Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

SKKN một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn toán lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.3 KB, 23 trang )

DÀN Ý TÓM TẮT
PHẦN I/ ĐẶT VẤN ĐỀ

I- Lý do chọn đề tài
II- Mục đích nghiên cứu
III- Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II/ NỘI DUNG

I- Cơ sở lý luận
II- Cơ sở thực tiễn
III- Biện pháp thực hiện
1. Nghiên cứu chương trình giảng dạy - Chuẩn bị đồ dùng dạy học
2. Lựa chọn thời điểm sử dụng đồ dùng
2.1. Linh hoạt trong việc sử dụng đồ dùng.
2.2. Sử dụng đồ dùng phù hợp với từng giai đoạn kiến thức của học sinh.
2.3. Đồ dùng phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh.
3. Lựa chọn phương pháp, hình thức giảng dạy kết hợp với việc sử dụng
đồ dùng.
3.1. Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với phương pháp nêu vấn đề đàm thoại.
3.2. Sử dụng đồ dùng dạy học dưới hình thức hoạt động nhóm trong giờ học.
3.3. Sử dụng đồ dùng dạy học trong phần trò chơi ở cuối tiết học.
4. Tránh lạm dụng khi sử dụng đồ dùng dạy học.
5. Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại có hiệu quả.
6. Làm thêm đồ dùng dạy học.
IV- Kết quả.
PHẦN III/ KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận.
2. Khuyến nghị.

1




PHẦN I/ ĐẶT VẤN ĐỀ
I- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Giáo dục tiểu học ở nước ta đang thực hiện đổi mới đồng bộ nhằm đào tạo
những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu của sự
phát triển đất nước và hội nhập vào tiến bộ chung của thế giới.
Hiện nay giáo dục tiểu học đang thực hiện giảng dạy theo chương trình tiểu
học học mới. Mỗi môn học, bài học đều mới mẻ về nội dung cũng như phương
pháp hình thức tổ chức dạy học. Để các em nắm được nội dung kiến thức thì mỗi
giáo viên phải có phương pháp truyền thụ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của
học sinh tiểu học vì tư duy của các em còn mang tính cụ thể hình tượng.
Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị
trí rất quan trọng, mở đầu cho học sinh đi vào thế giới diệu kỳ của toán học. Dù
sau này lớn lên các em có trở thành kỹ sư, nhà bác học hay những người trực
tiếp lao động trên mọi lĩnh vực sản xuất thì nhứng tri thức đầu đời, những con
số, những phép tính đơn giản vẫn vô cùng cần thiết và đi theo các em suốt cả
cuộc đời.
Môn Toán giúp các em làm quen với các con số, những phép tính và hình
thành kiến thức ban đầu về số học, hình học.
Mặt khác, Toán học là một môn khoa học được ứng dụng nhiều trong thực
tế, giúp các em biết cách tính toán và biết dự tính cuộc sống hằng ngày. Rèn cho
các em kỹ năng, kỹ xảo khi tính toán, rèn tính kiên trì, cẩn thận khi làm việc.
Để lĩnh hội và tiếp thu những kiến thức toán học, người học phải có tư
duy khoa học chính xác. Chính bởi lẽ đó, mỗi kiến thức kỹ năng toán học mà
người giáo viên truyền thụ tới học sinh tiểu học nói chung, đặc biệt là học sinh
lớp hai nói riêng vô cùng quan trọng. Nó được coi như việc làm của người thợ,
đặt từng viên gạch xây nền móng cho tòa lâu đài. Móng nền có vững chắc thì tòa
lâu đài mới vững chãi. Với kiến thức của môn học, để các em nắm bắt được nội

dung kiến thức, hiểu sâu, nhớ lâu thì giáo viên phải có phương pháp giảng dạy
phù hợp, phải luôn tìm tòi sáng tạo, phải đổi mới phương pháp giảng dạy, sử
dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức dạy học
thì giờ học mới đạt hiệu quả cao.
Một trong những điểm đổi mới của phương pháp dạy học Toán ở tiểu học
đó là: sử dụng đồ dụng dạy học trong các tiết dạy. Sử dụng đồ dùng dạy học sẽ
giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung vốn kiến thức hiểu biết
để các em nắm được kiến thức, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
giúp các em phát triển năng lực tư duy và trí tưởng tượng trong Toán học.
2


Nhận thức được vấn đề đó, năm học vừa qua trực tiếp giảng dạy lớp 2, tôi
đã nghiên cứu giáo trình, nghiên cứu tài liệu đổi mới phương pháp dạy học ở
tiểu học, nghiên cứu một số vấn đề về nội dung và phương pháp dạy học Toán ở
tiểu học, nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên môn Toán lớp 2 và kinh
nghiệm của bản thân, tôi đúc rút cho mình một số phương pháp dạy học phù hợp
với học sinh lớp 2 để giúp các em tiếp thu kiến thức Toán một cách dễ dàng và
có hiệu quả cao nhất đó là: Một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán lớp 2.
II- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

- Rèn kỹ năng quan sát, nhận xét, phân tích cho học sinh lớp 2.
- Phát triển năng lực tư duy học tập toán cho học sinh.
- Góp phần nâng cao chất lượng học tập tốt môn Toán và các môn học khác.
III- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

1. Cơ sở lý luận
- Sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học.
- Sách giáo khoa, sách giáo viên Toán lớp 2.

- Tóm tắt các tài liệu.
- Kết hợp với thực tiễn, phân tích các vấn đề từ đó rút ra quan điểm cho
bản thân.
2. Điều tra thực trạng
- Tìm hiểu đối tượng học sinh.
- Khảo sát chất lượng học sinh bằng phương pháp đàm thoại, kiểm tra viết.

3


PHẦN II/ NỘI DUNG
I- CƠ SỞ LÍ LUẬN

Dạy học Toán lớp 2 nhằm giúp các em bước đầu có một số kiến thức cơ
bản, đơn giản, thiết thực về phép cộng, phép trừ có nhớ trong phạm vi 100. Phép
nhân, chia từ bảng 2 đến bảng 5, các số đến 1.000, các đơn vị đo độ dài. Nhận
biết về hình học, hình thành và rèn các kỹ năng thực hành, phân tích, tổng hợp,
trừu tượng hóa, khái quát hóa phát triển trí tưởng tượng cho học sinh trong học
tập cũng như trong đời sống.
Việc dạy Toán ở lớp 2 rất quan trọng. Học tốt môn Toán ở lớp 2 sẽ là tiền
đề để học tốt môn Toán ở các lớp trên. Học sinh lớp 2 các em còn nhỏ, trong học
tập nhanh nhớ nhưng lại nhanh quên. Do đó, giáo viên sử dụng tốt đồ dùng dạy
học trong giờ học sẽ là một trong các yếu tố giúp học sinh dễ nhớ, dễ hiểu bài
hơn. Từ đó, các em tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành Toán.
II- CƠ SỞ THỰC TIỄN

Trong thực tế giảng dạy môn Toán, cũng như các môn học khác, những
bài có đồ dùng học tập thì học sinh tiếp thu bài nhanh hơn so với những tiết dạy
còn thiếu hoặc chưa có đồ dùng học tập. Đúng như vậy, trong đổi mới nội dung,
chương trình sách giáo khoa Toán 2, một việc làm cần thiết là phải có đồ dùng

dạy học. Từ lớp 1 nay đến lớp 2, học sinh được học Toán với bộ sách giáo khoa
mới cùng với “Bộ đồ dùng thực hành học Toán 2”. Tuy nhiên, hiện nay trong
các nhà trường, việc sử dụng đồ dùng học tập trong giờ học toán chưa triệt để,
nó phụ thuộc nhiều vào khả năng của giáo viên trong quá trình sử dụng đồ dùng,
trong nhận thức khi giảng dạy. Một trong những lúng túng của giáo viên khi tiếp
cận với đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học chính là đổi mới nhận thức và
cách sử dụng đồ dùng học toán trên lớp. Đặc biệt, sự đổi mới đó phải bắt đầu từ
việc sử dụng “Bộ đồ dùng thực hành học Toán 2” của học sinh như thế nào cho
đúng mục tiêu và có hiệu quả. Trước kia, đồ dùng dạy học Toán được làm chủ
yếu dành cho giáo viên “biểu diễn” cho học sinh xem để minh họa nội dung bài
học là chính. Nay đã khác, đồ dùng học Toán được làm chủ yếu dành cho học
sinh, để học sinh được thực hành luyện tập. Qua đó, các em được tự tìm hiểu, lĩnh
hội, tự chiễm lĩnh kiến thức. Do đó, việc sử dụng đồ dùng dạy còn nhiều vấn đề
cần khắc phục.
Về phía giáo viên:
Trong quá trình giảng dạy, mốt số giáo viên chưa coi trọng việc sử dụng đồ
dùng dạy học. Khi sử dụng còn qua loa, chiếu lệ chưa phát huy được hết tác dụng
của đồ dùng. Đôi khi còn lạm dụng đồ dùng nên còn tùy tiện, thiếu khoa học.
Về phía học sinh.
4


Học sinh còn nhỏ, khi quan sát đồ dùng chỉ chứ ý đến màu sắc, chưa biết
tự mình nhận xét về bản chất của đồ dùng.
Tư duy của các em còn mang tính cụ thể. Nếu không có đồ dùng trực
quan, học sinh nắm bắt kiến thức toán học có nhiều hạn chế. Vì vậy việc tiếp thu
toán, đặc biệt những dạng toán mới còn nhiều lúng túng khi thực hành.
Với sự tổ chức và hướng dẫn hợp lý của giáo viên và sự trợ giúp đúng
mức của các thiết bị dạy học thì giờ học sẽ đạt kết quả tốt.
Để tìm ra biện pháp thích hợp, giúp các em học toán tốt hơn, ngay từ đầu

năm học, tôi đã theo dõi, ghi chép lại bài khảo sát chất lượng đầu năm môn Toán
của lớp:
Điểm
9 + 10

7+8

5+6

3+4

1+2

Sĩ số
SL %
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
13 32,5 12
30
13
32,5
2
5
0

0
Qua tìm hiểu kết quả học tập của các em tôi thấy vẫn còn học sinh yếu
môn Toán. Trước thực trạng đó tôi đã đề ra một số chỉ tiêu để phấn đấu trong
năm học này không còn học sinh yếu, giảm tỉ lệ học sinh trung bình và nâng cao
tỉ lệ học sinh khá, giỏi môn Toán.
Trong giảng dạy, tôi đã áp dụng các biện pháp sử dụng có hiệu quả đồ
dùng dạy học toán ở lớp 2A - Trường Tiểu học Nam Hồng.
40

III- BIỆN PHÁP THỰC HIỆN

Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên như một diễn viên trên sân
khấu. Muốn người xem hấp dẫn thì diễn viên phải nhập vai của mình một cách
thuần thục. Việc sử dụng đồ dùng dạy học cũng vậy, muốn phát huy hết tác
dụng của nó trong quá trình giảng dạy, trước khi sử dụng người giáo viên phải:
1. Nghiên cứu chương trình giảng dạy để chuẩn bị đồ dùng dạy học
cho phù hợp với từng bài học.
Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cho từng bài là rất quan trọng. Đây là một
việc làm không thể thiếu được ở mỗi tiết học. Nếu làm được điều đó, giáo viên
sẽ nắm được đồ dùng nào đã có, đồ dùng nào cần mượn, cần làm, cần sưu tầm.
Từ đó, giáo viên sẽ chủ động trong quá trình chuẩn bị đồ dùng, dẫn đến việc sử
dụng đồ dùng có hiệu quả cao trong giờ học.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã nghiên cứu chương trình toán lớp 2 xem
trong bộ đồ dùng học toán những đồ dùng nào đã có và những đồ dùng đó sử
dụng để dạy chương nào, bài nào, sau đó tôi ghi lại ra cuốn sổ tay để tiện theo
dõi, sử dụng.
5


* Ví dụ: Dạy phần phép nhân, phép chia trong phạm vi 5.

Đồ dùng: - 10 tấm nhựa in 2 hình tròn
- Hình vuông chia 2
- 10 tấm nhựa in 3 hình tròn
- Hình vuông chia 3
- 10 tấm nhựa in 4 hình tròn
- Hình vuông chia 4
- 10 tấm nhựa in 5 hình tròn
- Hình vuông chia 5
Hoặc Dạy phần hình chữ nhật, hình tứ giác.
Đồ dùng: - 1 hình vuông
- 4 hình tam giác vuông cân
- 1 hình chữ nhật
- 1 hình bình hành
- 1 hình thang
- 1 hình tứ giác
Với những bài chưa có đồ dùng, tôi đã sưa tầm và làm thêm một số đồ
dùng đơn giản để phục vụ giảng dạy đó là những vật thật (quả cam, bóng bay, lọ
hoa, mô hình đường gấp khúc,…)
Việc chuẩn bị đồ dùng như vậy giúp giáo viên tự tin hơn trong giảng dạy,
chủ động khi sử dụng đồ dùng.
* Ví dụ 1: Dạy các bài trong bảng cộng – các phép cộng có nhớ trong
phạm vi 100
Với mục đích hình thành khái niệm phép cộng có nhớ, ở các tiết học này
tôi chuẩn bị đồ dùng dạy học là que tính, bảng gài và bộ số (trong bộ đồ dùng
dạy toán). Không những giáo viên có đồ dùng mà tôi còn yêu cầu học sinh cũng
phải có que tính trong bộ đồ dùng học Toán 2 để học tập.
* Ví dụ 2: Dạy bài: Hình chữ nhật – Hình tứ giác.
Để học sinh nhận biết và phân biệt được hình chữ nhật, hình tứ giác, tôi đã
sử dụng các hình chữ nhật, hình tứ giác có trong bộ đồ dùng học toán, ngoài ra
tôi còn sử dụng đồ dùng là một miếng bìa (hoặc nhựa) có dạng hình chữ nhật,

hình tứ giác (tự làm to để cả lớp quan sát được).
* Ví dụ 3: Dạy bài: Phép nhân
Với mục đích hình thành khái niệm ban đầu về phép nhân, tôi đã chuẩn bị
đồ dùng như sau:
- Đồ dùng 1: 6 quả cam bằng vật thật để hình thành phép nhân 2 x 3
- Đồ dùng 2: 4 chùm bóng bay, môi chùm 3 quả để hình thành phép nhân 3 x 4
- Đồ dùng 3: 4 lọ hoa, mỗi lọ cắm 4 bông hoa để hình thành phép nhân 4 x 4
Lựa chọn được đồ dùng phù hợp với từng bài học, đây là khâu quan trọng
nhất trong sự thành công của việc sử dụng đồ dùng dạy học. Tôi thấy việc chuẩn
bị đồ dùng dạy học đã giúp giáo viên có tinh thần tự tin, chủ động trong giờ dạy
6


và đó là điều quan trọng giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức mới
nhanh, sâu và chắc.
2. Lựa chọn thời điểm sử dụng đồ dùng.
Sau khi đã chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học, muốn phát huy hết tác dụng của
đồ dùng dạy học, người giáo viên cần:
2.1. Linh hoạt trong việc sử dụng đồ dùng dạy học
Đồ dùng dạy học rất phong phú, với những mô hình khác nhau, không
phải mỗi đồ dùng chỉ sử dụng cho một bài học mà nó có thể sử dụng với nhiều
bài khác nhau. Làm thế nào để sử dụng triệt để đồ dùng dạy học trong giảng dạy
có hiệu quả, đây cũng là một nghệ thuật lên lớp của giáo viên.
Nếu giáo viên biết chọn thời điểm sử dụng đồ dùng phù hợp, không gò bó,
khuôn mẫu sẽ có tác dụng rất lớn tới việc khắc sâu kiến thức cho học sinh, vì từ
trực quan hấp dẫn giúp các em hiểu bài và hình thành kiến thức nhanh hơn.
* Ví dụ: Dạy bài Bảng nhân 2
Đây là bảng nhân đầu tiên mà học sinh lớp 2 mới được học. Sau bài học
cần nắm được cách lập bảng nhân 2 và hiểu được bản chất của nó.
- Đồ dùng:

+ Bảng phụ (Bảng gài)
+ 10 bông hoa cắt bằng giấy (hoặc các tấm bìa mỗi tấm có 2 chấm tròn)
+ Bộ số
+ Máy chiếu đa vật thể
- Kết hợp trò chơi
(Gắn kết quả vào phép tính đúng)
* Trong phần bài mới
- Giáo viên ra đề toán (bảng phụ). Mỗi hàng có 2 bông hoa. Hỏi 5 hàng có
bao nhiêu bông hoa?
- Tôi yêu cầu 1 học sinh đọc lại đề bài
- Song song với việc học sinh đọc đề toán, giáo viên gài số hoa lên bảng gài
Dựa vào đồ dùng trực quan và kiến thức đã học. Học sinh nêu được cách
tính số hoa là :
2 + 2 + 2 + 2 + 2 = 10 (bông)
- Giáo viên ghi lại phép tính lên bảng rồi hỏi:
+ Con có nhận xét gì về các số hạng trong phép cộng này?
(Các số hạng trong phép cộng đều bằng nhau và bằng 2).
+ Từ phép cộng các số hạng bằng nhau và đều bằng 2 con có thể thay thế
bằng phép tính nào?
(Có thể thay bằng phép nhân có thừa số 2 là: 2 x 5 = 10)
7


Với cách đưa đồ dùng như vậy, tôi thấy học sinh dễ dàng lập được bảng nhân 2.
Để học sinh hiểu và nhớ được bảng nhân 2, tôi dùng máy chiếu hắt bảng
nhân 2 lên màn hình, rồi lần lượt thay bằng các bảng nhân đã bị xóa các phần
thừa số hoặc kết quả của mỗi phép tính khác nhau và yêu cầu học sinh đọc cá
nhân, đồng thanh, theo nhóm,… Như vậy học sinh lớp tôi học thuộc bảng nhân 2
rất nhanh.
* Phần luyện tập – thực hành

Không chỉ ở phần hình thành kiến thức (phần bài mới) giáo viên sử dụng
đồ dùng dạy học mà sang phần luyện tập – thực hành tôi cũng chú trọng sử dụng
đồ dùng để học sinh làm bài nhanh hơn, hiểu bài sâu hơn, nhớ bài lâu hơn.
* Ví dụ: Hướng dẫn làm bài tập 1 trang 92 – Toán 2, tôi sử dụng đồ dùng là:
- Phần a) 8 quả cam (quýt). 8 quả quýt đó để vào 2 cái đĩa, mỗi đĩa 4 quả
lần lượt đưa từng đĩa, nhìn vào đấy học sinh hiểu được 4 được lấy 2 lần, từ đó
học sinh lập được phép nhân 4 x 2 = 8
- Phần b) 15 con cá bằng bìa. 15 con cá dán đều vào 3 khay, mỗi khay 5
con cá và cũng lần lượt đưa ra từng khay một. Như vậy học sinh hiểu được 5
được lấy 3 lần, các em dễ dàng chuyển được thành phép nhân để tìm kết quả 5 x
3 = 15.
- Phần c) 12 ngôi nhà cắt bằng giấy. Tương tự với phần c, 3 được lấy 4
lần, 3 x 4 = 12
Hoặc dạy bài : Một phần hai
Sau khi học sinh nắm được khái niệm về một phần hai, để học sinh khắc
sâu kiến thức, đến phần luyện tập làm bài 1, tôi đưa đồ dùng gắn lên bảng để cả
lớp cùng quan sát.
- 2 hình vuông, 1 hình tam giác, 1 hình tròn (tất cả làm bằng bìa cứng),
được tô màu như sau:

A

B

- Yêu cầu học sinh quan sát xem đã tô màu

C

D


1
hình nào? Và giải thích tại
2

sao con lại chọn A, C, D? Tại sao không chọn hình B?
- Ngoài ra, tôi còn sử dụng đồ dùng thực tế để khắc sâu kiến thức biểu
1
cho các em như: một chiếc bánh mỳ cắt làm hai phần bằng nhau,
2
1
chia cho hai em, mỗi em được một nửa chiếc bánh. Như vậy, mỗi em được
2

tượng về

8


cái bánh mỳ. Chỉ bằng những đồ dùng đơn giản như vậy, giáo viên biết sử dụng
hợp lý, linh hoạt, học sinh hiểu bài rất chắc, dễ dàng vận dụng vào thực tế cuộc
sống hàng ngày. Nhiều học sinh lớp tôi lấy được những ví dụ về
để học sinh học tiếp khái niệm về

1
, làm tiền đề
2

1 1 1
, ,
3 4 5


* Phần củng cố
Để củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh và tạo không khí thoải mái
trong mỗi tiết học, tạo nền hứng thú học tập cho các em trong các tiết học tiếp
theo. Tôi thường tổ chức cho các em chơi trò chơi: “Gắn kết quả vào phép tính
đúng”.
Đồ dùng sử dụng ở đây là những tấm thẻ viết số có gắn nam châm.
2

x

3

=

2

x

5

=

2

x

7

=


2

x

9

=

Với hệ thống đồ dùng đưa ra như vậy, việc tiếp theo bài của học sinh rất
nhanh, học sinh vận dụng kiến thức làm bài tốt. Cuối giờ học tôi khảo sát học
sinh kết quả 100% hiểu bài, 80% học sinh thuộc bảng nhân ngay tại lớp, khả
năng vận dụng lý thuyết vào thực hành tốt.
2.2. Sử dụng đồ dùng phù hợp với từng giai đoạn kiến thức của học sinh
Chương trình toán lớp 2 là sự tiếp tục của chương trình toán lớp 1.
Chương trình này kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy học toán lớp 2
của nước ta. Thực hiện đổi mới về nội dung để tăng cường thực hành và ứng
dụng. Mạch kiến thức toán 2 được xây dựng từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp với từng bài, từng chương. Giúp học sinh hoạt động tích cực, linh hoạt,
sáng tạo theo năng lực của mình. Trong khi dạy toán tôi cũng đã chọn từng giai
đoạn kiến thức để đưa đồ dùng cho phù hợp.
+ Giai đoạn 1 (Hình thành kiến thức): Đồ dùng đưa ra là những mô hình,
vật thật gần gũi cho học sinh, giúp các em dễ hình dung nắm bắt kiến thức mới.
+ Giai đoạn 2 (Luyện tập – Thực hành): Ở giai đoạn này học sinh phát
triển trí tưởng tượng trong quá trình áp dụng kiến thức đã học (thực hành). Đồ
dùng đưa ra không phải là những mô hình, vật thật nữa mà tôi sử dụng những sơ
đồ đoạn thẳng hoặc những chấm tròn, những ô vuông để minh họa. Như vậy, các
em buộc phải động não suy nghĩ, tập phát hiện, tìm tòi và tự chiếm lĩnh kiến
thức. Có như vậy học sinh phải tự mình chuyển từ tư duy trực quan sang tư duy
trừu tượng để nắm bắt kiến thức mỗi ngày một khó hơn, trừu tượng hơn.

9


*Ví dụ: Dạy dạng toán: “Bài toán về nhiều hơn” hoặc “Bài toán về ít hơn”
- Khi hình thành kiến thức mới, tôi đưa ra đồ dùng là vật thật đó là những
quả cam để lên bàn (chọn chỗ để đồ dùng mà cả lớp quan sát được). Hướng dẫn
để học sinh nhận biết được số cam ở hàng trên ít hơn số cam ở hàng dưới là 2
quả hoặc số cam ở hàng dưới nhiều hơn số cam ở hàng trên là 2 quả.

Từ đó học sinh dễ dàng tìm được số cam ở hàng dưới (hàng trên).
Muốn học sinh nắm bắt được bản chất của dạng toán, giúp học sinh giải
toán thành thạo, khi học sinh nắm chắc đề bài, tôi hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ
rồi giải bài.
5 quả cam
Hàng trên:
2 quả cam
Hàng dưới:
? quả cam
Từ sơ đồ (là đồ dùng trực quan trừu tượng) các em dễ dàng giải được các
bài toán liên quan đến kiến thức đã học.
- Khi học sinh đã nắm được cách giải bài, để học sinh hiểu sâu hơn với
dạng toán này, tôi không đưa ra đề bài bằng lời văn mà đưa ra đồ dùng là những
sơ đồ đoạn thẳng thay cho đề bài. Yêu cầu học sinh dựa vào sơ đồ tóm tắt để
giải bài toán.
* Ví dụ:
15 người
Đội 1:
2 người
Đội 2:
? người

16 tuổi

Hoặc:
Anh:

5 tuổi
Em:
? tuổi
10


Việc lựa chọn đồ dùng và sử dụng đồ dùng như trên, đã tạo điều kiện cho
học sinh có khả năng nắm bắt kiến thức từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng.
Như vậy sẽ giúp các em dễ dàng tiếp cận với các công thức, khái niệm toán học
ngày càng khó hơn, tạo lòng tin cho các em khi bước vào học các lớp trên và các
bậc học tiếp theo.
2.3. Đồ dùng phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh.
Việc sử dụng và lựa chọn đồ dùng sẽ có hiệu quả tốt hơn, giáo viên nên
chú ý đến hình thức đồ dùng. Đối với học sinh lớp 2 các em còn nhỏ, hồn nhiên,
hiếu động, giáo viên không nên chọn đồ dùng có hình thức quá cầu kỳ, lòe loẹt
gây sự chú ý của các em tới bề ngoài mà che lấp bản chất toán học của đồ dùng,
từ đó làm cho các em không tập trung chú ý nghe giảng dẫn tới việc tiếp thu bài
kém hiệu quả.
* Ví dụ: Với các bài tập: Viết số thích hợp vào ô trống.
Bài tập 2 trang 72 – toán 2
Số bị trừ

75

Số trừ


36

84

58

72
37

Hiệu

60

34

19

18

Hoặc bài tập 5 trang 96 – toán 2
Thừa số

2

2

2

2


2

2

Thừa số

4

5

7

9

10

2

Tích

Bên cạnh ô trống có một chú thỏ cầm cây bút. Tôi tiến hành dạy 4 bài
dạng này. Hai bài tôi dùng đồ dùng là máy chiếu đa vật thể, chiếu bài lên màn
hình, yêu cầu học sinh làm bài. Kết quả học sinh làm bài tốt và nhanh. Còn hai
bài tôi dùng đồ dùng là bài thiết kế trên chương trình Powerpoint, máy projector,
xây dựng các slide và cho con thỏ nhấp nháy – cũng yêu cầu học sinh làm bài.
Qua quan sát tôi thấy rất nhiều em chỉ quan sát đến con thỏ nhấp nháy và bàn
luận chứ không chú ý đến nội dung bài, dẫn đến làm bài chậm, thiếu chính xác.
Do vậy, khi sử dụng đồ dùng dạy học, giáo viên cần chọn những đồ dùng đơn
giản, dễ sử dụng để học sinh tập trung vào bài học.

Đồ dùng dạy học phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh, không chỉ tạo cho
các em hứng thú trong học tập mà còn phát triển năng lực tư duy của học sinh.

11


3. Lựa chọn phương pháp – hình thức giảng dạy kết hợp với việc sử
dụng đồ dùng.
Để nâng cao chất lượng giờ dạy, muốn có một giờ học tốt nhẹ nhàng,
thoải mái, giáo viên phải lựa chọn linh hoạt các phương pháp, hình thức giảng
dạy kết hợp với việc sử dụng đồ dùng dạy học.
3.1. Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với phương pháp nêu vấn đề đàm thoại.
Cùng với đồ dùng trực quan, phương pháp nêu vấn đề và đàm thoại sẽ tạo
điều kiện cho học sinh tích cực, chủ động, độc lập suy nghĩ trong học tập, giúp
các em nắm bài và làm bài tốt. Từ đó các em có khả năng diễn đạt lại bằng lời
những kiến thức đã nắm được.
* Ví dụ: Khi dạy bài Phép chia
- Đồ dùng là:
+ 6 mảnh bìa hình vuông bằng nhau
+ Thước kẻ có vạch xăng - ti - met, băng giấy sử dụng vào thời điểm hình
thành kiến thức mới.
- Giáo viên gắn 6 ô vuông lên bảng.

+ Sau đó hỏi: Tất cả có bao nhiêu ô vuông?
(Tất cả có 6 ô vuông)
+ Tiếp theo tôi dùng một băng giấy nhỏ dán một vạch ngang (như hình vẽ)

Hỏi : 6 ô vuông chia thành 2 phần bằng nhau. Mỗi phần có mấy ô vuông?
- Học sinh quan sát đồ dùng minh họa, kết hợp với câu hỏi gợi mở của
giáo viên, học sinh đã tìm ra được 6 ô vuông chia làm hai phần bằng nhau, mỗi

phần 3 ô vuông. Từ đó giáo viên giới thiệu: Như vậy ta đã thực hiện một phép
tính mới là phép chia.
“ Sáu chia hai bằng ba” viết là 6 : 2 = 3
Hoặc dạy bài: Hình chữ nhật, hình tứ giác
- Đồ dùng là:
+ 1 hình chữ nhật bằng bìa (nhựa)
+ 1 hình tứ giác bằng bìa (nhựa)
- Tôi sử dụng vào phần dạy bài mới.
12


* Giới thiệu hình chữ nhật:
Tôi gắn miếng bìa hình chữ nhật lên bảng và nói: Đây là hình chữ nhật.
Yêu cầu học sinh lấy trong bộ đồ dùng 1 hình chữ nhật để lên mặt bàn.
Sau đó vẽ 1 hình chữ nhật lên bảng, dẫn dắt bằng hệ thống câu hỏi, để học
sinh nắm được các đặc điểm của hình chữ nhật.
+ Hình có mấy cạnh ?
+ Hình có mấy đỉnh ?
Sau đó tôi yêu cầu học sinh lên đo các cạnh của hình chữ nhật và hỏi:
+ Con có nhận xét gì về các cạnh của hình chữ nhật ?
Việc dùng đồ dùng (thước) như vậy học sinh rất dễ nhận xét được hình
chữ nhật có hai cạnh dài bằng nhau, hai cạnh ngắn bằng nhau.
* Giới thiệu hình tứ giác:
Tôi cũng hướng dẫn sử dụng đồ dùng như ở phần hình chữ nhật.
Để học sinh phân biệt được hình chữ nhật và hình tứ giác, tôi yêu cầu các
em dùng thước lên đo, kiểm tra các cạnh của hình (4 em đại diện 4 tổ lên đo) và
nêu kết quả kiểm tra được. Chỉ bằng những việc sử dụng đồ dùng (thước kẻ)
tưởng rằng đơn giản như vậy nhưng đem lại hiệu quả rất lớn. Sau khi kiểm tra,
học sinh dễ dàng phân biệt được hình chữ nhật khác hình tứ giác ở chỗ:
- Hình chữ nhật có hai cạnh dài bằng nhau, hai cạnh ngắn bằng nhau.

- Hình tứ giác các cạnh không bằng nhau.
- Hình chữ nhật cũng được gọi là hình tứ giác đặc biệt.
* Khi luyện tập.
Để phát huy tác dụng vốn có từ đồ dùng của học sinh, đến phần luyện tập
tôi yêu cầu học sinh sử dụng đồ dùng thước có vạch xăng - ti - met vào làm bài
tập số 1, số 3.
Bài 1: Yêu cầu nối các điểm để được hình chữ nhật, hình tứ giác.
a)
b)
A●
●B
M●
●N
●D


●P
E
D

Q
Bài 3: Yêu cầu học sinh kẻ thêm một đoạn thẳng trong hình để được:
a) Hình chữ nhật
b) Ba hình tứ giác

13


Tôi hướng dẫn học sinh: Nhớ lại đặc điểm của các hình, suy nghĩ và tìm
cách vẽ (phải sử dụng thước kẻ để vẽ, tuyệt đối không vẽ bằng tay).

Với những câu hỏi có nội dung phù hợp với yêu cầu của bài, kết hợp với
đồ dùng dạy học hợp lý, đã giúp các em nắm vững kiến thức và linh hoạt trong
suy nghĩ. Từ đó học sinh “Giải quyết vấn đề” toán học một cách tự tin và vững
chắc. (100% học sinh lớp tôi hiểu bài và vận dụng thực hành tốt).
3.2. Sử dụng đồ dùng dạy học dưới hình thức hoạt động nhóm trong
giờ học
Trong giờ học, nếu các em được hoạt động theo nhóm, được nhìn tận mắt,
sờ tận tay rồi nhận xét từ đó dẫn tới nội dung kiến thức sẽ giúp các em nắm bài
chắc hơn, nhớ bài lâu hơn.
Hoạt động nhóm giúp các em tự tìm ra kiến thức toán học thông qua đồ
dùng dạy học. Sử dụng hình thức này, giáo viên còn tạo điều kiện cho các em
giúp đỡ nhau trong học tập từ đó kết quả học tập được nâng cao.
* Ví dụ: Khi dạy bài: Hình chữ nhật – Hình tứ giác.
Sau khi học sinh đã hiểu được các đặc điểm của hình chữ nhật – hình tứ
giác, để giúp các em nhớ kiến thức đến phần luyện tập, tôi tổ chức cho các em
hoạt động nhóm 4.
- Đồ dùng: 8 hình tam giác bằng nhau.

Giáo viên phát cho mỗi nhóm 1 bộ (8 hình tam giác).
Nhiệm vụ của các nhóm là ghép các hình tam giác thành một hình tứ giác
và 1 hình chữ nhật. Học sinh lớp 2 ưa thích hoạt động, các em rất say sưa làm
việc, giúp đỡ nhau trong nhóm. Chỉ trong thời gian ngắn các nhóm đã đưa ra kết
quả ghép được khác nhau nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu như:

1

2

3


4
14


Ở tất cả các bài tập ghép hình tôi đều sử dụng đồ dùng như vậy, học sinh
lớp tôi nhận dạng và nhớ được đặc điểm của hình rất tốt, không nhầm lẫn như:
hình chữ nhật, hình vuông, hình tứ giác, hình tam giác,…
Với hình thức học nhóm (thông qua đồ dùng học tập) như vậy, hoạt động
của các em diễn ra rât sôi nổi, sinh động, gây hứng thú học tập cho các em, giúp
các em tự chủ trong quá trình lĩnh hội tri thức, có thể tự mình vận dụng kiến
thức đã học một cách thành thạo trong cuộc sống (nhận biết các đồ vật có hình
chữ nhật – hình tứ giác).
3.3. Sử dụng đồ dùng dạy học trong phần trò chơi ở cuối tiết học
Trò chơi toán học và đồ dùng dạy học sinh động sẽ giúp cho học sinh có
khí thế học tập, sôi nổi thi đua, phát huy ý thức học tập cũng như năng lực của
bản thân, qua đó tạo cho các em môi trường học tập thoải mái giúp các em hạm
thích học toán, giảm bớt căng thẳng trong giờ học mà lại có tác dụng khắc sâu
kiến thức cho các em.
* Ví dụ: Khi dạy bài: Bảng nhân 4
Đồ dùng:
- 16 bông hoa bằng giấy trên đó có ghi các con số hoặc phép tính, phân
đều 4 nhóm, mỗi nhóm một màu khác nhau.
- Phấn màu: 4 màu giống màu bông hoa của 4 nhóm (hoa màu đỏ thì phấn
màu đỏ, hoa màu xanh thì phấn màu xanh,…).
- Trò chơi: Ai nhanh hơn – tiếp sức giải toán.
- Cách tiến hành: Thời gian vào phần củng cố bài.
- Giáo viên dán sẵn các bông hoa lên bảng không theo thứ tự của nhóm,
úp phần ghi số và phép tính vào trong, phần màu ra ngoài.
+ Giáo viên nêu cách chơi và cho học sinh chơi.
+ 4 nhóm, mỗi nhóm 4 bạn tham gia chơi.

Lần lượt từng em của mỗi nhóm, nối tiếp lên tìm tấm màu của nhóm mình
gỡ ra đọc và dùng phấn mầu ghi lại phép tính hoặc kết quả cần tìm tương ứng.
Chẳng hạn: Nếu học sinh gỡ bông hoa có ghi 4 x 8 = ? thì học sinh đó
phải ghi lại phép tính và kết quả lên bảng 4 x 8 = 32.
- Nếu học sinh gỡ bông hoa có ghi số 16 thì học sinh đó phải ghi phép
tính tương ứng với số 16, 16 = 4 x 4.
- Cứ như vậy đến hết, sau đó tôi yêu cầu cả lớp tính điểm cho từng nhóm
(mỗi phép tính đúng được 10 điểm) rồi so sánh điểm của các nhóm với nhau
(theo mức điểm, nhanh nhất, đúng nhất và đẹp nhất,…). Số điểm đạt được của
mỗi nhóm được ghi vào bảng hoa điểm tốt của lớp.

15


Thông qua đồ dùng dạy học kết hợp hình thức trò chơi trong tiết học toán
đã phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, giúp các em khắc sâu kiến thức,
say sưa học toán, yêu thích môn toán. Thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học
như vậy học sinh lớp tôi tiếp thu và vận dụng kiến thức toán học rất tốt.
4. Tránh lạm dụng khi sử dụng đồ dùng dạy học trong giờ học toán.
Thực tế giảng dạy tôi thấy, đồ dùng dạy học đã góp phần không nhỏ trong
thành công tiết dạy, giáo viên cần sử dụng đồ dùng linh hoạt trong giờ học, tránh
lạm dụng nếu không sẽ làm hạn chế tác dụng của đồ dùng, giảm khả năng suy
nghĩ của học sinh dẫn đến giờ học kém hiệu quả.
* Ví dụ: Dạy bài : Luyện tập.
Bài 5 (117) – Sách Toán 2.
Có 15 bông hoa cắm vào các lọ, mỗi lọ 3 bông hoa. Hỏi cắm được mấy lọ hoa?
- Để giúp học sinh dễ dàng giải được bài toán. Giáo viên sử dụng đồ dùng
là 15 bông hoa bằng nhựa để minh họa. Sau khi học sinh đã hiểu được bản chất
của vấn đề giáo viên cần cất đồ dùng đi. Như vậy, học sinh phải động não suy
nghĩ để tìm cách giải, làm thế nào tìm được 5 lọ hoa? (15 : 3 = 5).

Với cách đưa đồ dùng như vậy, học sinh lớp tôi, khi giải toán có lời văn
dạng toán này, các em làm bài rất tốt, hiểu sâu. (Ở những bài sau không cần đưa
đồ dùng mà các em vẫn làm được, không nhầm dạng khác).
5. Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại (máy chiếu, băng hình, máy
tính) có hiệu quả.
Đồ dùng dạy học đặc biệt là những thiết bị dạy học hiện đại là phương
tiện hữu hiệu để học sinh đón nhận kiến thức một cách nhanh chóng, là cầu nối
giữa lí thuyết với thực tế. Sử dụng trang thiết bị dạy học hiện đại không chỉ để
minh họa cho nội dung bài mà còn là phương tiện để tổ chức các hoạt động học
tập dưới nhiều hình thức.
* Ví dụ 1: Dạy bài: Giờ, phút (Bài 2 – trang 151)
Với bài tập này học sinh phải xem tranh, hiểu được các sự việc và hoạt
động được mô tả qua tranh vẽ, lựa chọn giờ thích hợp cho từng bức tranh. Tôi sử
dụng máy chiếu, chiếu 4 bức tranh và 4 chiếc đồng hồ lên. Học sinh dễ quan sát
đối chiếu với mặt đồng hồ, từ đó lựa chọn tranh vẽ mặt đồng hồ thích hợp với
hoạt động và trả lời câu hỏi của bài toán “Tranh vẽ Mai ngủ dậy lúc 6 giờ thì
ứng với đồng hồ C”.
Để giúp học sinh có biểu tượng về khoảng cách đo bằng ki lô met tôi sử
dụng máy tính, xây dựng các slide về bản đồ Việt Nam. Hướng dẫn học sinh đọc
bản đồ và nhận biết thông tin trên bản đồ (đọc đến đâu dùng đèn chiếu đến đó).
16


* Ví dụ 2: Dạy bài ki-lô-mét (Bài 2 – trang 151)
Quãng đường từ Hà Nội – Vinh dài 308 km
Quãng đường từ Hà Nội – Lạng Sơn dài 169 km
Học sinh nhận biết độ dài quãng đường Hà Nội – Vinh (308 km) và Hà
Nội – Lạng Sơn (169 km) trên bản đồ. Sau đó học sinh chuyển dịch quan hệ nói
thành ngôn ngữ thực tế để trả lời được Vinh xa Hà Nội hơn.
Như vậy, với cách sử dụng thiết bị dạy học hiện đại giáo viên đã đưa học

sinh vào tình huống thực tế, giúp học sinh tư duy để giải bài toán có liên quan
đến tình huống thực tế đó. Các em dễ dàng gắn kiến thức được học vào thực tế
cuộc sống, giờ học sôi nổi và lôi cuốn học sinh.
6. Làm thêm đồ dùng dạy học
Để hỗ trợ cho những đồ dùng chưa có và để có đủ đồ dùng học tập cho
phù hợp với mọi đối tượng học sinh, ngoài đồ dùng đã được nhà trường trang bị,
tôi đã làm thêm một số đồ dùng dạy học khác như:
- Mô hình quả, ngôi sao bằng bìa để dạy dạng toán nhiều hơn, ít hơn
- Các hình chữ nhật, hình vuông, hình tròn bằng nhựa to hơn các hình
trong bộ đồ dùng để học sinh dễ quan sát.
- Những bông hoa nhựa để học về phép chia (chia theo nhóm, chia thành
các phần bằng nhau).
- Tranh để làm các bài tập về nhận biết

1 1 1 1
, , ,
2 3 4 5

- Mô hình đường gấp khúc, đường gấp khúc khép kín để học về đường
gấp khúc, độ dài đường gấp khúc…
- Các phiếu học tập, các sơ đồ thực hiện dãy tính (không nhớ) dạng:
+ 113
- 20
- 111
+ 200
530

(Các ô trống để cố định, các số bằng giấy đề can dán để dễ thay đổi).
- Tránh sự nhàm chán, tôi còn dùng sơ đồ lượn cong để thu hút học sinh
vào bài như:

10

+6

+6

+6

+6

Tuy những đồ dùng đó rất đơn giản nhưng góp phần rất lớn vào quá trình
giảng dạy toán cho các em học sinh lớp 2.
* Ví dụ 1: Dạy bài: Bài toán ít hơn
- Đồ dùng: 12 quả cam bằng giấy hoặc vật thật.
17


* Ví dụ 2: Dạy bài: Luyện tập.
Bài 1 – Trang 31 – Toán 2.
Để học sinh hiểu được khái niệm ít hơn, nhiều hơn, bằng nhau.
- Đồ dùng: 1 hình vuông, 1 hình tròn, 14 ngôi sao bằng giấy.
Nói chung, trong quá trình giảng dạy, tùy theo mục đích yêu cầu đạt được
của từng bài mà giáo viên làm thêm đồ dùng cho phù hợp. Trên đây chỉ là số ví
dụ nhỏ trong quá trình làm thêm đồ dùng của tôi.
IV – KẾT QUẢ:

Trong suốt thời gian qua, tôi đã sử dụng linh hoạt và triệt để đồ dùng trực
quan đối với từng tiết học toán. Nhờ có đồ dùng trực quan, tôi đã thu được
những thành công đáng kể trong giảng dạy môn toán ở lớp 2. Nhờ đó học sinh
lớp tôi có không khí học tập sôi nổi có niềm hứng thú say mê học toán. Nhiều

em có kỹ năng giải toán ngày càng tinh tế, linh hoạt như em Trần Hải Minh,
Phạm Thành Phong, Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Tiến Minh,… Đặc biệt, em
Nguyễn Tùng Dương đầu năm em học toán rất yếu đến nay đã tiến bộ rõ rệt.
* Kết quả cụ thể về môn Toán của lớp tôi qua từng thời gian như sau:
Giỏi

Khá

Yếu

TB

Loại Sĩ
số
Thời gian

Số
bài

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

Đầu năm
Giữa học kỳ I
Cuối học kỳ I
Giữa học kỳ II

40
40
40
40

13
17
22
30

32,5
42,5
55
75

12
13
12
6


30
32,5
30
15

13
9
6
4

32,5
22,5
15
10

2
1
0
0

5
2,5
0
0

40
40
40
40


Bên cạnh kết quả chung của lớp, trong các đợt hội học do nhà trường tổ
chức, học sinh lớp tôi thạm gia đều đạt giải cao nhất khối.
Với sự rèn luyện, cố gắng trong học tập của thầy và trò chúng tôi, lớp tôi
không còn học sinh tiếp thu chậm về toán. Các em có vốn kiến thức chắc chắn
để tiếp tục học lên lớp 3.
Được sự quan tâm, chỉ đạo của ban giám hiệu nhà trường, sự giúp đỡ của
các bạn đồng nghiệp, tôi đã nghiên cứu, áp dụng đề tài này tại lớp 2A – Trường
Tiểu học Nam Hồng trong năm học 2012 – 2013 và đạt được kết quả tốt.
Với việc sử dụng đồ dùng dạy học trong môn toán lớp 2, khi sinh hoạt
chuyên môn, tôi đã trao đổi với các đồng chí giáo viên trong khối. Các đồng chí
đã áp dụng trong quá trình giảng dạy và đạt kết quả rất đáng kể. Giữa học kỳ 2
bài kiểm tra môn toán của khối tôi đạt 99% trên trung bình.
18


PHẦN III/ KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Môn toán là một môn khó, đòi hỏi học sinh phải tập trung suy nghĩ độc
lập, vì thế học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 2 nói riêng hay chán học
môn toán khi gặp phải những bài toán khó. Do đó, giúp học sinh yêu thích học
toán là một việc làm không đơn giản. Chính vì vậy, sử dụng đồ dùng trực quan
trong giờ học toán là một loại hình hoạt động rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi học
sinh tiểu học. Thông qua đồ dùng, giáo viên gây hứng thú học tập, tác động
mạnh mẽ tới nhận thức và hình thành kiến thức cho học sinh. Để kết quả học tập
của các em được nâng cao, giáo viên cần nghiên cứu, sử dụng đồ dùng dạy học
phù hợp với từng bài dạy, chắc chắn học sinh sẽ yêu thích môn học này.
- Giáo viên phải luôn quan tâm đến lớp, nắm bắt được tình hình học tập
của từng em.
- Cần nghiên cứ kỹ nội dung, chương trình, bám vào mục tiêu, yêu cầu
của từng bài để lựa chọn đồ dùng dạy học cho phù hợp.

- Ngay từ đầu năm học, có kế hoạch tìm hiểu đồ dùng của nhà trường (đã
có, chưa có) và làm thêm một số đồ dùng cần thiết.
- Đồ dùng đưa ra phải đẹp, không rườm rà, lòe loẹt và đặc biệt không nên
quá lạm dụng đồ dùng.
- Đồ dùng đưa ra phải đúng lúc, thu hút sự chú ý của học sinh, kết hợp các
phương pháp và hình thức học tập khác nhau. Qua hình ảnh quan sát, học sinh
khi thác, vận dụng kiến thức và hình thành kiến thức.
- Giáo viên phải tận dụng triệt để phương pháp trực quan, tạo cho học sinh
có phong cách, thái độ, động cơ học tập gắn lý thuyệt với thực hành. Giúp học
sinh học tốt môn toán lớp 2 là tiền đề để các em học tốt môn toán ở các lớp trên.
- Sử dụng đồ dùng dạy học trong quá trình giảng dạy cũng là một trong
những yếu tố để đổi mới phương pháp dạy – học.
- Đồ dùng dạy học được giáo viên sử dụng thường xuyên, hợp lý, linh
hoạt sẽ giúp cho học sinh khai thác các nội dung, kiến thức tiềm ẩn thông qua đồ
dùng, tự nhận ra kiến thức cơ bản, biết cách phân tích bài toán để từ đó học sinh
tự tin hơn vào khả năng của mình trong học tập.
- Hướng dẫn học sinh sử dụng đồ dùng trong giờ học toán còn rèn luyện
cho học sinh kỹ năng quan sát, phân tích, tổng hợp không chỉ trong môn toán mà
còn trong tất cả các môn học khác.
- Sử dụng đồ dùng có hiệu quả trong quá trình giảng dạy môn toán lớp 2 cũng
là góp phần đổi mới phương pháp dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm giáo dục”,
19


nâng cao chất lượng dạy – học môn toán ở tiểu học nói chung và toán lớp 2 nói
riêng. Tôi mạnh dạn trình bày rất mong được sự góp ý của các cấp lãnh đạo và đồng
nghiệp để đề tài đạt kết quả tốt hơn.
2. Khuyến nghị:
Để khắc phục một số vướng mắc trong dạy học toán và nâng cao chất
lượng giáo dục tiểu học hiện nay, tôi có khuyến nghị sau:

- Tiếp tục đầu tư thêm đồ dùng, tranh ảnh phục vụ cho dạy toán ở tiểu học.
Nam Hồng, ngày 12 tháng 4 năm 2013
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Công Thị Kim Thúy

20


DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở tiểu học
2. Một số vấn đề về nội dung và phương pháp dạy học toán ở tiểu học
Bồi dưỡng thường xuyên
3. Toán 2 – Nhà xuất bản giáo dục.
4. Sách giáo viên Toán 2 – Nhà xuất bản giáo dục.
5. Thiết kế bài giảng Toán 2 – Nhà xuất bản Hà Nội.
6. Tạp chí “Chuyên đề giáo dục tiểu học” – Nhiều tác giả.
7. Hỏi đáp về Dạy – Học Toán 2 – Nhà xuất bản giáo dục.

21


MỤC LỤC
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
I – Lý do chọn đề tài ………………………………………………….
II – Mục đích nghiên cứu ………………………………….…………
III – Phương pháp nghiên cứu …………………………..……………
PHẦN II: NỘI DUNG…………………………………...………………

I – Cơ sở lý luận ………………………………………...……………
II – Cơ sở thực tiễn ……………………………………...……………
III – Biện pháp thực hiện ……………………………..………………
1. Nghiên cứu chương trình giảng dạy – Chuẩn bị đồ dùng dạy học
2. Lựa chọn thời điểm sử dụng đồ dùng ………. …………………..
2.1. Linh hoạt trong việc sử dụng đồ dùng………………………...

2
2
3
3
4
4
4
5
5
7

2.2. Sử dụng đồ dùng phù hợp với từng giai đoạn kiến thức của học sinh
2.3. Đồ dùng phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh ……………
3. Lựa chọn phương pháp, hình thức giảng dạy kết hợp với việc sử
dụng đồ dùng …………………………………………………………….
3.1. Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với phương pháp nêu vấn
đề - đàm thoại ……………………………………………………………
3.2. Sử dụng đồ dùng dạy học dưới hình thức hoạt động nhóm ……
3.3. Sử dụng đồ dùng dạy học trong phần trò chơi ở cuối tiết học …
4. Tránh lạm dụng khi sử dụng đồ dùng dạy học …………………..
5. Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại có hiệu quả ………………
6. Làm thêm đồ dùng dạy học ………………………………………
IV – Kết quả ………………………………………………….………

PHẦN III – KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ………………..………
1. Kết luận …………………………………………………..………
2. Khuyến nghị ……………………………………………...………
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

9
11

7

12
12
14
15
16
16
17
18
19
19
20
21

22


23




×