩa là công ty được sở hữu trong tay một ít cổ
đông lớn và kiểm soát, và HĐQT các công ty này sẽ là người đại diện cho cơ cấu sở
hữu tập trung và kiểm soát như nêu trên, hạn chế sự có mặt của những người không
có sở hữu lớn, hoặc thành viên hội đồng quản trị độc lập.
2.2.3. Lý thuyết các bên liên quan (stakeholder theory)
Lý thuyết này nhấn mạnh đến vai trò và lợi ích của tất cả các bên có liên quan
đến hoạt động của một công ty; các khách hàng, người lao động, cộng đồng, hiệp hội
thương mại, nhà cung cấp, chính phủ, người đầu tư hay các thiết chế đều phải được
nhận lợi ích và có vai trò đối với công ty. Đối với công ty gia đình, lý thuyết các bên
liên quan không được ủng hộ nhiều như lý thuyết người đại diện hay lý thuyết người
dẫn đường. Gần đây, lý thuyết các bên liên quan mới tạo ra sự thu hút và mối quan
tâm của các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực kinh doanh gia đình. Cũng giống như các
doanh nghiệp phi gia đình, bên liên quan là tất cả những người có vai trò và lợi ích
liên quan đến hoạt động của công ty hoặc có thể bị ảnh hưởng bởi công ty như các cổ
đông, người lao động, các khách hàng, nhà cung cấp hay các đối tác kinh doanh… Sự

khác biệt trong công ty gia đình liên quan đến tính “vị tha” giữa những người liên

quan trong mối quan hệ “gia đình”.
Tuy nhiên, lý thuyết các bên liên quan lại đề cao vai trò của thành viên nữ
trong HĐQT. Những thành viên này họ là những người tạo ra tính đa dạng về giới
tính với nhiều ý tưởng kinh doanh mới và khả năng giải quyết các công việc một cách
uyển chuyển, đồng thời dễ tiếp cận và thiết lập được với các đối tác bên ngoài.
2.2.4. Lý thuyết phụ thuộc vào nguồn lực (Resource Dependence Theory)
Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực cũng đã giải thích lợi thế cạnh tranh của nhiều
công ty gia đình so với công ty phi gia đình. Lý thuyết này cho rằng công ty gia đình có các
năng lực, nguồn lực và các mối quan hệ mà doanh nghiệp phi gia đình không có và không
thể phát triển được. Năm nguồn vốn mà công ty gia đình có được giúp giải thích các hiệu
ứng tích cực từ lý thuyết phụ thuộc nguồn lực đó là: vốn con người, vốn xã hội, vốn của sự
kiên định, khả năng tồn tại và cơ cấu quản trị. Theo đó, lợi thế của công ty gia đình xuất
phát từ sự tương tác của gia đình và doanh nghiệp theo cách độc đáo mà họ quản lý, đánh
giá, thu nhận, loại bỏ và tận dụng các nguồn lực cần thiết.
2.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm đã được sử dụng rộng rãi
nhằm mục đích xây dựng khung tiếp cận nghiên cứu cũng như phát triển các giả thuyết
nghiên cứu nhằm dự doán về mối quan hệ giữa QTCT với hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm HĐQT trong các
công ty cổ phần nói chung và các công ty gia đình nói riêng. Đại đa số các nghiên cứu
tập trung vào đối tượng nghiên cứu là các công ty cổ phần niêm yết.
Có thể tổng hợp một số khuynh hướng và kết quả nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về quy mô HĐQT và KQTC của công ty.
Về khía cạnh nghiên cứu này luôn có những kết quả trái ngược nhau và đặc biệt tập
trung vào so sánh sự khác biệt giữa 2 nhóm công ty gia đình và công ty phi gia đình.
Thứ hai, nghiên cứu về hiện tượng song trùng lãnh đạo (CEO đồng thời là chủ
tịch HĐQT) và mối quan hệ với KQTC.
Thứ ba, nghiên cứu về tính độc lập của thành viên HĐQT
Thứ tư, nghiên cứu về tính đa dạng của HĐQT (giới tính, độ tuổi, năng lực,
kinh nghiệm, trình độ…) và KQTC của công ty.

Đối với các công ty gia đình ngoài một số kết quả nghiên cứu tương tự như các
công ty cổ phần, các hướng thể hiện rõ sự khác biệt trong các nghiên cứu về đặc điểm
HĐQT của công ty gia đình đó là:
Thứ năm, các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào việc phân tích mối quan hệ
giữa sở hữu gia đình và hiệu quả của các công ty gia đình
Thứ sáu, nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc HĐQT và hiệu quả hoạt
động của các công ty gia đình ở Việt Nam.
Thứ bảy, nghiên cứu về quá trình kế nhiệm hay sự chuyển giao giữa các thế hệ
ở các công ty gia đình Việt Nam.


9

10

2.3.3. Khoảng trống nghiên cứu
Thứ nhất, với đối tượng nghiên cứu là các công ty gia đình trên thế giới mặc dù
có rất nhiều hướng nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhưng vấn đề tranh luận nhiều nhất
trong lĩnh vực kinh doanh gia đình đặc biệt là việc đưa ra định nghĩa công ty gia đình để
phân biệt với các doanh nghiệp phi gia đình. Mỗi một cách tiếp cận định nghĩa công ty gia
đình với các tiêu chí khác nhau sẽ ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Vì vậy, luận án đã
đưa ra một định nghĩa khái quát, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam và phù hợp
với hướng nghiên cứu thực nghiệm về KQTC trong công ty gia đình. Nếu một định nghĩa
công ty gia đình không rõ ràng, thiếu những điều kiện cần thiết thì trong các nghiên cứu
thực nghiệm những biến số, những giả thuyết cũng sẽ không có ý nghĩa khoa học.
Thứ hai, ở Việt Nam hiện nay các nghiên cứu về QTCT cũng như đặc điểm
HĐQT thường tập trung vào nghiên cứu ở các công ty cổ phần niêm yết nói chung.
Nghiên cứu về đặc điểm HĐQT trong các công ty gia đình là cơ sở để tìm ra những
đặc trưng cơ bản, so sánh sự khác biệt trong đặc điểm HĐQT của các công ty gia
đình Việt Nam với các công ty phi gia đình.

Thứ ba, các công ty gia đình ở Việt Nam đa số là những công ty có quy mô
nhỏ hoặc chưa niêm yết trên TTCK nên rất cần thiết phải có những nghiên cứu về
các công ty gia đình niêm yết làm cơ sở để xây dựng khung QTCT hiệu quả, khuyến
nghị những định hướng đối với các công ty cũng như các cơ quan quản lý trong việc
giám sát, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của công ty gia đình ở Việt Nam. Các kết
quả nghiên cứu thực nghiệm về đặc điểm HĐQT ảnh hưởng đến KQTC có sự khác
nhau trong các công trình nghiên cứu do sự khác biệt về thời gian và không gian,
phương pháp. Do đó, rất cần thiết phải củng cố thêm các bằng chứng thực nghiệm để
nâng cao KQTC và đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của HĐQT trong công ty gia đình.

một số các nghiên cứu của Mishra và cộng sự (2011), Ibrahim và cộng sự (2011) cho
thấy quy mô HĐQT nhỏ hơn có thể tạo nên một cơ chế quản trị tốt hơn cho các công
ty có sự kiểm soát của gia đình.
Quan điểm này cũng đồng nghĩa với một số kết quả nghiên cứu thực nghiệm ở
Việt Nam đối với các công ty niêm yết nói chung là bằng chứng cho thấy mối quan
hệ trái chiều giữa quy mô của HĐQT và kết quả hoạt động của công ty (Võ Hồng
Đức và Phan Bùi Gia Thủy (2013a); Truong và cộng sự (1998). Điều này có thể hiểu
do sự nhấn mạnh đặc điểm khác biệt trong phong cách quản lý của Việt Nam ảnh
hưởng bởi văn hóa “khoảng cách quyền lực”, khi quy mô HĐQT gia tăng, sự ủy
quyền và cách làm việc nhóm trong HĐQT sẽ giảm.
Quan điểm thứ hai cho rằng quy mô HĐQT có quan hệ cùng chiều với KQTC
của doanh nghiệp. Quy mô HĐQT lớn hơn sẽ cải thiện được KQTC tốt hơn (Pfeffer,
1972; Klein.1998; Coles và cộng sự, 2008). Vấn đề này được lý giải vì quy mô HĐQT
lớn sẽ tạo ra được sự hỗ trợ, tư vấn tốt hơn cho ban điều hành (Klein, 1998). Mặt khác,
một HĐQT có quy mô lớn sẽ dễ dạng thu thập và nắm bắt thông tin hỗ trợ trong việc ra
các quyết định từ đó có ảnh hưởng tích cực đến KQTC (Dalton và cộng sự, 1999).
Một số các nghiên cứu về công ty gia đình cho rằng quy mô HĐQT lớn hơn kết
hợp với việc kiểm soát gia đình có thể nâng cao hiệu quả hoạt động vì họ có bề dày
trong kinh nghiệm, chuyên môn và có những mối quan hệ có thể làm tăng các nguồn
lực đáng kể cho các công ty gia đình (Astranchan, 2002; Setia-Atmajia, 2009). Vì

trong giai đoạn đầu thành lập thì quyền quyết định thường tập trung trong tay của
những người sáng lập và người thân trong gia đình nên thường HĐQT có quy mô nhỏ
sẽ phát huy được tính hiệu quả. Tuy nhiên, các giai đoạn sau khi quy mô công ty lớn
dần và hoạt động kinh doanh trở nên phúc tạp thì HĐQT có quy mô lớn sẽ dễ ứng
phó với sự biến động trong hoạt động kinh doanh.
Vì vậy, khác với đa phần các nghiên cứu ở Việt Nam về quy mô HĐQT với
đối tượng là tất cả các công ty cổ phần niêm yết nói chung, do những đặc trưng
riêng của công ty gia đình, những lợi ích từ các thành viên GĐ và khả năng đóng
góp vào các nguồn lực của công ty, luận án ủng hộ giả thuyết cho rằng quy mô
HĐQT lớn có tác động tích cực đến KQTC của các công ty gia đình. Giả thuyết
nghiên cứu được đặt ra như sau:
H1: Quy mô HĐQT có mối quan hệ cùng chiều với KQTC của các công ty gia đình
3.1.2. Tính song trùng lãnh đạo
Các nghiên cứu về hiện tượng song trùng lãnh đạo hay tính kiêm nhiệm giữa vị
trí HĐQT và giám đốc điều hành cũng cho thấy các kết quả khác nhau thậm chí trái
ngược nhau. Theo Dahya và cộng sự (2009) “Các cổ đông, các nhà đầu tư tổ chức thì
cho rằng chủ tịch HĐQT không nên kiêm nhiệm chức Tổng giám đốc hay giám đốc
điều hành vì sự kiêm nhiệm này sẽ dẫn đến tính trạng tư lợi tài sản cá nhân làm ảnh
hưởng đến lợi ích của các cổ đông”. Vì vậy, sự tách biệt của chủ tịch HĐQT và CEO
góp phần quan trọng trong việc bảo vệ cổ đông thiểu số tránh được việc thâu tóm của
HĐQT nhất là các thành viên HĐQT lại là các thành viên gia đình. Ở Châu Âu, có

CHƯƠNG 3
GIẢ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Xây dựng các giả thuyết nghiên cứu
3.1.1. Quy mô của hội đồng quản trị
Có hai trường phái nghiên cứu phân biệt rõ hai quan điểm khác nhau về
mối quan hệ giữa quy mô của HĐQT và KQTC.
Quan điểm thứ nhất cho rằng quy mô HĐQT có quan hệ ngược chiều với
KQTC. HĐQT có quy mô lớn sẽ một yếu tố quyết định quan trọng làm giảm KQTC

của công ty (Dalton và cộng sự, 1992; Lipton và Lorsch, 1992; Yermack. 1996). Hay
theo nghiên cứu của Mohammad Badrul Muttakin (2010) cho rằng quy mô HĐQT
lớn kết hợp với kiểm soát gia đình sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của công ty. Điều
này được giải thích vì một HĐQT có quy mô lớn sẽ phải đối mặt với vấn đề phát sinh
các chi phí đại diện (Jensen và Meckling, 1976). Mặt khác, HĐQT có quy mô lớn sẽ
làm xuất hiện tính ỷ lại, chủ quan trong việc thực hiện chức năng giám sát hiệu quả
quản lý, việc trao đổi thông tin cũng trở nên phức tạp, các quyết định bị kéo dài làm
giảm sút tính hiệu quả và từ đó làm KQTC của công ty bị suy giảm. Trong khi đó,


11

12

đến 84% các công ty ở các quốc gia như Phần Lan. Đức, Hà Lan, Thụy Điển, và
Vương quốc Anh có sự tách biệt chức năng của chủ tịch HĐQT và CEO (Heidrick và
Struggles, 2009). Theo quan điểm của Fama và Jensen (1983), việc kiêm nhiệm sẽ
làm HĐQT giảm khả năng giám sát các nhà quản lí, từ đó sẽ làm tăng chi phí đại
diện. Các nghiên cứu ủng hộ quan điểm này chỉ ra mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa tính
song trùng và KQTC như nghiên cứu của Bolton (2006), Võ Đức và Phan Thúy
(2013), và Lê Quang Cảnh và Nguyễn Vũ Hùng (2015)…
Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu cho rằng tính song trùng có mối quan hệ
thuận chiều với kết quả hoạt động của doanh nghiệp, như nghiên cứu của Hermalin
và Weisbach (2003) và Bhagat và Black (2002)… Một số các nghiên cứu ở Việt Nam
đều ủng hộ quan điểm cho rằng sự phân tách vị trí chủ tịch HĐQT và CEO đảm
bảo sự giám sát, giảm chi phí hoạt động của công ty giúp tăng năng lực điều hành
từ đó ảnh hưởng tích cực đến KQTC (Đào Thị Thiên Trang và cộng sự, 2014; Võ
Hồng Đức và Phan Bùi Gia Thủy (2013a)… Điều này được lý giải bởi tính song
trùng này sẽ giúp HĐQT có thể kiểm soát ban giám đốc một cách độc lập và trở
thành người đại diện thực s ự cho tất cả các cổ đông và người sở hữu doanh nghiệp.

Đối với các công ty gia đình, các thành viên gia đình có quyền kiểm soát chi
phối trong HĐQT và có thể nắm giữ những vị trí quản lý quan trọng hàng đầu như
giám đốc điều hành (Porta và cộng sự, 1997). Vì vậy, tính song trùng sẽ phổ biến
trong các công ty có sự kiểm soát của gia đình hơn là các công ty không phải là gia
đình (Lam và Lee, 2008). Tính song trùng trong việc kiểm soát các công ty gia đình
sẽ cung cấp nhiều cơ hội hơn cho quyền quản lý và tước quyền sở hữu của cổ đông
thiểu số làm tác động tiêu cực đến KQTC của công ty. Mặc khác, sự kiêm nhiệm 2
vị trí này giúp tạo ra một nền tảng quyền lực mạnh mẽ và quyền kiểm soát sâu rộng,
làm suy yếu sức mạnh của các nhóm lợi ích bên ngoài nhằm bảo vệ được cổ đông
thiểu số khỏi sự thâu tóm của công ty gia đình. Vậy nên các nghiên cứu này ủng hộ
quan điểm cho rằng tính song trùng chỉ tốt cho công ty không có sự kiểm soát gia
đình và có tác động ngược chiều đến KQTC của các công ty gia đình. Bởi vậy, giả
thuyết nghiên cứu đặt ra:
H2: Có mối tương quan ngược chiều giữa tính song trùng vị trí chủ tịch HĐQT
và CEO với KQTC trong các công ty gia dình.
3.1.3. Tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập
Đối với các công ty gia đình, trên thực tế thành viên HĐQT thường là các
thành viên gia đình. Thành viên độc lập trong HĐQT có vai trò hết sức quan trọng
nhất là khi hoạt động của các công ty gia đình đã đạt đến một quy mô và mức độ
phức tạp nhất định. Theo một nghiên cứu ở Mỹ trên 80 công ty thuộc sở hữu gia đình
cho đến thế hệ thứ ba trở lên điều hành cho thấy sự xuất hiện của một HĐQT không
thuộc sự kiểm soát của gia đình là yếu tố quan trọng nhất đới với sự tồn tại của các
công ty này (Fred và Alden, 1998).
Đứng trên góc độ QTCT, cả lý thuyết người đại diện và các lý thuyết khác đều
cho thấy vai trò của thành viên HĐQT độc lập và không điều hành. Thành viên

HĐQT độc lập trong công ty gia đình sẽ giúp duy trì sự kiểm soát của gia đình về
đường lối kinh doanh của công ty. Sự hiện diện của thành viên HĐQT độc lập giúp tận
dụng được những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cũng như khả năng chuyên môn mà
các thành viên gia đình còn thiếu và đặc biệt là tăng cường tính kỷ luật trong các buổi

họp của HĐQT không bị sa đà vào các vấn đề của gia đình mà tập trung vào chiến lược
và giám sát kinh doanh. Thành viên HĐQT độc lập còn đóng vai trò trung gian giữa các
thành viên gia đình khi có sự bất đồng ý kiến về các vấn đề kinh doanh…
Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa tỷ lệ thành viên HĐQT độc
lập và KQTC thường cho các kết quả khác nhau. Theo Vàerson và Reeb (2004), Daily
và cộng sự (2003), tỷ lệ thành viên độc lập có mối quan hệ tích cực lên KQTC của các
công ty gia đình, sự xuất hiện của họ trong HĐQT làm giảm xung đột giữa các cổ đông
kiểm soát và cổ đông thiểu số; ngăn chặn sự chiếm đoạt tài sản của các thành viên gia
đình thông qua bồi thường quá mức, cổ tức đặc biệt hoặc bổng lộc không có cơ sở; từ đó
giám sát tốt hơn các hoạt động trong công ty gia đình. Một số các nghiên cứu khác lại
cho rằng tính độc lập trong HĐQT có tác động tiêu cực đến hoạt động của công ty
(Setia-Atmaja và cộng sự, 2009, Mohammad Muttakin và cộng sự, 2010…). Trái ngược
với các nghiên cứu đó, nghiên cứu của Chen và cộng sự (2005), Ibrahim và cộng sự
(2011) cho thấy tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập không có bất cứ một ý nghĩa nào ảnh
hưởng đến kết quả hoạt động của các công ty gia đình. Họ cho rằng HĐQT độc lập chỉ
là trên danh nghĩa mà không thực sự là độc lập, không đủ để thực hiện chức năng quản
lý giám sát và bảo vệ cổ đông thiểu số trước các thành viên gia đình.
Như vậy, các nghiên cứu cho thấy các kết quả khác nhau về mối quan hệ
giữa tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập và KQTC do có sự khác biệt về mặt không
gian, thời gian và mức độ tin cậy của số liệu được sử dụng. Tuy nhiên, trên
phương diện nghiên cứu lý thuyết người đại diện và các lý thuyết quản trị khác
đều hàm ý các thành viên HĐQT độc lập sẽ tác động tích cực đến KQTC của các
công ty cổ phần, công ty niêm yết nói chung. Chính vì những cơ sở trên, giả thuyết
nghiên cứu được đặt ra như sau:
H3: Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có tác động tích cực đến KQTC của công ty
gia đình.
3.1.4. Tính đa dạng trong thành phần hội đồng quản trị
Không có một khái niệm thống nhất về tính đa dạng của HĐQT mà thường
được hiểu theo quan điểm về nhân khẩu học. Hiểu một cách đơn giản, tính đa dạng
của HĐQT là có nhiều người khác nhau về các yếu tố nhân khẩu học nằm trong

HĐQT của công ty như yếu tố về tuổi tác, chủng tộc, giới tính, trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn, thành viên độc lập, thành viên nước ngoài hay yếu tố ít mang
tính hữu hình hơn như kinh nghiệm, thái độ…
Tính đa dạng của HĐQT thường được tiếp cận trên 2 quan điểm lý thuyết: (i)
Lý thuyết người đại diện; (ii) Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực. Theo quan điểm lý
thuyết người đại diện, HĐQT được thiết lập để tối thiểu hoá các “chi phí đại diện”
thông qua các cấu trúc và thành phần của HĐQT. Và như vậy, sự đa dạng trong thành


13

14

phần của HĐQT sẽ góp phần làm giảm chi phí đại diện. Theo quan điểm sự phụ
thuộc nguồn lực “HĐQT có vai trò tiếp cận với các nguồn lực cần thiết cho sự thành
công của công ty, đo đó cần tận dụng được các nguồn lực về trí tuệ, sức sáng tạo
cũng như mối quan hệ của những người có thể cung cấp các nguồn lực cần thiết cho
sự tồn tại và phồn thịnh của một công ty”.
Vì vậy, khi xem xét tính đa dạng của HĐQT sẽ mang lại các lợi ích cho công
ty gia đình: (i) Sự sáng tạo và các quan điểm khác nhau tạo ra số lượng các quan
điểm và giải pháp lớn hơn cho các vấn đề (Watson, Kumar và Michaelse, 1993). Bên
cạnh đó sự đa dạng này cũng sẽ hạn chế khả năng về hiện tượng tư duy nhóm, các
thành viên có thể đóng góp thông tin từ đa dạng các nguồn khác nhau. (ii) Thứ hai, sự
tiếp cận với các nguồn lực và các mối liên kết. Với việc lựa chọn các thành viên
HĐQT có đặc điểm khác nhau, công ty có thể dễ dàng tiếp cận với các nguồn lực
khác nhau do sự hỗ trợ chia sẻ từ sự đa dạng về ngành nghề, kinh nghiệm, trình độ
chuyên môn. (iii) Thứ ba, các mối quan hệ công chúng và các mối quan hệ với nhà đầu
tư. Một số công ty gia đình có thể được hưởng lợi hơn từ việc tuân thủ các kỳ vọng xã
hội hơn là những công ty phi gia đình. Trên thế giới, văn bản pháp luật của nhiều nước
đã yêu cầu quy định một HĐQT của các công ty cổ phần phải có sự đa dạng về cơ cấu,

giới tính, độ tuổi, sắc tộc với mục đích tạo ra tiếng nói đa dạng, kinh nghiệm đa dạng, có
khả năng mang lại các nguồn lực và các mối quan hệ có lợi cho công ty.
Tuy nhiên, xung quanh tính đa dạng của HĐQT cũng phát sinh một số chi
phí tiềm năng là những rủi ro thường gặp phải. Theo các tài liệu nghiên cứu về
tâm lý học xã hội cho thấy sự không tương đồng về mặt nhân khẩu học có hạn chế
sự liên lạc giữa các nhóm nhỏ, tạo ra sự xung đột và làm giảm sự hấp dẫn giữa các
cá nhân. Và như vậy, tính đa dạng trong HĐQT có thể dẫn đến sự xung đột, thiếu
hợp tác giữa các thành viên HĐQT.
Một số kết luận từ các kết quả nghiên cứu về tính đa dạng trong thành phần của
HĐQT ảnh hưởng đến kết quả tài chính:
H4a: Tỷ lệ nữ trong thành phần HĐQT có tác động thuận chiều đến KQTC của các
công ty gia đình.
H4b: Trình độ học vấn có mối tương quan thuận chiều với KQTC của các công
ty gia đình.
H4c: Độ tuổi của thành viên HĐQT có ảnh hưởng cùng chiều đến KQTC của các
công ty gia đình
H4d: Có mối tương quan ngược chiều giữa tỷ lệ thành viên nước ngoài trong
HĐQT và KQTC của các công ty gia đình.
3.1.5. Tỷ lệ sở hữu của các thành viên gia đình trong hội đồng quản trị
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa sở hữu gia đình và kết quả hoạt động của
công ty dựa trên nền tảng lý thuyết người đại diện (Jensen và Meckling, 1976) khi cho
rằng “tồn tại xung đột về mặt lợi ích giữa người ủy quyền dẫn đến người ủy quyền phải đối
mặt với hành vi cơ hội và rủi ro đạo đức của người đại diện”. Vấn đề đại diện và kiểm soát
trong các công ty gia đình được thể hiện qua số lượng các thành viên gia đình và tỷ lệ sở hữu

của thành viên HĐQT và người có liên quan. Các kết quả nghiên cứu khác nhau tùy thuộc
vào bối cảnh và thời gian nghiên cứu. Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu tập trung vào ảnh
hưởng của tỷ lệ sở hữu gia đình đến KQTC và mối quan hệ nội sinh giữa 2 yếu tố đó.
Một trong những đặc điểm của công ty gia đình là tính chi phối được thể
hiện ở mức độ tập trung cao quyền sở hữu của các thành viên gia đình trong HĐQT.

Việc tập trung sở hữu sẽ trao quyền cho các thành viên gia đình giúp thực hiện tốt hơn
mục tiêu của mình so với các cổ đông thiểu số. Và đo đó sự kiểm soát của gia đình có
thể làm giảm thiểu hoặc loại bỏ các vấn đề đại diện xuất phát từ mâu thuẫn của các cổ
đông và nhà quản lý giúp cho việc chủ động kiểm soát hoạt động của công ty, tác động
tích cực đến KQTC (Maury, 2006). Tuy nhiên, cũng có những quan điểm cho rằng sở
hữu gia đình làm giảm hiệu quả hoạt động của công ty do tính chất gia đình trị mang
nặng tư tưởng bảo thủ, quản trị độc đoán xâm hại đến lợi ích của cổ đông thiểu số và
lợi ích của công ty. Giả thuyết nghiên cứu của luận án:
H5: Tỷ lệ sở hữu của thành viên gia đình trong HĐQT có mối quan hệ cùng
chiều với KQTC của các công ty gia đình.
3.1.6. Tỷ lệ thành viên gia đình trong hội đồng quản trị
Tỷ lệ thành viên gia đình trong HĐQT của các công ty gia đình được xác định
bằng số lượng thành viên gia đình trong HĐQT trên tổng số các thành viên gia đình.
Theo một số nghiên cứu khi số thành viên gia đình trong HĐQT chiếm ½ số ghế trong
HĐQT thì DN đó đã có sự chi phối về sở hữu gia đình (Jonchi Shyu, 2011). Bên cạnh đó,
gia đình cho dù chỉ có một thành viên trong HĐQT nhưng tỷ lệ sở hữu của họ và những
người có liên quan chiếm một tỷ lệ lớn cũng được coi là có sự chi phối trong các quyết
định. Đối với các công ty gia đình, do tính chất “Familiess” nên tỷ lệ tham gia về mặt số
lượng các thành viên gia đình trong HĐQT có tính chất chi phối trong việc giảm sát
quản lý và đặc biệt ảnh hưởng rất lớn đến việc đưa ra những quyết định chiến lược
ảnh hưởng KQTC của của công ty. Và do vậy thông thường mối quan hệ này là quan
hệ tuyến tính theo chiều thuận. Giả thuyết nghiên cứu đặt ra:
H6: Số lượng thành viên gia đình trong HĐQT có quan hệ cùng chiều đến KQTC
của các công ty gia đình Việt Nam.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp nghiên cứu định tính
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn để tìm ra một định nghĩa về
công ty gia đình phù hợp với hướng nghiên cứu của luận án, tác giả đã tổng hợp các
nghiên cứu thực tế tại các khu vực, các nước trên thế giới đặc biệt là các nước trong
khu vực Châu Á, kết hợp với tổng quan nghiên cứu tác giả đã tổng hợp và hệ thống

hóa thành 6 cách tiếp cận và lựa chọn cách tiếp cập theo định hướng của nghiên cứu
thực nghiệm để xác định những tiêu chí của một công ty gia đình.
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương pháp tham vấn chuyên gia thực hiện
2 giai đoạn trước và sau khi có kết quả nghiên cứu. để củng cố và hoàn thiện phục vụ
cho việc giải thích kết quả nghiên cứu phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Tác giả đã


15
phỏng vấn 10 chuyên gia bao gồm: 2 chuyên gia là những nhà quản lý từ cấp trưởng
phòng trở lên trong UBCKNN; 2 chuyên gia là lãnh đạo các doanh nghiệp (Chủ tịch
HĐQT hoặc các thành viên HĐQT, CEO hoặc các thành viên trong ban lãnh đạo); 2
chuyên gia là những người tư vấn, hỗ trợ và xây dựng pháp luật về QTCT; 2 chuyên
gia là những nhà nghiên cứu về cùng chủ đề ở các trường Đại học. Nội dung phỏng
vấn tổng hợp trong phần Phụ lục của luận án. Kết quả nghiên cứu của luận án cùng
với nội dung phỏng vấn chuyên gia là cơ sở để tác giả đưa ra một số khuyến nghị và
bàn luận trong chương 5.
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
(i) Mô hình nghiên cứu:
Mô hình nghiên cứu của luận án được hình thành trên cơ sở phân tích tổng
quan tài liệu nước ngoài và tài liệu trong nước kết hợp với việc xác định những đặc
trưng hoạt động của công ty gia đình để đưa ra mối quan hệ giữa đặc điểm HĐQT với
KQTC của các công ty gia đình.
Để định hướng các yếu tố thuộc về đặc điểm của HĐQT có thể ảnh hưởng đến
KQTC của các công ty niêm yết sở hữu gia đình trên, luận án đã kế thừa kết quả
nghiên cứu từ bảng 1.3 tóm lược tổng quan nghiên cứu trong chương 1 với 4 nhóm
yếu tố ảnh hưởng đến KQTC là: (i) Quy mô của HĐQT; (ii) Tính song trùng lãnh
đạo; (iii) Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập; (iv) Tính đa dạng của HĐQT. Các kết quả
này được kế thừa từ các nghiên cứu của trước đây, và áp dụng tại điều kiện của Việt
Nam. Đặc biệt, luận án đã chỉ ra có 2 nhóm yếu tố là đặc điểm khác biệt thể hiện đặc
trưng cơ bản của công ty gia đình, giúp phân biệt với công ty phi gia đình là đặc điểm

về Tỷ lệ sở hữu của thành viên gia đình trong HĐQT và Tỷ lệ thành viên gia đình
trong HĐQT cũng sẽ ảnh hưởng đến KQTC của công ty.
Về biến phụ thuộc KQTC được đo lường căn cứ vào 2 nhóm: (i) Chỉ tiêu phản
ánh giá trị sổ sách kế toán (ROA, ROE); (ii) Chỉ tiêu phản ánh giá trị thị trường
(Tobin’Q) theo nghiên cứu của tác giả Phạm Nguyễn Hoàng (2013). Để đảm bảo tính
chặt chẽ của mô hình nghiên cứu, qua trao đổi sơ bộ và tham khảo ý kiến của một số
chuyên gia các biến kiểm soát phản ánh đặc điểm của công ty là Quy mô công ty, tốc
độ tăng trưởng, số năm hoạt động, số năm niêm yết được bổ sung vào mô hình.

16
Quy mô HĐQT
Tính song trùng
Kết quả tài chính

Tỷ lệ TVHĐQT độc lập

-

ROA
ROE

Tính đa dạng của HĐQT

-

TOBIN’Q

Tỷ lệ sở hữu gia đình trong
HĐQT & người có liên quan
Tỷ lệ thành viên gia đình

trong HĐQT

- Quy mô công ty
- Tốc độ tăng trưởng
- Số năm hoạt động (tuổi)
- Số năm niêm yết

Nguồn: Tác giả xây dựng
Hình 3.1: Mô hình nghiên cứu của luận án
(ii) Dữ liệu và mẫu nghiên cứu
Luận án sử dụng dữ liệu thứ cấp, thông tin thu thập từ các 3 loại báo: BCTC,
BCTN và báo cáo QTCT. Đối với các công ty niêm yết, yêu cầu về công bố thông tin
trên thị trường chứng khoán là một trong những nội dung quan trọng được thực hiện
theo Luật Chứng khoán và Thông tư số 155/2015/TT-BTC ban hành ngày 06/10/2015
của Bộ Tài chính. Mẫu nghiên cứu của luận án là các công ty gia đình thỏa mãn các
tiêu chí nhận diện và có đầy đủ thông tin phục vụ cho nghiên cứu trong tổng thể các
công ty niêm yết trên 2 sàn HNX và HOSE.
Về tổng số các công ty niêm yết theo công bố của UBCKNN tính đến tháng
12/2017 là 728 công ty, trong đó sàn HNX có 384 công ty và sàn HOSE có 344 công
ty niêm yết. Về cơ cấu doanh nghiệp, theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát
triển doanh nghiệp thuộc Bộ tài chính đánh giá tình hình sắp xếp, cổ phần hóa, thoái
vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và phát triển doanh nghiệp 6 tháng
đầu năm 2018 mới chỉ có 150 trong số khoảng 700 DNNN đã cổ phần hóa thực hiện
niêm yết. Như vậy, trong tổng số 728 công ty niêm yết thì số còn lại là 578 doanh
nghiệp thuộc khu vực tư nhân.
Về số lượng các công ty gia đình, luận án đã lọc ra được 57 công ty thỏa mãn
các tiêu chí nhận diện công ty gia đình theo nghiên cứu của luận án. Như vậy 57 công
ty gia đình trong mẫu nghiên cứu cho thấy công ty gia đình chiếm 9,87% trong khu
vực kinh tế tư nhân. Đây là một tỷ lệ tương đối nhỏ nhưng lại phù hợp với các nghiên
cứu ở Trung Quốc - quốc gia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam về văn hóa,

truyền thống, về hệ thống tài chính và cơ cấu sở hữu… Trên sàn chứng khoán Trung
Quốc, tổng số công ty niêm yết tại thời điểm cuối năm 2017 là 3485 công ty trong đó
sở hữu tư nhân chiếm 65% tức là 2265 doanh nghiệp trong đó các công ty gia đình
chiếm khoảng 10% trong tổng số công ty tư nhân (DRC/ERI-OECD, 2005)


17

18

Mặc khác, xét về tỷ lệ vốn hóa của các công ty gia đình so với tổng giá trị vốn
hóa thị trường từ năm 2012 – 2017 dao động trong khoảng từ 18 – 22%. Như vậy với
chỉ 9,87% số lượng công ty gia đình nhưng chiếm đến 22% tổng giá trị vốn hóa thị
trường. Đây chính là cơ sở để đảm bảo tính đại diện trong mẫu nghiên cứu.
Về phạm vi thời gian nghiên cứu trong giai đoạn 2012 – 2017 đảm bảo tính cập
nhật mới nhất về mặt số liệu nên những công ty niêm yết trước năm 2012 trở về trước
cũng bị loại bỏ. Như vậy với 57 công ty gia đình, số liệu thu thập qua 6 năm (2012 –
2017) sẽ tạo nên một bảng dữ liệu cân đối có đầy đủ thông tin với 342 quan sát. Đây
là dữ liệu cũng đảm bảo tính đại diện một cách tương đối.
(iii) Phương pháp phân tích dữ liệu
Luận án sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, phương pháp phân tích
tương quan, phương pháp phân tích hồi quy với 3 mô hình: (i) Mô hình ước lượng
bình phương nhỏ nhất (Pooled OLS), (ii) Mô hình tác động cố định FEM (Fixed
Effects Model); (iii) Mô hình tác động tác động ngẫu nhiên REM (Rvàom Effects
Model). Đồng thời, để lựa chọn sử dụng mô hình phù hợp, luận án sử dụng các kiểm
định sau: (i) Kiểm định sự bằng nhau của các tác động cố định - Redundant Fixed
Effects; (ii) Kiểm định Hausman; (iii) Kiểm định sự phù hợp của hàm hồi quy; (iv)
Kiểm định Durbin Watson (DW).
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


QTCT của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam so với ngay cả các nước trong khu
vực còn chưa tốt.
Đánh giá quản trị công ty niêm yết Việt Nam năm 2018
Năm 2018 là năm đầu tiên Việt Nam đưa ra Bộ tiêu chí QTCT áp dụng cho tất
cả các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam (VCGS). Mẫu đánh giá QTCT năm 2018 bao
gồm 485 doanh nghiệp niêm yết trong bộ chỉ số VNX Allshare kỳ tháng 4/2018 với
tổng giá trị vốn hoá tại thời điểm 23/4/2018 là 2.895.009 tỷ đồng, chiếm 91% tổng
giá trị vốn hóa của toàn bộ thị trường. Các doanh nghiệp này được phân thành 3
nhóm: nhóm doanh nghiệp niêm yết có quy mô lớn (gồm 50 doanh nghiệp), nhóm
doanh nghiệp niêm yết có quy mô vừa (gồm 150 doanh nghiệp) và nhóm doanh
nghiệp niêm yết có quy mô nhỏ (gồm 285 doanh nghiệp). Tổng hợp một số kết quả
đánh giá QTCT năm 2018 của các công ty niêm yết Việt Nam như sau:

4.1. Tổng quan thị trường chứng khoán và quản trị công ty niêm yết ở Việt Nam

4.1.1. T ổng quan thị trường chứng k hoán V iệt Nam
Sau gần 20 năm hình thành và phát triển (2000 - 2018) thị trường chứng khoán
Việt Nam đã có sự thay đổi và phát triển mạnh mẽ, ngày càng hoàn thiện về cấu trúc,
mở rộng về quy mô, trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng trong nền
kinh tế.
Về số lượng các doanh nghiệp niêm yết có sự tăng trưởng ổn định trên cả hai
sàn HNX và HOSE.
Về quy mô vốn hóa thị trường: Giai đoạn 2011 – 2017 giá trị vốn hóa thị
trường theo xu hướng tăng đều qua các năm. Đặc biệt năm 2017 là năm TTCK Việt
Nam có bước phát triển nhảy vọt cùng với sự tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế
vĩ mô. Năm 2018, theo báo cáo của UBCKNN, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu
đạt hơn 3,9 triệu tỷ đồng, tăng 12,7% so với năm 2017, tương đương 79% GDP năm
2017 và 71,6% GDP năm 2018, vượt chỉ tiêu 70% GDP đề ra tại Chiến lược phát
triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.

4.1.2. Đánh giá quản trị công ty niêm yết Việt Nam
Đánh giá quản trị công ty niêm yết Việt Nam từ 2012 - 2015
Theo Báo cáo "Thẻ điểm QTCT Khu vực ASEAN: Báo cáo và Đánh giá của
từng quốc gia”, kết quả đánh giá chung cho thấy tình hình QTCT trong 4 năm 2012 –
2015 cho thấy tất cả các lĩnh vực đều ghi nhận sự cải thiện qua các năm thực trạng

Về phân bố điểm QTCT, cho thấy phần lớn doanh nghiệp đạt điểm trong
khoảng 50 - 70 điểm với tổng cộng 335 doanh nghiệp chiếm 70% tổng số doanh
nghiệp. Trong đó, có 17 doanh nghiệp đạt điểm trên 70 (chiếm gần 4% tổng số doanh
nghiệp); 97 doanh nghiệp có mức điểm từ 60 – 70 điểm; 238 công ty có mức điểm 50
- 60 (chiếm gần 4% tổng số doanh nghiệp); 133 doanh nghiệp có mức điểm thấp hơn
mức trung bình 50 điểm (chiếm 25% tổng số doanh nghiệp được đánh giá. Kết quả
này cho thấy tình hình thực hiện QTCT theo tiêu chuẩn thẻ điểm QTCT của Việt
Nam (VCSG) vẫn chưa thực sự tốt vì số lượng các doanh nghiệp có điểm số cao
chiếm rất ít, số lượng các doanh nghiệp ở dưới mức điểm trung bình vẫn còn chiếm
đến ¼ tổng số doanh nghiệp được đánh giá. Đây là thách thức và yêu cầu đặt ra với
đa số các công ty niêm yết ở Việt Nam hiện nay.
Về tổng quan điểm QTCT của các công ty niêm yết Việt Nam 2018: Điểm
trung bình QTCT của toàn bộ các doanh nghiệp được đánh giá đạt 52,2% tổng điểm
so với thang điểm tối đa là 104 điểm.
Đánh giá về mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp được đánh giá chia với 162 công ty chia thành 3 có điểm QTCT cao
nhất, trung bình và thấp nhất với mức ý nghĩa thống kê 5%. Kết quả tổng hợp trong
bảng 3.4 cho thấy các công ty có điểm QTCT cao thì hiệu quả hoạt động càng cao.
Điều này cho thấy mối tương quan thuận chiều giữa điểm QTCT và hiệu quả hoạt
động của các công ty niêm yết.
Bảng 4.4: Quản trị công ty và hiệu quả hoạt động
Tobin’s Q
ROA
ROE

Nhóm điểm QTCT
1. Cao nhất
1,44
7,7%
14,9%
2. Trung bình
1,02
5,3%
11,5%
3. Thấp nhất
0,96
4,7%
9,8%
Nguồn: Báo cáo đánh giá QTCT của các công ty niêm yết Việt Nam 2018


19
4.1.3. Quản trị công ty gia đình ở Việt Nam
Từ sau “Đổi mới” năm 1986 và đặc biệt là trong những năm gần đây, các
doanh nhân gia đình Việt Nam đã khẳng định vị thế của mình với những thành công
kinh doanh và đóng góp lớn vào lợi ích xã hội và kinh tế. Thị trường chứng khoán
Việt Nam khi thống kê danh sách 50 – 100 người giàu nhất hàng năm, tên tuổi của
những doanh nhân đó cũng gắn liền với các công ty gia đình.
Đối với các công ty niêm yết trên TTCK, công ty gia đình trước hết là các công
ty tư nhân tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam dưới hình thức các Công
ty cổ phần tập đoàn. Trong cơ cấu sở hữu của các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK
ở nước ta, sở hữu Nhà nước chiếm 24%; sở hữu nước ngoài 18% và còn lại là sở hữu
khác 58% trong đó chủ yếu là sở hữu tư nhân. Kết quả phân tích cho thấy 3 vấn đề
quan trọng nổi bật trong QTCT gia đình ở Việt Nam:
Thứ nhất, sự thiếu chuyên nghiệp trong hoạt động kinh doanh ở các công ty gia đình.

Thứ hai, thành phần và cơ cấu HĐQT trong công ty gia đình ở Việt Nam chưa
hiệu quả.
Thứ ba, vấn đề kế nhiệm hay kế hoạch chuyển giao giữa các thế hệ trong công
ty gia đình.
4.2. Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu
Từ các kết quả quan sát được, luận án so sánh với các nghiên cứu ở Việt Nam
về đặc điểm HĐQT trong các doanh nghiệp niêm yết nói chung trên toàn bộ thị
trường. Đặc biệt là so sánh với điểm số QTCT và đặc điểm HĐQT trong “Báo cáo
đánh giá QTCT của các công ty niêm yết Việt Nam 2018” để làm rõ đặc điểm HĐQT
trong các công ty gia đình với các công ty cổ phần niêm yết trên toàn bộ thị trường.
So sánh với các công ty niêm yết trên thị trường năm 2018 trong “Báo cáo
đánh giá QTCT của các công ty niêm yết Việt Nam 2018”, các công ty gia đình ở
Việt Nam có kết quả tài chính tốt nhóm công ty có điểm QTCT trung bình (ROA
trong nhóm này là 5,38%; ROE là 11,42%, TOBINQ là 1,02) nhưng vẫn thấp hơn
nhóm công ty có điểm QTCT cao nhất năm 2017. Điều này cho thấy, các công ty gia
đình ở Việt Nam vẫn cần cải thiện hơn các vấn đề về QTCT trong thời gian tới.
Như vậy, từ các kết quả phân tích thống kê mô tả mẫu nghiên cứu có thể rút ra
một số đặc điểm của HĐQT trong các công ty gia đình ở Việt Nam:
- Kết quả tài chính của các công ty gia đình tốt hơn so với các công ty niêm yết trên
thị trường nhưng vẫn thuộc nhóm có điểm số QTCT cần phải cải thiện hiệu quả hoạt động.
- Thứ hai, hiện tượng song trùng lãnh đạo có thể được coi là đặc điểm khác biệt
của công ty gia đình so với các công ty trên thị trường khi có đến 37,42% vị trí
chủ tị ch HĐQT kiêm Tổng giám đốc hay giám đốc điều hành. Điều này hoàn
toàn phù hợp với đặc điểm của công ty gia đình - “Familiness” (đặc tính gia
đình) khẳng định yếu tố chi phối trong việc ra quyết định để một công ty ty được
xem là công ty gia đình.
- Thứ ba, tỷ lệ thành viên gia đình trong HĐQT cũng như tỷ lệ sở hữu gia đình
của thành viên HĐQT và những người có liên quan là khá cao trong các công ty gia

20

đình. Các kết quả nghiên cứu tương tự với nghiên cứu ở một số nước trong khu vực
nhất là các nước châu Á trên sàn chứng khoán Singapore.
4.3. Các kết quả nghiên cứu chính của luận án
Bảng: Tổng hợp kết quả nghiên cứu của luận án
Hệ số ước lượng KQTC
Giả thuyết
Góc độ
Nhân tố
Góc độ kế toán
(tương
thị trường
quan/dấu)
TOBINQ
ROA
ROE
Biến độc lập
1. Quy mô HĐQT
(+)
(+)
(+)
2. Tính song trùng (hay sự kiêm nhiệm)
(-)
(-)
(-)
3. Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập
(+)
(+)
4. Tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT
(+)
(+)

5. Trình độ học vấn của HĐQT
(+)
6. Độ tuổi bình quân của HĐQT
(+)
(+)
(-)
(-)
7. Tỷ lệ thành viên HĐQT là người
(-)
(-)
(-)
(-)
nước ngoài
8. Tỷ lệ sở hữu gia đình trong HĐQT
(+)
(+)
(+)
9. Tỷ lệ thành viên GĐ trong HĐQT
(+)
Biến kiểm soát
10. Quy mô công ty
(+)
(-)
(-)
11. Số năm thành lập
(+)
(+)
(+)
12. Số năm niêm yết
(+)

(+)
(-)
(-)
13. Tốc độ tăng trưởng
(+)
(+)
(+)
14. Đòn bẩy tài chình
(+)
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả
Ghi chú: Các kết quả nghiên cứu trong bảng 5.1 được thực hiện với mức ý nghĩa
thống kê 1% và 5%.
CHƯƠNG 5
THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
5.1 Thảo luận kết quả nghiên cứu
Vì vậy, để thống nhất kết quả nghiên cứu luận án giải thích mối quan hệ giữa đặc
điểm HĐQT và kết quả quả tài chính của các công ty gia đình theo KQTC với 2 chỉ
tiêu chính là ROA và ROE.
Thứ nhất, các biến độc lập có tác động cùng chiều với KQTC


21

22

Kết quả cho thấy có 4 biến độc lập có tác động cùng chiều đến KQTC ROA,
ROE là: Quy mô HĐQT (BODSIZE), Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập (INDEP), Tỷ
lệ sở hữu của thành viên HĐQT và những người có liên quan trong gia đình
(BODOWN), Tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT (FEMALE). 4 biến này đều được

quan sát thấy trong mô hình ước lượng FEM khi biến phụ thuộc là ROA, mô hình
ước lượng FEM khi biến phụ thuộc là ROE chỉ tìm thấy sự tác động thuận chiều của
1 biến là BODSIZE.
Trong các biến này thì Quy mô của HĐQT có ảnh hưởng nhiều nhất đến
KQTC. Khi số lượng thành viên HĐQT tăng lên 1% thì giá trị trung bình của ROA
tăng lên 25.93%, còn nếu số lượng thành viên HĐQT tăng lên 1% thì giá trị trung
bình của ROE tăng lên 60.83% (giả định các yếu tố khác không thay đổi). Như vậy
kết quả nghiên cứu đã ủng hộ giả thuyết H1 tức là Quy mô HĐQT có mối quan hệ
cùng chiều với KQTC của các công ty gia đình.
Mức độ ảnh hưởng lần lượt của các biến tiếp theo là BODOWN, FEMALE,
INDEP tác động thuận chiều với KQTC là ROA. Kết quả nghiên cứu cho thấy nếu tỷ
lệ sở hữu gia đình tăng lên 1% thì giá trị trung bình của ROA tăng lên 0.608%; tỷ nữ
giới trong HĐQT tăng lên 1% thì giá trị trung bình của ROA tăng lên 0.27%; tỷ lệ
thành viên độc lập trong HĐQT tăng lên 1% thì giá trị trung bình của ROA tăng lên
0.123%. Luận án tìm thấy bằng chứng khi nghiên cứu Top 10 công ty có ROA cao
nhất cho thấy tỷ lệ sở hữu trung bình của những công ty này là 34% cao hơn so mức
trung bình của toàn bộ các công ty gia đình trong mẫu nghiên cứu là 24,83%.
Thứ hai, các biến độc lập có tác động ngược chiều với KQTC
Có 3 biến độc lập tác động ngược chiều với KQTC của các công ty niêm yết sở
hữu gia đình ở Việt Nam là: Tính song trùng (DUALITY), độ tuổi bình quân của các
thành viên HĐQT (AGE), Tỷ lệ thành viên nước ngoài trong HĐQT (FOREIGN).
Kết quả này tìm thấy trong cả 2 trường hợp mô hình ước lượng FEM khi biến phụ
thuộc là ROA, ROE. Trong 3 biến này, ảnh hưởng lớn nhất là biến AGE, nếu độ tuổi
trung bình của các thành viên HĐQT tăng lên 1% thì giá trị trung bình của ROE giảm
đi 274.63% và nếu độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT tăng lên 1% thì giá
trị trung bình của ROA giảm đi 112.13%.
Mức độ ảnh hưởng tiếp theo là đến biến DUALITY, nếu CEO kiêm nhiệm
luôn cả chủ tịch HĐQT thì làm cho giá trị trung bình của ROA giảm đi 4.76% còn giá
trị trung bình của ROE giảm đi 10.27%. Cuối cùng là ảnh hưởng thuận chiều của biến
FOREIGN, nếu tỷ lệ người nước ngoài trong HĐQT tăng lên 1% nếu tỷ lệ người

nước ngoài trong HĐQT tăng lên 1% thì giá trị trung bình của ROA giảm đi 0.39%,
thì giá trị trung bình của ROE giảm đi 0.82%. Đối với biến DUALITY, luận án so
sánh giá trị bình quân ROA của 2 nhóm công ty có sự kiêm nghiệm 6,2% cao nhóm
công ty không có sự kiêm nhiệm (5,1%). Tương tự như vậy, kết quả cho thấy nhóm
công ty có hiện tượng song trùng lãnh đạo ROA thấp hơn nhóm công ty không có
hiện tượng này.
Thứ ba, ảnh hưởng của các biến kiểm soát đến KQTC

Đối với các biến kiểm soát, cả 2 mô hình ước lượng FEM khi KQTC được đo
lường bằng chỉ tiêu ROA, ROE đều cho kết quả tương đồng về sự ảnh hưởng của các
nhân tố. 2 biến kiểm soát có tác động cùng chiều đến KQTC là số năm thành lập và
tốc độ tăng trưởng, 2 biến có tác động ngược chiều đến KQTC là số năm niêm yết và
quy mô công ty.
Ngoài ra, có 1 số biến trong mô hình không có tác động/ảnh hưởng đến KQTC của
các công ty gia đình. Đó là các biến trình độ học vấn của thành viên HĐQT (EDU), tỷ lệ
thành viên gia đình trong HĐQT (FAMILY) và đòn bẩy tài chính (LEVER).
5.1.2. Kết luận và thảo luận kết quả nghiên cứu
Giả thuyết H1: Quy mô HĐQT có mối quan hệ cùng chiều với KQTC của các
công ty niêm yết sở hữu gia đình được chấp nhận ở cả 2 mô hình có biến phụ thuộc là
ROA và ROE.
Giả thuyết H2: Có mối tương quan ngược chiều giữa tính song trùng vị trí chủ
tịch HĐQT và CEO đến KQTC trong các công ty gia đình được chấp nhận ở cả 2 mô
hình có biến phụ thuộc là ROA và ROE.
Giả thuyết H3: Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có tác động tích cực đến hiệu
quả hoạt động của công ty gia đình được chấp nhận trong mô hình KQTC được đo
lường bằng chỉ tiêu ROA.
Giả thuyết H4: Về tính đa dạng trong thành phần HĐQT:
Giả thuyết H4a: Tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT có tác động tích cực với
KQTC của các công ty gia đình được chấp nhận trong mô hình KQTC được đo lường
bằng chỉ tiêu ROA.

Giả thuyết H4b: Độ tuổi của thành viên HĐQT có ảnh hưởng cùng chiều đến
KQTC của các công ty gia đình giả thuyết bị bác bỏ trong cả 2 trường hợp KQTC
được đo lường bằng chỉ tiêu ROA, ROE.
Giả thuyết H4c: Có mối tương quan ngược chiều giữa tỷ lệ thành viên nước
ngoài trong HĐQT và KQTC của các công ty gia đình được chấp nhận trong cả 2
trường hợp KQTC được đo lường bằng chỉ tiêu ROA, ROE. Tuy nhiên, tỷ lệ thành
viên HĐQT là người nước ngoài là rất nhỏ nên kết quả này gần như không có ý nghĩa
về mặt thống kê.
Giả thuyết H5: Tỷ lệ sở hữu của thành viên gia đình trong HĐQT và những
người có liên quan ảnh hưởng thuận chiều đến KQTC của các công ty gia đình được
chấp nhận trong mô hình KQTC được đo lường bằng chỉ tiêu ROA.
5.2. Một số khuyến nghị
5.2.1. Khuyến nghị đối với các công ty niêm yết sở hữu gia đình
Thứ nhất, cần chuyên nghiệp hóa hội đồng quản trị trong các công ty gia
đình: (i) xây dựng một quy mô HĐQT hiệu quả và hợp lý; (ii) cần tách bạch vị trí
chủ tịch HĐQT và CEO; (iii) cần đảm bảo tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập trong
các công ty gia đình; (iv) đảm bảo một cơ cấu HĐQT với tỷ lệ thành viên nữ phù
hợp trong các công ty gia đình; (v) các công ty gia đình ở Việt Nam nên trẻ hóa


23

24

đội ngũ thành viên HĐQT.
Thứ hai, xây dựng cơ chế quản trị công ty gia đình hiệu quả
Cơ chế và quy chế của công ty gia đình phải được thể chế hóa bằng hoạt động
cụ thể như: Xác định rõ các giá trị, tuyên bố sứ mệnh và định hướng kinh doanh của
gia đình, tách bạch 2 vấn đề về gia đình và doanh nghiệp; Xây dựng một bộ quy tắc
ứng xử trong gia đình; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các

thành viên gia đình, HĐQT và ban giám đốc; Bổ sung thêm các thành viên HĐQT
độc lập bên ngoài không thuộc kiểm soát của gia đình để trung hòa các xung đột, mâu
thuẫn gia đình và tăng cường tính kỷ luật trong công ty; Thường xuyên đổi mới sáng
tạo trong tư duy, trong quản trị điều hành để nâng cao năng lực tiếp cận cách mạng
công nghiệp 4.0.
5.2.2. Khuyến nghị đối với cơ quan quản lý
Thứ nhất, nhóm biện pháp kiểm soát nâng cao kết quả tài chính và hiệu quả
hoạt động của công ty gia đình: quy định và kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo tính minh
bạch nhất là đối với việc công bố thông tin trên các báo cáo thường niên và báo cáo
QTCT đối với các công ty gia đình; cần có chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các
doanh nghiệp vi phạm về tính minh bạch và chất lượng công bố thông tin; xây dựng
bộ quy tắc quản trị công ty riêng cho các công ty niêm yết sở hữu gia đình.
Thứ hai, nhóm biện pháp hỗ trợ cho sự phát triển của công ty gia đình: Mở
rộng và phát triển các chương trình đào tạo, tập huấn riêng cho các công ty gia đình
theo tiêu chuẩn quốc tế; hình thành các sổ tay riêng về QTCT gia đình và hướng dẫn
công bố thông tin trên cơ sở các những thông lệ tốt về QTCT gia đình trên thế giới để
giúp các công ty gia đình “tổ chức hoạt động QTCT hiệu quả để vừa đáp ứng yêu cầu
của pháp luật, đồng thời tránh được những biến động khách quan gây ảnh hưởng tới
doanh nghiệp”.

Luận án đã đưa ra một số kết quả nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, xây dựng định nghĩa công ty gia đình phù hợp với đối tượng nghiên
cứu thực nghiệm về kết quả tài chính là công ty có một trong những đặc điểm sau:
Thứ hai, nghiên cứu đặc điểm của HĐQT ảnh hưởng đến KQTC cho thấy các tác
động khác nhau ở các mô hình khi KQTC được đo lường bằng chỉ tiêu ROA, ROE.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu cho thấy những đặc điểm khác biệt của HĐQT
trong các công ty gia đình: (i) Kết quả tài chính của các công ty gia đình tốt hơn các
công ty niêm yết trên thị trường nhưng vẫn thuộc nhóm có số điểm QTCT cần phải
cải thiện hiệu quả hoạt động; (ii) Tỷ lệ song trùng lãnh đạo của các công ty gia đình
cao hơn so với các công ty niêm yết trên toàn bộ thị trường thị trường; (iii) Tỷ lệ sở

hữu của thành viên gia đình trong HĐQT và những người có liên quan là đặc điểm
thể hiện đặc tính gia đình và tính chi phối của công ty gia đình; (iv) Kết quả tài chính
của các công ty gia đình tốt hơn so với các công ty niêm yết trên toàn bộ thị trường.
Từ kết quả nghiên cứu luận án đã khuyến nghị một số chính sách QTCT hiệu quả
đối với các công ty niêm yết sở hữu gia đình với 2 nhóm đối với các công ty gia đình
vàđối với cơ quan quản lý
Tuy nhiên, luận án cũng còn một số hạn chế cần phải hoàn thiện như về số
lượng mẫu nghiên cứu do tính minh bạch của việc công bố thông tin trên thị trường.
Đồng thời, luận án chưa so sánh được đặc điểm HĐQT ảnh hưởng khác nhau như thế
nào đối giữa 2 nhóm công ty gia đình và công ty phi gia đình. Vì vậy, hướng nghiên
cứu tiếp theo của luận án có thể đề cập đến việc nghiên cứu đặc điểm HĐQT trong
mối quan hệ với KQTC trên cơ sở so sánh 2 nhóm công ty gia đình và phi gia đình để
thấy được sự tác động lên KQTC của nhóm công ty nào sẽ tốt hơn hoặc xem xét các
đến các khía cạnh khác về công ty gia đình đặc biệt là vấn đề ai là người sáng lập để
khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp đó cho đến thời điểm nghiên cứu hay bổ sung
thêm một số đặc điểm khác của HĐQT ảnh hưởng đến KQTC như năng lực, kỹ năng,
kinh nghiệm, trình độ chuyên môn được đào tạo của HĐQT…

PHẦN KẾT LUẬN
Cùng với việc tìm ra kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa đặc
điểm HĐQT và KQTC ở các công ty niêm yết sở hữu gia đình ở Việt Nam, luận án
cũng đã tổng hợp các định nghĩa về công ty gia đình để lựa chọn định nghĩa phù hợp
cho đối tượng nghiên cứu của đề tài. Trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước để tìm ra “khoảng trống nghiên cứu” luận án xây dựng các giả
thuyết nghiên cứu, xem xét sự tác động của đặc điểm HĐQT lên KQTC của các công
ty niêm yết sở hữu gia đình. Phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa phương pháp định
tính và định lượng sử dụng mô hình ước lượng cho dữ liệu bảng là mô hình Pooled
OLS, mô hình FEM và mô hình REM sau đó dùng các kiểm định để lựa chọn mô
hình phù hợp. Nghiên cứu định tính với kỹ thuật phỏng vấn sâu các chuyên gia có
hướng nghiên cứu về QTCT, các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý doanh

nghiệp, hỗ trợ xây dựng văn bản để củng cố thêm kết quả nghiên cứu và đưa ra gợi ý
một số khuyến nghị.



×