Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Kiểm định mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính của các công ty niêm yết ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------------------------------NGUYỄN MINH NHỰT

KIỂM ĐỊNH MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý KIẾN KIỂM
TOÁN VÀ QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN TRÊN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT Ở
VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: KẾ TOÁN
MÃ SỐ: 60340301

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. MAI THỊ HOÀNG MINH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế: “Kiểm định mối quan hệ giữa ý kiến
kiểm toán và quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính của các công ty niêm yết
ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc của bản thân. Nội dung,
kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và dựa theo số liệu thu
thập được. Các tài liệu, đoạn trích dẫn được sử dụng trong luận văn đều được dẫn
nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tác giả.
TP. HCM, tháng 12 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Nhựt



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... 2
MỤC LỤC ................................................................................................................. 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................................... 5
DANH MỤC CÁC BẢNG ....................................................................................... 6
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU .......................................................... 1
1.1

Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................1

1.1.1

Lý do thực tiễn ........................................................................................1

1.1.2

Lý do lý luận ..........................................................................................2

1.2

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ......................................................................3

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................4

1.4

Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................4


1.5

Ý nghĩa của nghiên cứu .................................................................................4

1.6

Kết cấu của luận văn ......................................................................................5

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN TRƯỚC ĐÂY ............................................................................. 6
2.1 Cơ sở lý thuyết ...................................................................................................6
2.1.1 Cơ sở lý thuyết về kiểm toán báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán.........6
2.1.1.1 Khái niệm và vai trò của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính ......6
2.1.1.2 Các loại ý kiến của Báo cáo kiểm toán ................................................7
2.1.2 Cơ sở lý thuyết về quản trị lợi nhuận của công ty ...................................12
2.1.2.1 Định nghĩa quản trị lợi nhuận và hành vi quản trị lợi nhuận .............12
2.1.2.3 Cách thức tiến hành quản trị lợi nhuận ..............................................22
2.1.2.4 Định lượng hành vi quản trị lợi nhuận ..............................................26
2.2 Tổng quan các nghiên cứu có liên quan trước đây ..........................................36
2.2.1 Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa việc phát hành ý kiến kiểm toán và
việc quản trị lợi nhuận ...........................................................................................36
2.2.2 Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa việc phát hành ý kiến kiểm toán bởi
công ty kiểm toán danh tiếng và việc quản trị lợi nhuận ......................................37


2.3 Giả thiết nghiên cứu.........................................................................................39
CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................. 40
3.1


Mô hình nghiên cứu .....................................................................................40

3.2

Dữ liệu nghiên cứu ......................................................................................45

3.2.1

Lựa chọn mẫu .......................................................................................45

3.2.2

Thu thập dữ liệu ....................................................................................46

3.3

Phương pháp nghiên cứu .............................................................................46

CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................... 48
4.1

Thống kê mô tả ............................................................................................48

4.1.1

Thống kê mô tả mẫu .............................................................................48

4.1.2

Thống kê mô tả các biến .......................................................................51


4.2

Ma trận hệ số tương quan giữa các biến ......................................................53

4.3

Phân tích hồi quy .........................................................................................56

4.3.1

Phân tích sự phù hợp của mô hình ........................................................56

4.3.2 Kiểm định giả thiết H1 ..............................................................................57
4.3.2 Kiểm định giả thiết H2 ..............................................................................58
4.3.3

Phân tích mối quan hệ của các biến kiểm soát .....................................59

CHƯƠNG V: KẾT LUẬN, HẠN CHẾ VÀ ĐỀ XUẤT ...................................... 61
5.1 Kết luận ............................................................................................................61
5.2 Hạn chế của bài nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo ..............62
5.2.1 Hạn chế của bài nghiên cứu ......................................................................62
5.2.1 Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo .........................................................63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH SÁCH CÔNG TY TRONG MẪU NGHIÊN CỨU


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

BCTC

Báo cáo tài chính

VAS

Chuẩn mực kế toán Việt Nam

VSA

Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam

OLS

Ordinary least squares

Phương pháp bình phương bé nhất

HNX

Hanoi Stock Exchange

Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội


HOSE

Hochiminh City Stock Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí
Exchange
Minh


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng

Trang

Bảng 3.1: Bảng tóm tắt các biến ............................................................................... 43
Bảng 4.1: Số lượng ý kiến kiểm toán trong giai đoạn nghiên cứu............................ 48
Bảng 4.2: Tổng hợp báo cáo kiểm toán bởi nhóm công ty kiểm toán ...................... 48
Bảng 4.3: Tổng hợp loại kiểm toán bởi các công ty kiểm toán không nằm trong
nhóm Big 4 ................................................................................................................ 48
Bảng 4.4: Tổng hợp loại kiểm toán bởi các công ty kiểm toán không nằm trong
nhóm Big 4 ................................................................................................................ 49
Bảng 4.5: Bảng phân tích phương sai ý kiến kiểm toán giữa 2 sàn HOSE
và HNX ..................................................................................................................... 50
Bảng 4.6: Bảng thống kê mô tả các biến của toàn mẫu ............................................ 51
Bảng 4.7: Bảng thống kê mô tả các biến dạng ý kiến không điều chỉnh .................. 51
Bảng 4.8: Bảng thống kê mô tả các biến dạng ý kiến điều chỉnh ............................. 52
Bảng 4.9: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến ................................................... 55
Bảng 4.10: Kết quả hồi quy mô hình phân tích ........................................................ 56
Bảng 4.11: Bảng kỳ vọng dấu và kết quả hồi quy .................................................... 57


1


CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU

1.1

Tính cấp thiết của đề tài

1.1.1 Lý do thực tiễn
Thực tế, gian lận hay nói khác hơn việc quản trị lợi nhuận trong công bố thông
tin trên BCTC là một trong những chủ đề thời sự hiện nay, đặc biệt sau sự kiện hàng loạt
các công ty hàng đầu trên thế giới bị phá sản vào đầu thế kỷ 21. Các công ty bị phá sản
đã cho là có gian lận về BCTC có thể kể ra rất nhiều như sự đổ vỡ của Tập đoàn năng
lượng Enron, vụ bê bối về tài chính của Tập đoàn viễn thông Worldcom dẫn tới Công
ty đi đến bờ vực phá sản,… Nhà quản lý cao cấp gồm cả giám đốc điều hành (CEO) và
giám đốc tài chính (CFO) của những công ty này đều bị cho rằng đã tham gia vào việc
chế biến số liệu đưa đến BCTC gian lận. Tại Việt Nam, việc BCTC có sai phạm trọng
yếu nhưng kiểm toán không phát hiện được hoặc như có sự chênh lệch lợi nhuận lên
hàng trăm tỷ đồng giữa BCTC trước và sau kiểm toán. Chẳng hạn như Công ty Cổ
phần Chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín số liệu sau kiểm toán lỗ tăng
thêm gần 179 tỷ đồng hay Tổng Công ty Xây lắp Dầu khí Việt Nam có lợi nhuận sau
kiểm toán giảm 107 tỷ đồng. Không chỉ số liệu sau kiểm toán so với trước kiểm toán
lỗ tăng thêm hoặc lời giảm xuống mà nhiều trường hợp lại là số lời tăng thêm như
Công ty Cổ phần Nhiệt điện Bà Rịa số liệu trước kiểm toán lỗ 176,66 tỷ đồng nhưng
số liệu sau kiểm toán lời 62,71 tỷ đồng, tổng Công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu
khí Việt Nam số liệu sau kiểm toán lời được điều chỉnh tăng thêm 168,53 tỷ đồng.
Một trường hợp khác mà Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã đình chỉ đợt chào bán
cổ phiếu ra công chúng là của công ty cổ phần Dược Phẩm Viễn Đông. Công ty này
đã đưa vào bản cáo bạch chào bán cổ phiếu một số thông tin sai lệch và bỏ sót các
thông tin quan trọng, gây hiểu nhầm và ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư.
Các sai phạm ở một số công ty niêm yết khác như là công khai tình hình tài chính

nhưng không có báo cáo kiểm toán đính kèm theo, một số BCTC đã được kiểm toán
thì báo cáo kiểm toán cũng chưa đảm bảo chất lượng điển hình như vụ kết quả kiểm


2

toán chưa chính xác của các công ty kiểm toán độc lập đối với công ty cổ phần Bông
Bạch Tuyết.

1.1.2 Lý do lý luận
Trong xu thế phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán
Việt Nam nói riêng, nhu cầu về các thông tin về tình hình tài chính của các công ty
niêm yết là một nhu cầu vô cùng thiết yếu đối với người sử dụng BCTC. Tuy nhiên,
do sự mâu thuẫn lợi ích giữa các bên mà chủ yếu là mâu thuẫn lợi ích giữa nhà đầu
tư và công ty muốn thu hút đầu tư mà phần nào đó BCTC được công bố đã bị bóp
méo theo ý muốn của người lập và trình bày. Lý thuyết thông tin bất cân xứng chỉ ra
rằng nhà quản lý thường có xu hướng cung cấp thông tin có lợi cho họ và các đối
tượng khác không có điều kiện tiếp cận thông tin gốc nên khả năng sẽ đưa ra quyết
định sai. Thông qua hình thức này hay hình thức khác nhằm mục đích quản trị lợi
nhuân, nhà quản lý sẽ cung cấp thông tin không đúng cho người sử dụng BCTC.
Ngành kiểm toán ra đời nhằm giảm thông tin bất cân xứng đặc biệt là thông
tin công bố về lợi nhuận, một trong những chỉ tiêu quan trọng thu hút sự quan tâm
của các nhà đầu tư. Nhằm đảm bảo thông tin về lợi nhuận trong kỳ đáng tin cậy và
có thể sử dụng được, vai trò của kiểm toán viên ở đây là phải phát hiện và điều chỉnh
tối thiểu hóa các khoản điều chỉnh mà nhà quản lý có xu hướng thực hiện để đạt được
mức lợi nhuận mong muốn trong quá trình kiểm toán của mình. Người sử dụng luôn
kỳ vọng báo cáo kiểm toán là một sự đảm bảo tuyệt đối về tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Họ cho rằng BCTC đã được kiểm toán phải chính xác. Nhưng kiểm
toán là công việc có những hạn chế tiềm tàng như thông tin kế toán không thể chính
xác do những ước tính kế toán; hay nếu doanh nghiệp cố tình gian lận, giấu thông tin,

làm giả chứng từ thì kiểm toán viên sẽ khó phát hiện ra hoặc công việc và thời gian
kiểm toán còn phụ thuộc vào mức phí. Với những hạn chế vốn có như vậy, dịch vụ
kiểm toán chỉ cung cấp một mức đảm bảo hợp lý.
Xuất phát từ thực tế và lý luận đó, người sử dụng BCTC luôn đặt ra một câu
hỏi rằng liệu có mối quan hệ nào tồn tại giữa ý kiến kiểm toán và quản trị lợi nhuận


3

tại các công ty công bố BCTC. Ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu
định lượng về vấn đề này nên tác giả quyết định chọn đề tài “Kiểm định mối quan
hệ giữa ý kiến kiểm toán và quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính của các
công ty niêm yết ở Việt Nam” để nghiên cứu trong luận văn này.

1.2

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu là cung cấp bằng chứng thực

nghiệm về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi quản trị lợi nhuận ở các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo chuẩn mực kiểm toán,
các loại ý kiến kiểm toán được đưa ra tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Những
truờng hợp này có tính chất và mức độ nghiêm trọng khác nhau tùy thuộc vào mức
độ sai sót trên BCTC ảnh hưởng như thế nào đến quyết định của người sử dụng BCTC
và phạm vi công việc có thể thực hiện được trong một của kiểm toán của kiểm toán
viên. Tuy nhiên, khi kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến
chấp nhận toàn phần có nghĩa là BCTC đã có hành vi quản trị lợi nhuận ở mức độ
cao từ phía nhà quản lý. Do đó, bài nghiên cứu này kỳ vọng rằng các BCTC có hành
vi quản trị lợi nhuận sẽ có khả năng cao nhận được các ý kiến kiểm toán không phải
là ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần. Ngoài ra, liệu rằng việc quản trị lợi nhuận

của các công ty niêm yết có công ty kiểm toán trong nhóm Big4 có dẫn đến khả năng
sẽ nhận ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần cao hơn các công
ty niêm yết có công ty kiểm toán không phải trong nhóm Big4 hay không?
Từ đó, đề tài đưa ra các mục tiêu nghiên cứu như sau:
-

Thứ nhất, nghiên cứu các bài viết, công trình về việc quản trị lợi nhuận trong
các công ty niêm yết, từ đó đưa ra các giả thiết nghiên cứu.

-

Thứ hai, khảo sát và phân tích mối quan hệ giữa các loại ý kiến kiểm toán và
việc quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam.


4

-

Thứ ba, nghiên cứu khả năng nhận ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp
nhận toàn phần đối với việc lựa chọn công ty kiểm toán trong nhóm Big4 khi
công ty niêm yết có hành vi quản trị lợi nhuận.

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ giữa các loại ý kiến kiểm toán và hành

vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu là BCTC của các công ty phi tài chính được niêm yết trên
hai sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX) từ
năm 2011 trở về trước và còn giao dịch đến hết năm 2015.

1.4

Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đã nêu, tác giả đã sử dụng phương pháp

nghiên cứu định lượng theo quy trình: sau khi thu thập đầy đủ dữ liệu của các công
ty niêm yết trên sàn chứng khoán từ 2011 đến 2015, thông qua việc sử dụng công cụ
Eview với mô hình hồi quy OLS, tác giả trình bày và đánh giá kết quả hồi quy thu
được về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi quản trị lợi nhuận của các
công ty niêm yết tại Việt Nam.

1.5

Ý nghĩa của nghiên cứu
Luận văn của tác giả là một công trình nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên

cứu của luận văn đã đóng góp khoa học một số điểm cơ bản như sau:
Về mặt lý luận:
Hệ thống hóa và trình bày các kết quả nghiên cứu trước đây về quản trị lợi
nhuận và về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi quản trị lợi nhuận.
Về mặt thực tiễn:
Bài viết này nghiên cứu một mẫu các công ty phi tài chính niêm yết trên sàn
chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ 2011 – 2015, kiểm định mối quan hệ giữa
các loại ý kiến kiểm toán và quản trị lợi nhuận của các công ty. Thông qua kết quả



5

nghiên cứu, tác giả đưa ra bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa các ý kiến
kiểm toán và quản trị lợi nhuận của các công ty. Từ đó giúp người đọc BCTC có một
số nhận định ban đầu khi tiếp cận báo cáo kiểm toán.

1.6

Kết cấu của luận văn
Luận văn được thực hiện bao phần mở đầu, danh mục các từ viết tắt, danh mục

các bảng, kết luận và được kết cấu bởi 5 chương chính:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN.
Trình bày các công trình nghiên cứu trước đây có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu của đề tài làm cơ sở cho việc hình thành cơ sở lý thiết của mô hình nghiên cứu.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Trình bày cơ sở lý thuyết về báo cáo kiểm toán và các loại ý kiến kiểm toán,
cơ sở lý thuyết về hành vi quản trị lợi nhuận. Đưa ra giả thiết cho bài nghiên cứu.
CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU.
Trình bày chi tiết về phương pháp nghiên cứu gồm: mô hình nghiên cứu và
các biến của mô hình, điều kiện và quy trình chọn mẫu, cách thu thập nguồn dữ liệu
đầu vào, cách xác định giá trị các biến và các phương pháp định lượng được sử dụng
để phục vụ việc nghiên cứu.
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
Trình bày kết quả kỳ vọng lý thuyết về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và
hành vi quản trị lợi nhuận của công ty niêm yết, sau đó tiến hành so sánh và thảo luận
về kết quả k vọng lý thuyết với kết quả đạt được từ mô hình.
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ
Trình bày tóm tắt các kết quả mà nghiên cứu đạt được cùng với các hạn chế
của nghiên cứu và đề xuất những hướng nghiên cứu tiếp theo.



6

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN
CỨU CÓ LIÊN QUAN TRƯỚC ĐÂY
2.1 Cơ sở lý thuyết
2.1.1 Cơ sở lý thuyết về kiểm toán báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán
2.1.1.1 Khái niệm và vai trò của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
“Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng về một thông tin
nhằm xác định và báo cáo về sự phù hợp của thông tin này với các tiêu chuẩn được
thiết lập. Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các kiểm toán viên đủ năng lực
và độc lập.” (Arens & cộng sự, 2013). Do đó tất cả các cuộc kiểm toán đều phải kết
thúc bằng một báo cáo để xác nhận những thông tin được kiểm toán là có phù hợp
với những chuẩn mực đã được thiết lập hay không.
Kiểm toán báo cáo tài chính là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp
kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa
ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu của BCTC của đơn
vị được kiểm toán theo quy định của chuẩn mực kiểm toán (Luật Kiểm toán độc lập
số 67/2011/QH12).
Theo ISA 200, mục đích của kiểm toán BCTC là làm tăng độ tin cậy của người
sử dụng đối với BCTC, thông qua việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu
BCTC có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và
trình bày BCTC được áp dụng hay không. Đối với hầu hết các khuôn khổ về lập và
trình bày BCTC cho mục đích chung, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến về việc liệu
BCTC có được lập và trình bày trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu,
phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày BCTC được áp dụng hay không.
Như vậy, sau khi kết thúc việc kiểm toán, kiểm toán viên cần trình bày ý kiến
kiểm toán một cách rõ ràng bằng văn bản, trong đó nêu rõ cơ sở của ý kiến đó. Văn
bản đó chính là báo cáo kiểm toán. Theo VSA 700 trước đây, báo cáo kiểm toán về

BCTC là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên và công ty kiểm toán lập và


7

công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về BCTC của một đơn vị đã được kiểm
toán.
Salehi và Abedini (2008) cho rằng báo cáo kiểm toán là một phương tiện
truyền thông giữa kiểm toán viên và người sử dụng BCTC, nó cho thấy phần quan
trọng nhất của hoạt động kiểm toán và thể hiện kết quả của việc đánh giá BCTC đến
người sử dụng. Đối với kiểm toán viên, báo cáo kiểm toán là tài liệu trình bày các kết
luận sau cùng về BCTC được kiểm toán, nên nó phải đúc kết được toàn bộ công việc
mà họ đã tiến hành. Đối với công chúng, báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng
quan sát được từ một quá trình không thể quan sát nên nó chứa thông tin cốt yếu cho
những người sử dụng BCTC để đưa ra những quyết định kinh tế (Butler và cộng sự,
2004).

2.1.1.2 Các loại ý kiến của Báo cáo kiểm toán
Nhằm mục tiêu hướng đến hòa hợp và hội tụ với quốc tế trong lĩnh vực kế toán
và kiểm toán, Bộ Tài chính ban hành 37 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam mới kèm
theo Thông tư số 214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2014. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của tác giả là các công ty niêm yết trên
sàn chứng khoán từ 2011 – 2015 nên báo cáo kiểm toán được thu thập cho bài nghiên
cứu chịu sự chi phối của chuẩn mực kiểm toán trước đây và chuẩn mực kiểm toán
sau này. Phần này trình bày các loại ý kiến của báo cáo kiểm toán theo hai hệ thống
chuẩn mực kiểm toán:
 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam trước đây (Ban hành và công bố theo Quyết định
120/1999/QĐ-BTC ngày 27 tháng 09 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và
hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014)
Theo đoạn 34 VSA 700 trước đây, căn cứ kết quả kiểm toán, kiểm toán viên

đưa ra một trong các loại ý kiến về BCTC, như sau:
- Ý kiến chấp nhận toàn phần;
- Ý kiến chấp nhận từng phần;


8

- Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến);
- Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược);
Đối với những BCTC đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng
yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và chế
độ kế toán Việt Nam hiện hành, kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần.
Kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong trường hợp
xảy ra một trong các tình huống có thể ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC, như:
- Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn;
- Bất đồng ý kiến với ban giám đốc;
- Tình huống chưa rõ ràng.
a) Trong trường hợp kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các
bằng chứng kiểm toán và không thực hiện được thủ tục thay thế phù hợp, nếu ảnh
hưởng của việc giới hạn phạm vi kiểm toán nêu trên được xem là trọng yếu nhưng:
+ chưa ảnh hưởng đến tổng thể BCTC thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp
nhận từng phần dạng ngoại trừ (do giới hạn phạm vi kiểm toán);
+ ảnh hưởng đến tổng thể BCTC thì kiểm toán viên xem xét để đưa ra ý kiến từ
chối (ý kiến không thể đưa ra ý kiến).
b) Trong trường hợp kiểm toán viên và ban giám đốc bất đồng ý kiến về việc
lựa chọn, áp dụng chuẩn mực và chế độ kế toán hoặc về sự không phù hợp của các
thông tin ghi trong BCTC hoặc phần thuyết minh BCTC dẫn đến sai lệch trọng yếu
nhưng:
+ chưa ảnh hưởng đến tổng thể BCTC thì kiểm toán việc đưa ra ý kiến chấp
nhận từng phần dạng ngoại trừ (do không thống nhất với ban giám đốc)

+ ảnh hưởng đến tổng thể BCTC thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến không chấp
nhận.


9

c) Đối với trường hợp tồn tại sự kiện không chắc chắn xảy ra trong tương lai,
nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị được kiểm toán và kiểm toán viên, nếu sự
kiện đó được xem là có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC thì kiểm toán viên đưa ra ý
kiến chấp nhận từng phần dạng tùy thuộc vào.
Bên cạnh việc đưa ra ý kiến về BCTC, kiểm toán viên cũng có thể trình bày
đoạn nhấn mạnh về một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến BCTC nhưng
không làm thay đổi ý kiến của kiểm toán viên. Các vấn đề thường được kiểm toán
viên lưu ý là khi thông tin đính kèm với BCTC không nhất quán với BCTC, hoặc khi
khách hàng còn tồn tại yếu tố không chắc chắn trọng yếu liên quan đến các sự kiện
hoặc điều kiện gây ra nghi ngờ về giả định hoạt động liên tục và thông tin này đã
được công bố đầy đủ trong phần thuyết minh BCTC…
 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành (Ban hành kèm theo Thông tư số
214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính và có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/01/2014)
Chuẩn mực kiểm toán hiện hành gồm 37 chuẩn mực, trong đó có ba chuẩn
mực quy định về báo cáo kiểm toán và ý kiến kiểm toán:
- VSA 700: Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán về BCTC.
- VSA 705: Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần
- VSA 706: Đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” và “Vấn đề khác” trong báo cáo
kiểm toán về BCTC.
VAS 700 hiện hành quy định ý kiến kiểm toán gồm hai dạng:
Ý kiến chấp nhận toàn phần khi kiểm toán viên kết luận rằng BCTC được lập,
trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày BCTC đựợc
áp dụng.

Ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trong báo cáo kiểm toán được
đưa ra trong các trường hợp:


10

- Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn;
- Kiểm toán viên kết luận rằng BCTC, xét trên phương diện tổng thể, vẫn còn
sai sót trọng yếu.
a) Trong trường hợp kiểm toán viên không thể thu thập được đầy đủ bằng
chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán, nhưng kiểm toán
viên kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện
(nếu có) có thể là trọng yếu nhưng:
+ không lan tỏa đối với BCTC thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán ngoại
trừ.
+ lan tỏa đối với bảo cáo tài chính thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến từ chối.
Trong một số rất ít trường hợp liên quan đến nhiều yếu tố không chắc chắn, kiểm
toán viên phải từ chối đưa ra ý kiến khi mặc dù đã thu thập được đầy đủ bằng chứng
kiểm toán thích hợp liên quan đến từng yếu tố không chắc chắn riêng biệt nhưng kiểm
toán viên vẫn kết luận rằng không thể đưa ra ý kiến kiểm toán về BCTC do những
ảnh hưởng tương tác có thể có của những yếu tố không chắc chắn và những ảnh
hưởng lũy kế của những yếu tố này đến BCTC.
b) Trong trường hợp kiểm toán viên kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay
tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu nhưng:
+ không lan tỏa đối với BCTC thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán ngoại
trừ.
+ lan tỏa đối với BCTC thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán trái ngược.
Nếu kiểm toán viên thấy cần phải thu hút sự chú ý của người sử dụng đối với
một vấn đề đã được trình bày hoặc thuyết minh trong BCTC, mà theo xét đoán của
kiểm toán viên, vấn đề đó là đặc biệt quan trọng để người sử dụng hiểu được BCTC

thì kiểm toán viên phải trình bày thêm đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” trong báo cáo
kiểm toán, để thể hiện là kiểm toán viên đã thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán
thích hợp cho thấy vấn đề đó không bị sai sót trọng yếu trong BCTC. Đoạn “Vấn đề


11

cần nhấn mạnh” chỉ được đề cập đến các thông tin đã được trình bày hoặc thuyết
minh trong BCTC để không làm giảm tính hữu hiệu của nó như:
- Sự không chắc chắn liên quan tới kết quả trong tương lai của các vụ kiện tụng
hoặc các quyết định của cơ quan quản lý;
- Việc áp dụng một chuẩn mực kế toán mới trước ngày có hiệu lực (nếu được
phép) mà việc áp dụng đó có ảnh hưởng lan tỏa đối với BCTC;
- Một biến cố lớn đã ảnh hưởng hoặc tiếp tục có ảnh hưởng đáng kể đến tình
hình tài chính của đơn vị.
Nếu kiểm toán viên thấy cần phải trao đổi về một vấn đề khác ngoài các vấn
đề đã được trình bày hoặc thuyết minh trong BCTC, mà theo xét đoán của kiểm toán
viên, vấn đề khác đó là thích hợp để người sử dụng hiểu rõ hơn về cuộc kiểm toán,
về trách nhiệm của kiểm toán viên hoặc về báo cáo kiểm toán, đồng thời pháp luật và
các quy định cũng không cấm việc này thì kiểm toán viên phải trình bày về vấn đề
đó trong báo cáo kiểm toán, với tiêu đề “Vấn đề khác” hoặc “Các vấn đề khác”.
So sánh hai hệ thống chuẩn mực này về phương diện ý kiến kiểm toán, ta thấy
có hai thay đổi cơ bản:
- Thứ nhất, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành gộp ý kiến ngoại trừ, ý
kiến không chấp nhận và ý kiến từ chối đưa ra ý kiến thành dạng ý kiến không phải
là ý kiến chấp nhận toàn phần. Như vậy chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành
phân loại ý kiến kiểm toán thành hai loại chính là ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn
phần và ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần.
- Thứ hai, khi có yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn liên quan đến sự
kiện có thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và kiểm

toán viên thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến có đoạn nhấn mạnh thay vì ý kiến chấp
nhận từng phần dạng tùy thuộc vào. Như vậy, chuẩn mực kiểm toán hiện hành đã loại
bỏ ý kiến chấp nhận từng phần dạng tùy thuộc vào so với chuẩn mực cũ. Sở dĩ có sự
loại bỏ này là vì các xử lý kế toán cho những yếu tố không chắc chắn đã được quy


12

định trong VAS 18 – Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng. Nếu doanh nghiệp
áp dụng đúng theo chuẩn mực thì kiểm toán viên không cần đưa ra ý kiến ngoại trừ
dạng tùy thuộc vào nữa.
Tóm lại, để kiểm định mối quan hệ giữa các loại ý kiến kiểm toán với việc
quản trị lợi nhuận của công ty, tác giả chia các loại ý kiến kiểm toán được ban hành
trong giai đoạn 2011 – 2015 theo VSA 700 trước đây thành hai loại ý kiến kiểm toán
chính giống như VSA 700 hiện hành là ý kiến chấp nhận toàn phần và ý kiến không
phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (được thay thế bằng thuật ngữ ý kiến kiểm toán
điều chỉnh). Như vậy, ý kiến kiểm toán điều chỉnh trong phạm vi bài nghiên cứu sẽ
bao gồm ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến không chấp nhận và ý kiến từ chối.
Ngoài ra, ý kiến chấp nhận toàn với đoạn nhấn mạnh cũng được xếp vào nhóm ý kiến
kiểm toán điều chỉnh để tách biệt với ý kiến chấp nhận toàn phần. Mặc dù đây không
phải là cách phân loại chính thức theo như quy định của chuẩn mực kiểm toán quốc
tế cũng như Việt Nam nhưng cách phân loại này thường được sử dụng trong nhiều
nghiên cứu (Butler và cộng sự, 2004; Lin và cộng sự, 2011; Vichitsarawong và
Pornupatham, 2015). Các nghiên cứu phân loại ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn
nhấn mạnh như một dạng điều chỉnh với hàm ý là ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn
phần được xem là ý kiến chuẩn hoặc “hoàn hảo” (clean opinion) và bất cứ một sự
khác biệt nào so với ý kiến chuẩn, kể cả đoạn nhấn mạnh, cũng được xem như là điều
chỉnh.

2.1.2 Cơ sở lý thuyết về quản trị lợi nhuận của công ty

2.1.2.1 Định nghĩa quản trị lợi nhuận và hành vi quản trị lợi nhuận
a. Quản trị lợi nhuận
Các học giả không có sự đồng thuận trong việc định nghĩa quản trị lợi nhuận,
có ít nhất có ba quan điểm:
(1)

Quản trị lợi nhuận là “quá trình thực hiện các bước có chủ ý trong khuôn khổ
những nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi để mang đến một mức độ


13

mong đợi về lợi nhuận được báo cáo” (Davidson, Stickney và Weil (1987),
được trích dẫn trong Schipper (1989) trang 92)
(2)

Quản trị lợi nhuận là “một sự can thiệp có mục đích trong quá trình cung cấp
thông tin tài chính ra bên ngoài nhằm đạt được những lợi ích cá nhân” “Một sự
mở rộng nhỏ cho định nghĩa này là sẽ bao gồm hành vi quản trị lợi nhuận
“thực”, đạt được bằng việc quyết định thời gian đầu tư hay tài trợ vốn để thay
đổi lợi nhuận được báo cáo hoặc một số bộ phận của nó” (Schipper 1989, trang
92).

(3)

“Hành vi quản trị lợi nhuận xuất hiện khi nhà quản lý sử dụng xét đoán trong
việc lập BCTC và trong việc thực hiện các giao dịch để thay đổi BCTC nhằm
đánh lừa những bên có quyền lợi về tình hình kinh tế của công ty hoặc ảnh
hưởng đến những kết quả của các hợp đồng mà phụ thuộc vào những số liệu
được báo cáo” (Healy và Wahlen 1999, trang 368).

Việc thiếu sự đồng thuận trong định nghĩa về quản trị lợi nhuận đưa đến những

cách hiểu khác nhau về bằng chứng thực nghiệm trong những nghiên cứu nhằm phát
hiện ra hành vi quản trị lợi nhuận, hoặc cung cấp bằng chứng về động cơ của hành vi
quản trị lợi nhuận. Cả ba định nghĩa đều cho rằng đó là những hành vi liên quan đến
việc lập BCTC – bao gồm sắp xếp các giao dịch để có thể áp dụng cách xử lý kế toán
như mong đợi. Tuy nhiên, định nghĩa thứ hai cũng cho thấy quản trị lợi nhuận thông
qua quyết định về thời gian thực hiện đầu tư và tài trợ vốn. Nếu thời gian ghi nhận
một khoản chi phí tự định bị trì hoãn hoặc đẩy nhanh trong một thời gian ngắn trong
năm tài chính thì đó là cách để quản trị lợi nhuận.
Từ đó tác giả rút ra định nghĩa về quản trị lợi nhuận như sau:
Định nghĩa chung: Quản trị lợi nhuận là việc nhà quản lý công ty thực hiện
các tác động trên báo cáo tài chính nhằm tạo ra lợi nhuận như mong muốn của nhà
quản lý.


14

b. Hành vi quản trị lợi nhuận:
Hành vi "là một chuỗi các hành động lặp đi lặp lại. Hành động là toàn thể
những hoạt động (phản ứng, cách ứng xử) của cơ thể, có mục đích cụ thể là nhằm
đáp ứng lại kích thích ngoại giới" là hành động hoặc phản ứng của đối tượng (khách
thể) hoặc sinh vật, thường sử dụng trong sự tác động đến môi trường, xã hội. Hành
vi có thể thuộc về ý thức, tiềm thức, công khai hay bí mật, và tự giác hoặc không tự
giác. Hành vi là một giá trị có thể thay đổi qua thời gian. (theo wikipedia.org).
Hành vi quản trị lợi nhuận xét về góc độ kế toán đó là một hiện tượng trong
việc lập BCTC.
Có hai quan điểm về hành vi quản trị lợi nhuận: quan điểm cơ hội
(opportunistic) cho rằng nhà quản lý đánh lừa nhà đầu tư; quan điểm về thông tin,
được làm sáng tỏ lần đầu tiên bởi Holthausen và Leftwich (1983), việc tự do đưa ra

các quyết định quản lý là phương tiện để các nhà quản lý tiết lộ cho các nhà đầu tư
những mong đợi cá nhân về dòng tiền trong tương lai của công ty.
Các định nghĩa cho rằng hành vi quản trị lợi nhuận được thực hiện nhằm mục
đích che dấu tình trạng đang xấu đi, nhưng cách dùng từ “đánh lừa” trong định nghĩa
của Healy và Wahlen (1999) ngăn cản khả năng là hành vi quản trị lợi nhuận có thể
xảy ra nhằm mục đích tăng cường các dấu hiệu trong báo cáo lợi nhuận. Ví dụ như
khi một nhà quản lý khai thiếu thu nhập bằng cách tăng các khoản dự phòng đối với
các khoản nợ xấu, các khoản hàng tồn kho lỗi thời. Với thông tin về các khoản lập
dự phòng trên thông thường là một dấu hiện để nhà đầu tư phân biệt một doanh nghiệp
yếu và một doanh nghiệp mạnh. Tuy nhiên, hành động trên của nhà quản lý nhằm
đánh lừa nhà đầu tư bởi vì nhà quản lý có thể đang để dành thu nhập cho những kỳ
sau. Điều này có thể là do các cam kết về thưởng trong định nghĩa thứ ba. Để giải
thích, các nghiên cứu trước không thể phân biệt liệu rằng kinh nghiệm của nhà quản
lý về các quyết định là để đánh lừa hay để thông tin, kết luận điển hình trong các
nghiên cứu là các khoản khuyến khích đưa đến hành vi quản trị lợi nhuận trên thực
tế (de facto opportunistic earning management). Theo định nghĩa thứ ba, hành vi quản


15

trị lợi nhuận nghiên nhiều về gian lận. Gian lận được định nghĩa là “một hoặc nhiều
hành vi cố ý được thiết kế để đánh lừa người khác và gây cho họ những tổn thất về
tài chính” (National Association of Certified Fraud Examiners, 1993). Do đó, khác
biệt chính giữa định nghĩa thứ ba và gian lận là những bên có lợi ích có thể lường
trước hành vi của nhà quản lý và đàm phán những điều khoản trong hợp đồng.
Có thể nói rằng, định nghĩa của quản trị lợi nhuận tập trung vào mục đích, ý
định của nhà quản trị, đó là khó khăn đáng kể để tiếp cận, quan sát (Dechow &
Skinner, 2000; Lo, 2008; Wiedman, 2002). Vì tính phức tạp, trừu tượng, đa dạng và
khó nắm bắt đó mà các cuộc thảo luận về việc đo lường quản trị lợi nhuận vẫn đang
tiếp tục.

Mặc dù có khá nhiều cách ghi nhận quản trị lợi nhuận trước đây, nhưng trong
phần lớn các nghiên cứu, cụ thể là các nghiên cứu của Lo (2007), Roychowdhury
(2006), Graham et al (2005) và Bruns & Merchant (1990) đã nhóm quản trị lợi nhuận
thành hai loại: Quản trị lợi nhuận thực (Real Earning Management) như là một hành
động có ảnh hưởng đến dòng tiền và quản trị lợi nhuận dựa trên biến kế toán dồn tích
(Accrual Management) thông qua những thay đổi trong chính sách kế toán và ước
tính kế toán. Đây cũng là hai cách tiếp cận nhận được sự chú ý và công bố rộng rãi.
Cụ thể, những tài liệu học thuật nghiên cứu quản trị lợi nhuận thông qua các thao tác
lên các biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh như Jones (1991), Dechow et al.
(1995), Tahir et al. (2011), Daniel et al. (2008), Dechow et al. (2010); thông qua quản
trị lợi nhuận thực như Bartov (1993), Gunny (2010), Graham et al. (2005),
Roychowdhury (2006); hay cả hai như Zhang (2007), Cohen et al. (2008), Bartov &
Cohen (2009), Cohen & Zarowin (2010).
Ngoài ra, một nghiên cứu khác của Jiraporn et al (2006) lại nhóm quản trị lợi
nhuận hành hai nhóm là quản trị lợi nhuận thu lợi (Beneficial Earning Management)
và quản trị lợi nhuận cơ hội (Opportunistic Earning Management). Quản trị lợi nhuận
thu lợi được coi là hữu ích nếu nó có thể sử dụng chính sách của mình để truyền đạt
thông tin riêng mà nó có về triển vọng của công ty – điều không thể được nhìn thấy


16

trên lịch sử BCTC của công ty (Arya, Glover & Sunder, 2003; Demski, 1998;
Subramanyam, 1996; Watts & Zimmerman, 1986).Trong khi quản trị lợi nhuận được
coi là cơ hội nếu nhà quản lý dùng chính sách của họ để phát huy tối đa lợi ích của
họ bằng cách điều khiển các sự kiện liên quan đến doanh thu của công ty (Healy &
Palepu, 1993).
Trong quá trình nghiên cứu đã cho tác giả thấy cách tiếp cận trước nhất nhưng
cũng là cách tiếp cận phổ biến nhất đối với quản trị lợi nhuận chính là sử dụng biến
kế toán dồn tích (trích trước). Các ý kiến ủng hộ cho rằng các nhà quản lý sẽ sử dụng

phương pháp trích trước tùy ý để doanh thu dịch chuyển giữa các kỳ kế toán hoặc
trong việc trì hoãn chi tiêu (Jones, 1991; Dechow et al., 1995). Cách tiếp cận này
phân loại các khoản trích trước vào hai thành phần: trích trước tùy ý và không tùy ý
hay còn gọi là biến kế toán dồn tích điều chỉnh được (Discretionary Accruals) và
không điều chỉnh được (Non – Discretionary Accruals). Trích trước không tùy ý là
những phần được tạo ra từ các hoạt động bình thường của công ty mà không có sự
can thiệp của nhà quản trị. Trích trước tùy ý phải chịu tác động của nhà quản lý, nó
thể hiện mức độ điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp do nhà quản trị lựa chọn và
vận dụng các phương pháp kế toán, sử dụng các ước tính kế toán và các giao dịch nội
bộ... Như vậy biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh chính là lợi nhuận có được bằng
việc vận dụng các phương pháp kế toán – chính vì vậy nó được xem là đại diện cho
quản trị lợi nhuận. Tuy nhiên, thách thức lớn đối với các nhà nghiên cứu sử dụng
phương pháp trích trước để phát hiện quản trị lợi nhuận là khả năng của các mô hình
phân loại riêng biệt một cách chính xác các khoản trích trước vào các khoản trích
trước tùy ý và không tùy ý.
Từ đó, tác giả rút ra định nghĩa về hành vi quản trị lợi nhuận như sau:
Định nghĩa chung: hành vi quản trị lợi nhuận là hiện tượng mà nhà quản trị
sử dụng các phương pháp kế toán nhằm điểu chính biến kế toán dồn tích để đạt được
lợi nhuận như mong muốn.


17

Trên đây là những định nghĩa và cách tiếp cận đã được các nhà nghiên cứu
trước tiến hành tìm hiểu, tiếp cận, trình bày và đã được công nhận cũng như sử dụng
khá rộng rãi trong các nghiên cứu liên quan đến quản trị lợi nhuận mà tác giả đã tìm
hiểu và hệ thống lại. Từ đó có thể thấy rằng quản trị lợi nhuận không phải là một khái
niệm mới mẻ và xa lạ, mà từ lâu đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, đồng thời
cũng cho thấy đây là một vấn đề phức tạp, khó khăn trong cách tiếp cận và định nghĩa
chính xác, cụ thể và vẫn luôn là đề tài gây tranh cãi, thu hút sự bàn luận nhằm đưa ra

được định nghĩa chính xác nhất.

2.1.2.2 Động cơ của quản trị lợi nhuận
Quản trị lợi nhuận phản ánh hành động của nhà quản trị trong việc lựa chọn
các phương pháp kế toán để mang lại lợi ích cho họ hoặc làm gia tăng giá trị thị
trường của công ty (Scott, 1997). Việc lựa chọn phương pháp kế toán áp dụng để thực
hiện quản trị lợi nhuận nằm trong khuôn khổ của chuẩn mực kế toán. Do đó, hành
động quản trị lợi nhuận là tuân thủ khuôn khổ pháp lý và là sự vận dụng linh hoạt,
khéo léo các khoản trống trong chuẩn mực kế toán để sắp xếp lại BCTC theo mục
đích chứ không phải là hành động phi pháp. Có nhiều lý do dẫn đến hành động quản
trị lợi nhuận. Dưới đây là một số động cơ đưa đến hành vi quản trị lợi nhuận của nhà
quản trị doanh nghiệp.

2.1.2.2.1 Hợp đồng nợ
Các hợp đồng nợ là một đề tài quan trọng trong nghiên cứu kế toán tài chính
vì người cho vay thường dùng số liệu kế toán để điều tiết các khoản cho vay, ví dụ
như yêu cầu một số mục tiêu hoạt động phải được thỏa mãn hoặc áp đặt giới hạn cho
hoạt động đầu tư và tài chính. Mối liên hệ giữa số liệu kế toán và các hợp đồng nợ
được dùng trong các nghiên cứu nhằm phát hiện (i) tại sao khi các công ty thực hiện
bắt buộc hoặc tự nguyện thực hiện các thay đổi kế toán mà không có ảnh hưởng về
dòng tiền; (ii) các yếu tố quyết định đến các quyết định về các ước tính kế toán có
ảnh hưởng đến thu nhập thuần của nhà quản lý.


18

Nhà quản lý có động cơ gia tăng lợi nhuận nhằm tránh vi phạm các điều khoản
trong hợp đồng nợ. Vì nếu vi phạm các điều khoản này, các chủ nợ có thể tăng lãi
suất hoặc yêu cầu doanh nghiệp trả các khoản nợ ngay lập tức do họ lo sợ rủi ro không
thu hồi được khoản nợ.


2.1.2.2.2 Cam kết thưởng
Các nghiên cứu kiểm tra giả thuyết về tiền thưởng của Healy (1985), Gaver et
al. (1995), Holthausen, Larker and Sloan (1995) cung cấp bằng chứng nhất quán với
việc nhà quản lý thay đổi thu nhập trên báo cáo để gia tăng tiền thưởng. Trừ nghiên
cứu của Healy (1985), những nghiên cứu này cung cấp bằng chứng nhất quán rằng
nhà quản lý giảm thu nhập trên báo cáo để gia tăng tiền thưởng trong tương lai. Thêm
vào đó, Holthausen et al. (1995) tìm thấy một ít bằng chứng về việc nhà quản lý tăng
thu nhập và đề xuất rằng bằng chứng về thu nhập tăng thêm trong nghiên cứu của
Healy (1985) được kết luận bởi thí nghiệm của ông.
Cam kết thưởng là một động cơ mạnh khuyến khích nhà quản lý có hành vi
quản trị lợi nhuận. Hợp đồng cam kết thưởng nhằm cân bằng giữa hành vi của nhà
quản lý với lợi ích của cổ đông vì lợi ích của hai nhóm này có thể xung đột. Hợp đồng
cam kết thưởng cho nhà quản lý có thể khá phức tạp.
Tổng mức lương thưởng cho nhà quản lý bao gồm ba thành phần, tiền lương,
trợ cấp hưu trí và chăm sóc sức khỏe, và tiền thưởng. Ba thành phần này phụ thuộc
lẫn nhau, nhưng thành phần thứ ba có liên quan cụ thể đến các chức năng kiểm soát
quản lý. Trong đó, mối quan hệ giữa tiền thưởng và hành vi điều chỉnh lợi nhuận
được thảo luận chính.
Phương án tiền thưởng có thể phân loại thành kế hoạch ngắn hạn và kế hoạch
dài hạn. Kế hoạch tiền thưởng ngắn hạn dựa trên kết quả trong năm nay. Kế hoạch
thưởng dài hạn dựa trên kết quản trong hoạt động dài hạn và có liên quan đến giá của
cổ phiếu phổ thông của công ty. Một nhà quản lý có thể kiếm được tiền thưởng theo


19

cả hai kế hoạch. Hiện kim cho các khoản thưởng ngắn hạn và quyền chọn mua cổ
phiếu của công ty khi thưởng dài hạn.
Có sự khác biệt lớn trong tỷ lệ các khoản tiền thưởng so với lương cơ bản.

Công ty với tỷ lệ tiền thưởng cao có xu hướng về tình hình tài chính tiếp theo tốt hơn
những công ty khác (Gerhart và Milkovich, 1990). Kế hoạch thưởng dựa vào mức
thu nhập trần và mức thu nhập sàn. Giữa mức trần và sàn, tiền thưởng là một tỷ lệ
phần trăm của thu nhập. Ở mức trần, tiền thưởng là tối đa và ở dưới mức sàn thì không
có tiền thưởng. Trên mức trần và dưới mức sàn, thu nhập được hoãn lại cho đến giai
đoạn sau. Thời gian ghi nhận của các giao dịch, đặc biệt là các khoản dồn tích cuối
năm, có thể được sử dụng để chuyển thu nhập từ một giai đoạn kế toán sang giai đoạn
kế toán tiếp theo. Thu nhập có thể được quản lý bằng cách điều chỉnh các khoản dồn
tích tự định. Theo nghiên cứu của DeAngelo và Skinner (1994) đã có bằng chứng cho
thấy các khoản dồn tích có thể bị thao túng bởi các nhà quản lý để che giấu hiệu suất
kém hoặc trì hoãn một phần thu nhập bất thường để dành cho những năm tới.
Nghiên cứu của Baker và các cộng sự (2003) về mối quan hệ giữa cấu trúc của
tiền thưởng cho nhà quản lý, đặc biệt là hình thức thưởng bằng quyền mua cổ phiếu
với việc sử dụng các khoản dồn tích tự định trong báo cáo thu nhập. Họ cho rằng
quyền chọn mua cổ phiếu tạo động cơ để tạm thời làm suy giảm giá cổ phiếu của
công ty trước ngày được thưởng bằng quyền chọn, do đó hạ thấp giá thực hiện của
quyền chọn. Họ đưa ra giả thuyết, và tìm thấy bằng chứng rằng thưởng bằng quyền
chọn mua cổ phiếu có quan hệ với việc lựa chọn các khoản dồn tích tự định nhằm
làm giảm thu nhập trong giai đoạn hướng đến ngày được thưởng.
Theo lý thuyết đại diện, nhà quản lý chỉ là người đại diện cho các cổ đông.
Các nhà quản lý và các cổ đông có quyền lợi khác nhau cho nên nhà quản lý hành
động vì lợi ích của họ thay vì của các cổ đông. Nếu có cơ hội nhà quản lý sẽ điều
chỉnh thu nhập để tối đa lợi ích của họ. Các nhà quản lý sẽ sử dụng các khoản dồn
tích tự định, chi phí cho nợ khó đòi, thời điểm ghi nhận giao dịch để quản trị lợi nhuận
nhằm gia tăng giá cổ phiếu và thu lãi từ quyền chọn cổ phiếu. Trong một số trường


×