Tải bản đầy đủ (.docx) (307 trang)

Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 307 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
-----˜&˜-----

VŨ ĐÌNH HƯNG

QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỈNH TUYÊN QUANG
TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 9.14.01.14

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. HÀ THẾ TRUYỀN
2. PGS.TS. TRẦN THỊ MINH HẰNG

HÀ NỘI - 2019


2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trình bày trong Luận án là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác. Trong quá trình nghiên cứu Luận
án, tôi có tham khảo một số tư liệu trong các tác phẩm được ghi trong danh mục tài
liệu tham khảo.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN



Vũ Đình Hưng

2


3

LỜI CẢM ƠN
Luận án này được hoàn thành với sự cộng tác, giúp đỡ, hỗ trợ của nhiều cá
nhân và tập thể.
Tôi xin chân thành tỏ lòng biết ơn đối với toàn thể các vị GS, PGS, TS đã có
công giảng dạy, truyền thụ kiến thức khoa học cho tôi trong suốt thời gian tôi làm
nghiên cứu sinh tại Học viện Quản lý giáo dục từ cuối năm 2014 đến nay.
Cám ơn sự giúp đỡ tích cực của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tuyên Quang;
các trường Trung học phổ thông, các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục
thường xuyên của tỉnh Tuyên Quang trong việc tổ chức khảo sát, điều tra, thử
nghiệm một số giải pháp do luận án đề xuất và tư vấn khoa học cho tôi trong quá
trình nghiên cứu.
Tôi xin đặc biệt dành sự kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Hà Thế
Truyền và PGS.TS. Trần Thị Minh Hằng đã tận tình chỉ dạy và hướng dẫn tôi
hoàn thành luận án này.
Tôi cũng dành lời cám ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã dành nhiều tình cảm, thời gian, lời động viên và tạo động lực cho tôi hoàn
thành nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Vũ Đình Hưng

3



4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

4

Ban chấp hành Trung ương

BCHTW

Bộ môn

BM

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Cán bộ quản lý

CBQL

Dạy nghề

DN

Đại học


ĐH

Đại học Sư phạm

ĐHSP

Đại học và Cao đẳng

ĐH&CĐ

Đào tạo giáo viên

ĐTGV

Giáo sư, Phó giáo sư

GS, PGS

Giáo viên

GV

Giáo dục đại học

GDĐH

Giáo dục và Đào tạo

GD&ĐT


Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục Thường xuyên

GDNN-GDTX

Hướng Nghiệp

HN

Học sinh

HS

Khoa học và Công nghệ

KH&CN

Kinh tế - Xã hội

KT - XH

Kỹ thuật tổng hợp

KTTH

Nghiên cứu khoa học

NCKH

Nghiệp vụ sư phạm


NVSP

Nhà xuất bản

NXB

Phương pháp dạy học

PPDH

Phụ huynh học sinh

PHHS

Quản lý giáo dục

QLGD

Sinh viên

SV

Trung học cơ sở

THCS

Trung học phổ thông

THPT



5

MỤC LỤC

5


6

DANH MỤC CÁC BẢNG

6


7

DANH MỤC SƠ ĐỒ

7


8

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục hướng nghiệp (GDHN) là một bộ phận cấu thành và giữ vai trò rất
quan trọng của quá trình giáo dục toàn diện, có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ các

mặt giáo dục đức, trí, thể, mỹ, tạo nên một chỉnh thể thống nhất và toàn vẹn của
nhân cách học sinh. Giáo dục hướng nghiệp nếu được thực hiện tốt sẽ giúp HS lựa
chọn được nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở thích của mình và nhu cầu xã hội.
Nhờ đó giúp quá trình đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Để GDHN trong nhà trường PT được thực hiện tốt, quản lý GDHN có vai trò quan
trọng và là trách nhiệm của tất cả các cấp quản lý trong hệ thống GD.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo..., đã xác định:
"Trước mắt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Đẩy mạnh phân
luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Tiếp tục
nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện cụ thể của
đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế giới"[6]
Ngày 14 tháng 5 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
phê duyệt Đề án “GDHN và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ
thông giai đoạn 2018 - 2025”, đã chỉ rõ: “Tạo bước đột phá về chất lượng GDHN
trong giáo dục phổ thông". [81, tr1].
Thực hiện đổi mới giáo dục, theo hướng giáo dục HS phát triển toàn diện
năng lực, phẩm chất, khắc phục những bất cập của chương trình GDPT hiện hành,
ngày 26 tháng 12 năm 2018, Bộ GD &ĐT đã ban hành chương trình giáo dục phổ
thông kèm theo thông tư số 32/2018/TT- Bộ GDĐT. Trong chương trình GDPT
2018, giáo dục hướng nghiệp cho học sinh được hướng dẫn thực hiện thông qua tất
8


9

cả các môn học như Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật, Giáo dục công dân ở cấp trung
học cơ sở, các môn học ở cấp trung học phổ thông và thông qua các hoạt động trải
nghiệm, cùng với Nội dung giáo dục của địa phương, gắn với các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ tại địa phương. Hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà

trường phổ thông được thực hiện thường xuyên và liên tục, trong đó tập trung vào
các năm học cuối của giai đoạn giáo dục cơ bản và toàn bộ thời gian của giai đoạn
giáo dục định hướng nghề nghiệp. Ngoài các hoạt động hướng đến cá nhân, xã hội,
tự nhiên, nội dung Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở cấp trung học phổ thông
tập trung hơn vào hoạt động giáo dục hướng nghiệp nhằm phát triển năng lực định
hướng nghề nghiệp. Thông qua các hoạt động hướng nghiệp, học sinh được đánh
giá và tự đánh giá về năng lực, sở trường, hứng thú liên quan đến nghề nghiệp, nhu
cầu nhân lực của xã hội, làm cơ sở để tự lựa chọn cho mình một nghề phù hợp;
đồng thời rèn luyện phẩm chất và năng lực để thích ứng với nghề nghiệp tương
lai[15]. Để thực hiện tốt các yếu cầu của CTGDPT 2018 cần đổi mới hoạt động
quản lý, trong đó có quản lý giáo dục hướng nghiệp.
Mặt khác, thực tế hiện nay, giáo dục đại học phát triển nhưng chưa được quy
hoạch phù hợp với cơ cấu nền kinh tế và nhu cầu nhân lực trong thời kỳ cách mạng
công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0). Không ít sinh viên đại học ra trường không
có việc làm, phải tiếp tục học thêm nghề khác với trình độ trung cấp để đáp ứng nhu
cầu lao động nghề hoặc lao động phổ thông; tình trạng thiếu nhân lực lao động lành
nghề, thừa nhân lực lao động thủ công chiếm tỉ lệ rất cao; từ năm 2015 trở lại đây tỉ
lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông không đăng ký thi đại học mà tìm hướng
học nghề hoặc xuất khẩu lao động tăng dần. Chỉ tiêu chất lượng đầu ra của các nhà
trường trung học phổ thông đều được dừng lại ở việc phấn đấu có tỉ lệ học sinh tốt
nghiệp cao và thi đỗ vào đại học, cao đẳng; vấn đề hướng dẫn HS chọn nghề, chọn
trường để học bậc học cao hơn hay tham gia vào đời sống lao động sau khi tốt
nghiệp không được các nhà trường kiểm soát, là thực tiễn minh chứng về "lỗ hổng"
của thực hiện GDHN và quản lý GDHN trong trường phổ thông.
Là một tỉnh miền núi, trong những năm qua, quản lý GDHN cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang mặc dù đã đạt được những kết
quả tích cực như: tạo nên nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp cho học sinh, phụ
huynh học sinh và cả xã hội; góp phần cho sự dịch chuyển và những thay đổi tích
9



10

cực về kết quả phân luồng học sinh trước và sau khi tốt nghiệp. Nhưng hiệu quả của
hoạt động GDHN còn thấp chưa đáp ứng yêu cầu xã hội. Điều đó được thể hiện là
nhiều học sinh rất lúng túng trong việc lựa chọn hướng đi của mình sau khi tốt
nghiệp và không xác định được khả năng của mình để định hướng nghề nghiệp
tương lai. Đa số học sinh đều đi theo hướng học xong THCS phải vào THPT, học
xong THPT phải vào đại học hoặc cao đẳng, rất ít học sinh chấp nhận vào học các
trường TCCN hoặc trung cấp nghề, mặc dù xã hội rất cần các nhân lực được đào tạo
nghề ở trình độ trung cấp. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất cân đối
trong cơ cấu trình độ, ngành nghề đào tạo của nhân lực cả nước nói chung và của
tỉnh Tuyên Quang nói riêng. Tình trạng nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp đại học
không xin được việc làm hoặc làm những công việc trái với ngành nghề được đào
tạo, phải đào tạo lại gây lãng phí lớn cho gia đình và xã hội. Mục tiêu của hướng
nghiệp, dạy nghề và phân luồng học sinh chưa đạt yêu cầu.
Nguyên nhân cơ bản là giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trong các trường
học của tỉnh Tuyên Quang chưa thật hiệu quả; Từ chủ trương của Tỉnh đến việc
thực hiện chưa định hướng tốt cho việc đào tạo và sử dụng công nhân lành nghề,.
Chất lượng hoạt động GDHN trong các trường phổ thông và nhất là các trường
THPT vẫn còn nhiều bất cập. Chưa có một hướng dẫn cụ thể nào về kiểm tra, đánh
giá chất lượng GDHN; không có tổ chuyên môn chuyên trách về GDHN; sự dàn trải
lồng ghép GDHN trong các hoạt động giáo dục khác, sự thiếu quan tâm về đánh giá
chất lượng GDHN, chưa tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia tuyên
truyền nghề nghiệp cho học sinh ngay trong các nhà trường, chính là những vấn đề
bất cập dẫn đến không đạt được kết quả GDHN cho học sinh trung học phổ thông
như mong muốn. Là một tỉnh nghèo, kém phát triển, cơ cấu và trình độ lao động của
Tuyên Quang hiện nay không đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
Tỉnh theo hướng công nghiệp, hiện đại. Có thể nói, thiếu hụt lao động đang là rào
cản của Tuyên Quang trên con đường phát triển nếu như Tuyên Quang không giải

được bài toán việc làm và định hướng nghề nghiệp cho học sinh trong các trường
phổ thông. Với những khó khăn, hạn chế đã nêu trên, việc đầu tư phát triển ngành
giáo dục nói chung, trong đó, việc định hướng cho học sinh THPT vào các lĩnh vực
nghề nghiệp hoặc tiếp tục học lên đang trở thành một trong những yêu cầu cấp bách
để đáp ứng cho nhu cầu lao động về số lượng lẫn chất lượng. Chính vì vậy, Tuyên
10


11

Quang cần phải quan tâm nhiều hơn và có giải pháp hiệu quả hơn để thực hiện chủ
trương hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau THPT.
Nghiên cứu về GDHN và quản lý GDHN ở trường trung học phổ thông đã
được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm. Tuy nhiên ở Việt Nam, lý
luận về GDHN và quản lý GDHN trong nhiều năm vẫn chưa có nhiều sự thay đổi
và phát triển theo xu thế phát triển của xã hội. Nghiên cứu về quản lý giáo dục
hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông cho một khu vực có nhiều đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống vẫn còn chưa được khai thác một cách phù hợp trong bối
cảnh hiện nay. Theo đó, việc tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng
như thực tiễn GDHN và quản lý GDHN cho học sinh ở các trường trung học phổ
thông là một trong những vấn đề khoa học rất có ý nghĩa nhằm thực hiện mục
tiêu giáo dục và đào tạo, sự phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc
phòng cho tỉnh Tuyên Quang nhất là trong bối cảnh chương trình giáo dục phổ
thông mới được ban hành.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Quản lý GDHN cho học
sinh trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục” để
triển khai nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về GDHN và quản lý
GDHN, luận án đề xuất các giải pháp quản lý GDHN cho học sinh ở các trường

trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục, nhằm nâng
cao chất lượng GDHN, kiểm soát được hiệu quả giáo dục toàn diện, làm tốt công
tác phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp đáp ứng nhu cầu tạo nguồn đào tạo nhân
lực trong tỉnh cũng như cả nước.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Gíao dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý GDHN cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Tuyên
Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
4. Giả thuyết khoa học
Quản lý GDHN cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Tuyên
11


12

Quang mặc dù đã tạo được nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp cho học sinh, phụ
huynh học sinh và cả xã hội; góp phần cho sự dịch chuyển và những thay đổi tích
cực về kết quả phân luồng học sinh trước và sau khi tốt nghiệp. Nhưng trong bối
cảnh đổi mới giáo dục, vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập. Nếu nghiên cứu xác định
được nội dung quản lý GDHN theo tiếp cận tích hợp các chức năng quản lý với các
thành tố của quá trình GDHN trong bối cảnh đổi mới giáo dục sẽ đánh giá rõ thực trạng
quản lý GDHN và đề xuất được các giải pháp quản lý GDHN cho học sinh THPT phù
hợp với thực tế của tỉnh Tuyên Quang, góp phần nâng cao chất lượng GDHN cũng như
chất lượng giáo dục nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về GDHN và quản lý GDHN cho học sinh trung
học phổ thông trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng GDHN và quản lý GDHN cho học sinh trung

học phổ thông tỉnh Tuyên Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
- Đề xuất các giải pháp quản lý GDHN cho học sinh trung học phổ thông tỉnh
Tuyên Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
- Khảo nghiệm các giải pháp và thử nghiệm một số giải pháp quản lý đã đề xuất.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Trong bối cảnh đổi mới giáo dục đặt ra cho các nhà quản lý những vấn đề gì
để quản lý GDHN ở các trường THPT, phát triển ở HS những năng lực hướng nghiệp,
lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với bản thân gắn kết với yêu cầu xã hội?
- Dựa vào nội dung quản lý GDHN được xác định theo tiếp cận tích hợp các
chức năng quản lý với các thành tố của quá trình GDHN có thể xác định được thực
trạng GDHN và quản lý GDHN cho HS ở các trường THPT tỉnh Tuyên Quang hiện
nay như thế nào? Đâu là những vấn đề cần giải quyết trong quản lý GDHN cho HS ở
các trường THPT tỉnh Tuyên Quang đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục?
- Có thể giải quyết các vấn đề đó bằng các giải pháp quản lý cơ bản nào?
7. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu: Căn cứ vào Chương trình giáo dục phổ thông của Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành theo thông tư số 32/2018/ TT-BGD ĐT ngày 28
tháng 12 năm 2018: GDHN là một môn học nhưng không có kiểm tra đánh giá, GDHN
được xem là một "Hoạt động giáo dục bắt buộc" của cấp trung học phổ thông, nên luận
12


13

án tập trung nghiên cứu trong phạm vi quản lý hoạt động GDHN của nhà trường trung
học phổ thông.
Về chủ thể quản lý: Phạm vi chủ thể quản lý là các cá nhân, tổ chức trong
nhà trường trung học phổ thông theo Điều lệ trường Trung học cơ sở, trường trung
học phổ thông và trường trung học phổ thông có nhiều cấp học quy định: Gồm hội
đồng trường, hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng, các tổ chức trong nhà trường, các tổ

chuyên môn, các lực lượng giáo dục liên quan.
Về địa bàn nghiên cứu: Các trường THPT tỉnh Tuyên Quang.
Về khách thể điều tra, khảo sát: cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh, học sinh,
cựu học sinh của một số trường trung học phổ thông, công chức, viên chức là lãnh đạo
ở một số phòng chuyên môn của Sở Giáo dục và Đào tạo thuộc địa bàn nghiên cứu;
công chức thuộc một số Vụ quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, một số chuyên
gia nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Về thời gian, các số liệu sử dụng cho quá trình nghiên cứu luận án được khảo
sát, điều tra, tổng hợp từ năm 2013 đến năm 2017; Thử nghiệm được thực hiện làm
hai lần: Lần thứ nhất vào đầu học kỳ II, năm học 2015 - 2016; lần thứ hai vào đầu
học kỳ II, năm học 2016 - 2017; Quá trình đo kết quả được thực hiện hai lần trong
khoảng thời gian thích hợp của năm học thứ nhất và năm học thứ hai.
8. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, đào tạo, quản lý giáo dục; quan điểm xây
dựng và thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Phương pháp tiếp cận của đề tài: Để nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản
lý GDHN cho học sinh một cách toàn diện, luận án sử dụng phương pháp " tiếp cận
tích hợp các chức năng quản lý với các thành tố của quá trình GDHN trong bối cảnh
đổi mới giáo dục". Mặt khác, GDHN trong nhà trường phổ thông bao gồm nhiều
thành tố; các thành tố của quá trình giáo dục có mối liên hệ chặt chẽ và tương tác
qua lại với nhau cho nên để đánh giá một quá trình giáo dục cần phải xem xét các
thành tố của quá trình giáo dục. Chất lượng GDHN phản ánh rõ nét hiệu quả quản
lý GDHN của chủ thể, trong đó quản lý GDHN được tiếp cận là một quá trình thực
13


14


hiện các chức năng quản lý tác động lên đối tượng quản lý với phương tiện, công cụ
và phương pháp phù hợp. Vì vậy tiếp cận theo hướng xem xét chủ thể quản lý thực
hiện các chức năng quản lý như thế nào trong quá trình tác động vào các thành tố
của quá trình GDHN sẽ cung cấp cơ sở để nghiên cứu về thực tiễn quản lý GDHN
cho học sinh THPT. Lấy kết quả hoạt động GDHN làm thước đo hiệu quả quản lý
và phát hiện các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện các chức năng quản lý.
Bên cạnh đó, tác giả luận án còn vận dụng linh hoạt các quan điểm: phát triển, hệ
thống - cấu trúc, lịch sử - lôgíc, thực tiễn, mối quan hệ cung- cầu; mô hình hoá, khái
quát hoá,... trong xem xét, giải quyết vấn đề nghiên cứu.
8.2. Phương pháp nghiên cứu
8.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đề tài đã sử dụng kết hợp
các phương pháp sau đây:
Phân tích, tổng hợp, phân loại, khái quát hoá các tài liệu về hướng nghiệp;
GDHN; quản lý GDHN cho học sinh phổ thông của các tác giả trong và ngoài nước
để xây dựng khung lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Sử dụng phương pháp hồi cứu, tổng hợp hoá trong việc phân tích các tài liệu
khoa học về giáo dục và quản lý GDHN đã có nhằm phát hiện các xu hướng, các
trường phái nghiên cứu, từ đó xây dựng tổng quan về vấn đề nghiên cứu làm cơ sở
để phát hiện những thành tựu lý thuyết đã có và tìm ra những khoảng trống trong
vấn đề nghiên cứu để đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu.
8.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Đề tài sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến đối
với các đối tượng có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu (cán bộ quản lý giáo
dục các cấp; giáo viên; cán bộ các ban ngành địa phương; phụ huynh học sinh và
học sinh trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang), lựa chọn đối tượng được hỏi có tính đến
vị trí trong xã hội, đảm bảo mỗi mẫu phiếu có số lượng thông tin đủ tin cậy. Phương
pháp này được sử dụng để khảo sát đánh giá nhận thức của các bên liên quan về
GDHN và quản lý GDHN; về thực trạng thực hiện các nội dung của quá trình

GDHN và quản lý GDHN cho HS THPT tỉnh Tuyên Quang
Phương pháp trao đổi, phỏng vấn sâu: Tổ chức tọa đàm với cán bộ quản lý
giáo dục, giáo viên,... về GDHN và quản lý GDHN cho học sinh ở các trường trung
14


15

học phổ thông . Trao đổi với lãnh đạo, chính quyền địa phương, với các phụ huynh
học sinh và học sinh ở các trường trung học phổ thông, sinh viên một số trường đại
học, cao đẳng trên địa bàn về vấn đề GDHN trong những năm qua để tìm hiểu về
những vấn đề có liên quan đến quản lý GDHN cho học sinh ở các trường THPT
tỉnh Tuyên Quang trong bối cảnh hiện nay. Gửi phiếu phỏng vấn đến một số Hiệu
trưởng trường THPT tỉnh Tuyên Quang để làm rõ thêm một số khía cạnh của thực
trạng quản lý GDHN cho HS THPT tỉnh Tuyên Quang.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Nghiên cứu các kế hoạch, báo
cáo tổng kết năm học, chương trình GDHN cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông của tỉnh Tuyên Quang; qua đó, đánh giá thực trạng quản lý giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang
một cách khách quan, chính xác và đầy đủ.
Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát quá trình quản lý GDHN; tập
trung vào các chức năng quản lý; phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch GDHN, kiểm tra, đánh giá kết quả GDHN cho học sinh
của các trường, nhằm đánh giá thực trạng quản lý GDHN cho học sinh ở các trường
trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
Tham gia dự một số hoạt động tổ chức GDHN cho học sinh ở một số trường
trung học phổ thông, làm cơ sở đánh giá thực trạng quản lý GDHN vào học sinh ở
các trường trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.
Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm: Từ việc phân tích làm rõ
những ưu điểm, hạn chế của thực trạng quản lý GDHN, tác giả luận án khái quát

thành những kinh nghiệm nhằm củng cố, phát triển lý luận và làm cơ sở để đề xuất
các giải pháp quản lý GDHN cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh
Tuyên Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
Phương pháp chuyên gia: Tiến hành trao đổi xin ý kiến chuyên gia là các nhà
giáo dục, quản lý giáo dục có kinh nghiệm để tư vấn một số nội dung, cách thức
tiến hành nghiên cứu thực trạng; xin ý kiến đánh giá về các yếu tố tác động đến quá
trình quản lý; đồng thời, xin ý kiến đánh giá mức độ cần thiết và khả thi của các giải
pháp quản lý GDHN cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Tuyên
Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục; trên cơ sở đó, hoàn thiện những nội dung
nghiên cứu của đề tài luận án.
15


16

8.2.3. Nhóm phương pháp khác
Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm: Tiến hành đánh giá mức độ cần thiết và
khả thi của các giải pháp đề xuất trong luận án qua khảo nghiệm lấy ý kiến về các giải
pháp và thử nghiêm 01 giải pháp đề xuất trong luận án tại 2 trường trung học phổ thông
của tỉnh Tuyên Quang.
Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu khảo sát,
lập biểu bảng, phân tích số liệu đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu.
9. Những luận điểm bảo vệ
- Sử dụng tiếp cận chức năng quản lý kết hợp với các thành tố của quá trình
GDHN để xác định các nội dung quản lý GDHN cho học sinh THPT sẽ có cơ sở để
làm rõ điểm mạnh, yếu, xác định các vấn đề cần giải quyết của quản lý GDHN
trong các trường THPT tỉnh Tuyên Quang gắn với yêu cầu đổi mới giáo dục.
- Những bất cập trong quản lý GDHN ở các trường THPT tỉnh Tuyên Quang
thể hiện ở tất cả các khía cạnh của quá trình thực hiện các chức năng quản lý tác
động đến các thành tố của quá trình GDHN đòi hỏi phải có các giải pháp quản lý để

kịp thời khắc phục các khâu yếu nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
- Trong bối cảnh đổi mới giáo dục, với hệ thống các giải pháp bao quát các
khâu Kế hoạch hóa hoạt động GDHN, Xây dựng mô hình tổ chức GDHN cho học
sinh THPT phù hợp địa bàn tỉnh Tuyên Quang, Tổ chức tác động làm thay đổi nhận
thức, nâng cao năng lực về GDHN cho các lực lượng tham gia GDHN; xây dựng
kênh thông tin phản hồi thông qua chỉ đạo đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả hoạt
động GDHN cho HS sẽ khắc phuc được các khâu yếu, giải quyết được các vấn đề
đặt ra cho GDHN và quản lý GDHN cho HS trường THPT của tỉnh Tuyên Quang.
10. Đóng góp mới của luận án
Luận án đã luận giải, làm sáng tỏ cơ sở lý luận của quản lý GDHN cho học
sinh THPT và thực tiễn của vấn đề quản lý GDHN cho học sinh trung học phổ
thông tỉnh Tuyên Quang, cụ thể: khái quát và làm rõ khái niệm GDHN, quản lý
GDHN cho học sinh trung học phổ thông, chỉ rõ con đường thực hiện các chức năng
quản lý và những yếu tổ tác động đến quản lý GDHN cho học sinh trung học phổ
thông trong bối cảnh đổi mới giáo dục; khái quát bức tranh toàn cảnh về GDHN và
quản lý GDHN cho học sinh ở các trường THPT tỉnh Tuyên Quang. Đặc biệt, luận
án đã đề xuất các giải pháp quản lý GDHN cho học sinh ở các trường trung học phổ

16


17

thông tỉnh Tuyên Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục phù hợp với điều kiện
thực tiễn của địa phương.
11.Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
11.1.Ý nghĩa lý luận: Luận án tổng hợp, hệ thống hoá cơ sở lý luận để đề
xuất các giải pháp quản lý GDHN cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Tuyên
Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục, góp phần bổ sung, phát triển làm phong
phú thêm lý luận quản lý, quản lý giáo dục, quản lý GDHN cho học sinh trung học

phổ thông.
11.2.Ý nghĩa thực tiễn: Cung cấp các giải pháp quản lý GDHN cho các
CBQL các trường trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang để nâng cao chất lượng
GDHN. Các giải pháp có thể vận dụng cho các trường THPT của các địa phương
khác có điều kiện tương đồng. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu
tham khảo phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý GDHN cho học sinh ở các
trường trung học phổ thông trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Cung cấp cơ sở thực
tiễn để đề xuất cho các cấp uỷ, chính quyền địa phương tỉnh Tuyên quang trong
lãnh đạo và ban hành các chính sách của địa phương để hỗ trợ các trường THPT
trong quản lý GDHN đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
12. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận án được trình bày trong 3 chương. Cụ thể là;
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
trung học phổ thông trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
Chương 2. Cơ sở thực tiễn của quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
Chương 3. Một số giải pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang trong bối cảnh đổi mới giáo dục.

17


18

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
1.1. Tổng quan nghiên cứu về giáo dục hướng nghiệp và quản lý giáo dục

hướng nghiệp cho học sinh phổ thông
1.1.1. Nghiên cứu về GDHN cho học sinh ở trường phổ thông
Năm 1848, trong cuốn sách "Hướng nghiệp chọn nghề" xuất hiện ở Pháp, các
tác giả đã đề cập tới xu thế phát triển đa dạng của nghề nghiệp do sự phát triển của
công nghiệp tạo nên và việc nhất thiết phải giúp đỡ thanh niên trong sự lựa chọn
nghề nghiệp. Người ta nhận thấy hệ thống nghề nghiệp đã phức tạp, sự chuyên môn
hóa đã vượt lên hẳn so với giai đoạn sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp. Theo
đó khẳng định tính cấp thiết phải định hướng, giúp thanh thiếu niên, học sinh đi vào
“thế giới nghề nghiệp” nhằm sử dụng lực lượng lao động trẻ có hiệu quả.
Ở Mỹ vào năm 1883, nhà tâm lý học Ph. Ganton đã nghiên cứu thử nghiệm
(Test) với mục đích lựa chọn nghề. Vào đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện các cơ sở dịch
vụ hướng nghiệp ơt Anh, Mỹ, Pháp. Đặc biệt vào năm 1908 F.Pason thuộc đại học
tổng hợp Garvared (Mỹ) đã tổ chức ở Boston lần đầu tiên ở Mỹ hội đồng nghề
nghiệp giúp đỡ việc chọn nghề cho người lao động và được xem là cha đẻ của thuật
ngữ “hướng nghiệp” [dẫn theo 89].
Ở Nga trong cuốn sách về hướng nghiệp “Lựa chọn Khoa và điểm qua
chương trình đại học tổng hợp” của một giáo sư trường đại học tổng hợp PetecbuaB.F.Kpeev, xuất bản năm 1897 có nêu rõ ý nghĩa về lựa chọn nghề khi thi vào
trường đại học. Nhưng việc chọn nghề chỉ giới hạn trong sự bất bình đẳng xã hội.
Tất cả các tác phẩm nghiên cứu về hướng nghiệp chỉ nhằm vào mục đích tăng
cường lợi nhuận thông qua việc bóc lột tối đa sức lực của người lao động [dẫn theo
88. tr77].
Các

nhà

khoa

học:

N.K.Krupxkaia,


A.V.Lunasatsky,

M.I.Kalinin,

N.O.Bionxkii, MZ.Akmaliv, P.R.Atutov... trong những năm 70 của thế kỷ XX đã có
nhiều đóng góp quan trọng trong lĩnh vực giáo dục lao động KTTH. Các nhà khoa
học đã đi sâu nghiên cứu ý tưởng "học tập kết hợp với lao động sản xuất" để hình

18


19

thành nhân cách toàn diện cho học sinh, những ý tưởng đó có giá trị lớn cả mặt
chính trị lẫn kinh tế - xã hội. Các nhà giáo dục Xô Viết đã làm nổi bật vai trò to lớn
của giáo dục KTTH trong nhà trường nước Nga. Giáo dục KTTH được xem là một
trong những bộ phận quan trọng nhất của giáo dục Cộng sản chủ nghĩa, giúp học
sinh tiếp nhận về mặt lý thuyết và thực tiễn về những nguyên lý cơ bản của nền sản
xuất hiện đại, hình thành kỹ năng, kỹ xảo lao động và hướng nghiệp cho học sinh;
Nhờ đó tạo cho học sinh khả năng lựa chọn có ý thức con đường lao động, xây
dựng cơ sở cho việc đào tạo nghề về sau. Đặc biệt, N.K.Krupxkaia đã nhấn mạnh
yêu cầu phải quán triệt nguyên lý học tập kết hợp với lao động sản xuất vào quá
trình dạy học các môn học của nhà trường; tác giả này cho rằng giữa các môn học
phải có quan hệ mật thiết với nhau, liên hệ với hoạt động thực tiễn và nhất là đối với
học môn kỹ thuật. N.K.Krupxkaia trong cuốn sách "Hoàn thiện quá trình dạy học"
đã chỉ ra rằng: "Mối liên hệ giữa học tập và lao động cần phải thực hiện sao cho học
tập lý thuyết soi sáng con đường thực hành vào lao động sản xuất, còn lao động làm
giàu kiến thức giúp nắm kiến thức một cách có ý thức"; "Giáo viên dạy lao động
cần trang bị cho học sinh những kiến thức kỹ năng, KTTH đại cương cần thiết cho

người lao động các nghề khác nhau để lao động sản xuất" [85]. Chính vì vậy, qua
các lần cải cách, giáo dục Xô Viết luôn chú trọng tăng cường giáo dục lao động với
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông trên cơ sở gắn với lao động sản xuất.
Ở Cộng hòa liên bang Đức, các tác giả Rolf Oberliesen, Helmut keim,
Michael Schumann, Gehart, Duismamn đã có những công trình nghiên cứu về
“phương thức tổ chức cho học sinh phổ thông thực tập ở các nhà máy, xí nghiệp,
các cơ sở kinh doanh dịch vụ” [dẫn theo 88].
Các trường học ở Châu Âu cuối thế kỷ XX có xu thế cải cách gắn với hướng
nghiệp và đào tạo nghề. Vào những năm 70-80 thế kỷ trước, các nước Châu Âu lần
lượt tiến hành cải cách giáo dục từ cấu trúc tổ chức đến nội dung, phương pháp giáo
dục và giảng dạy, đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội công nghiệp dựa vào sự
tiến bộ vượt bậc của khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, kinh tế để
đạt tới một số chuẩn mực chung về trình độ giáo dục phổ thông và giáo dục nghề và
hướng nghiệp tại trường phổ thông.
- Trong nhà trường Pháp: giảm bớt tính hàn lâm, tăng cường tỷ trọng kiến
thức có ý nghĩa thực dụng, ý nghĩa hướng nghiệp.
19


20

- Trong nhà trường Đức: hiện đại hóa quá trình học tập của theo hướng tạo
điều kiện cho HS có thể học nghề ngay khi đang học phổ thông, cung cấp hệ thống
và kiến thức khoa học gắn với đào tạo nghề một cách linh hoạt, giảm bớt tính hàn
lâm của bậc trung học hoàn chỉnh.
- Ở những trường học Úc, GDHN - lập nghiệp (Career Education) nhằm phát
triển những kiến thức, kỹ năng và thái độ cho học sinh thông qua một chương trình
học tập được kế hoạch hóa. Việc giáo dục này giúp cho HS biết đưa ra những quyết
định về việc lựa chọn có tính hướng nghiệp - lập nghiệp trong và sau khi học ở
trường và tham gia có hiệu quả vào đời sống lao động. Việc giáo dục hướng nghiệp

được thực hiện để giúp HS thực hiện 4 nội dung: học về bản thân trong mối quan hệ
với lao động; Học về thế giới nghề nghiệp; Học về lập kế hoạch và ra quyết định
hướng nghiệp - lập nghiệp; Phát triển khả năng triển khai các quyết định về hướng
nghiệp và tiến hành thay đổi công việc.
Với quan điểm học tập là quá trình kéo dài suốt cả cuộc đời, tổ chức quốc tế
UNESCO khuyến cáo phải nhìn nhận lại cả nội dung và cách tổ chức giáo dục trung
học. Sự phát triển vũ bão của KHKT và công nghệ đòi hỏi một thị trường lao động
lớn, cần phải có những giải pháp nhằm huy động các lực lượng xã hội tham gia vào
công tác giáo dục, đặc biệt là GDHN để phân luồng học sinh từ đầu cấp THPT.
Quan điểm chủ đạo của UNESCO là tạo điều kiện và cơ hội tốt nhất để mọi người
đều có thể tham gia ở những loại hình học tập phù hợp, đặc biệt quan tâm đến các
đối tượng có điều kiện, hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, phải tạo ra nhiều chương
trình học tập liên thông để mọi người có thể chia quá trình tích lũy kiến thức của
mình ra làm nhiều giai đoạn (học tập suốt đời) và có cơ hội để thường xuyên cập
nhật, bổ sung kiến thức về tất cả lĩnh vực mà mình có nhu cầu tìm hiểu. Theo quan
điểm này, lực lượng lao động sẽ không ngừng được đào tạo ở tất cả mọi cấp độ,
được giáo dục một cách toàn diện với những kiến thức, kỹ năng và tri thức khoa học
luôn luôn được cập nhật, đáp ứng yêu cầu nhân lực của xã hội.
Theo quan điểm của UNESSCO, hướng nghiệp đòi hỏi sự đánh giá dựa trên
việc kết hợp những tiêu chí về giáo dục và dự báo về nhân cách tương lai. Nhà
trường phải có khả năng xác định chính xác khả năng của mỗi HS. Vì vậy, cần phải
có những nhà tư vấn hướng nghiệp có chuyên môn để giúp HS lựa chọn khóa học

20


21

thích hợp, dự báo những khó khăn trong học tập và giúp giải quyết những vấn đề xã
hội khi cần thiết.

Ở Việt Nam, các tác giả như: Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh, Nguyễn
Minh Đường, Nguyễn Văn Hộ ngay từ những năm 80 của thế kỷ XX đã nêu ra
một số cơ sở tâm lý, nội dung của công tác hướng nghiệp. Đặc biệt với luận văn
Phó tiến sĩ của mình, tác giả Phạm Tất Dong là người đầu tiên đặt nền móng cho
việc thiết lập những cơ sở lý thuyết về hướng nghiệp.
Trong khoảng thời gian 10 năm từ 1980 - 1990, quản lý công tác hướng nghiệp,
phân luồng học sinh đã được triển khai đối với hệ thống giáo dục phổ thông theo kế
hoạch, theo chương trình và nội dung của Bộ Giáo dục - Đào tạo hoạch định nhằm làm
tốt việc phân luồng HS tốt nghiệp các cấp THCS và THPT sau khi tốt nghiệp ra trường.
Trong những năm gần đây, vấn đề GDHN ở trường THPT đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm và đề cập tới ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến các tác
giả: Phạm Tất Dong, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Văn Hộ, Đặng Danh Ánh, Nguyễn
Như Ất, Phạm Huy Thụ, Đoàn Chi, Trần Khánh Đức, Hà Thế Truyền, Nguyễn Viết
Sự, Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Văn Lê, Bùi Văn Quân, Phạm Huy Thụ, Nguyễn Thị
Thanh Huyền... Nhìn chung, các công trình của các tác giả đều tập trung vào nghiên
cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý hoạt động hướng nghiệp với mục đích, ý
nghĩa, nội dung, hình thức tổ chức GDHN cho học sinh phổ thông.
Tác giả Phạm Minh Hạc phân tích tình hình giáo dục - đào tạo nước ta và
phương hướng đổi mới giáo dục - đào tạo, đã xác định việc xây dựng một nền giáo
dục kỹ thuật, đó là “Nền giáo dục được chỉ đạo bằng tư tưởng phục vụ phát triển
công nghệ” [30]. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với kết quả nghiên cứu của tác giả về
con người trong công cuộc đổi mới, trong đó đề cập tới yếu tố: “Ưu tiên đến việc
giáo dục nghề nghiệp” [31], đây cũng là quan điểm của quản lý GDHN sau này.
Tác giả Phạm Tất Dong đã nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt
động hướng nghiệp; Hứng thú nghề nghiệp; Những vấn đề về nội dung, phương
pháp hướng nghiệp cho học sinh, thanh niên…Trong một nghiên cứu tác giả đã
khẳng định: “Trong những người không kiếm ra được việc làm, 85,8 % là thanh
niên. Trong tổng số thanh niên đứng ngoài việc làm, 67,4 % là không biết nghề”
[24, tr.25]. Trên cơ sở đó tác giả đã xác định cần: “Chú trọng việc hình thành những
năng lực nghề nghiệp cho thế hệ trẻ để tự tìm ra việc làm”, đồng thời: “Tiếp sau

21


22

quá trình hướng nghiệp, dứt khoát phải dạy nghề cho học sinh… đây là một nguyên
tắc rất cơ bản” [24,tr.40]. Thông qua nghiên cứu “những vấn đề mới đặt ra trước
yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp hiện nay”, tác giả đã đề nghị
thiết lập một hệ thống GDHN từ bậc tiểu học với thời lượng tăng dần ở các năm sau
đó. Tác giả cũng đưa ra những đề nghị cụ thể về phương diện quản lý hoạt động
GDHN cần giao nhiệm vụ GDHN cho các giáo viên Công nghệ, đổi mới chương trình
GDHN, kết hợp các buổi tham quan sản xuất, giao lưu với các nhân vật tiêu biểu trong
hoạt động của nền kinh tế quốc dân, đề nghị phải huy động cha, mẹ học sinh, các tổ
chức kinh tế - xã hội tham gia GDHN cho học sinh phổ thông Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Văn Hộ đề cập vấn đề “Thiết lập và phát triển hệ thống
hướng nghiệp cho học sinh Việt Nam” [35]. Trong đó tác giả xây dựng luận chứng
cho hệ thống hướng nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của đất nước,
đề xuất quản lý GDHN với những hình thức phối hợp giữa nhà trường, các cơ sở
đào tạo nghề, cơ sở sản xuất trong hướng nghiệp - dạy nghề cho học sinh phổ thông.
Nghiên cứu về Động cơ chọn nghề; Hứng thú chọn nghề và Khả năng thích
ứng nghề của học sinh học nghề là một hướng nghiên cứu khác do các tác giả Đặng
Danh Ánh, Nguyễn Viết Sự cùng cộng sự khác triển khai [2]. Đặc biệt trong cuốn
“Tuổi trẻ và nghề nghiệp” tập 1 và tập 2 xuất bản từ những năm 80 của thế kỷ XX
đã nghiên cứu tâm sinh lý, nội dung lao động của một số nghề nhằm tạo ra tài liệu
hướng nghiệp cho trường phổ thông.
Theo tác giả Nguyễn Trọng Bảo “Vấn đề GDHN vừa là một vấn đề cơ bản,
vừa là một vấn đề cấp bách của nhà trường phổ thông ngày nay” và để làm tốt thì
“GDHN phải được quán triệt trong mọi hoạt động của nhà trường. Đó không chỉ là
nhiệm vụ của riêng nhà trường, của ngành giáo dục, mà là nhiệm vụ của tất cả các
cấp, các ngành, các cơ sở sản xuất và của toàn xã hội” [18, tr.35].

Từ các nghiên cứu cho thấy quan điểm truyền thống và quan điểm mới về
GDHN ở Việt Nam:
- Quan điểm truyền thống: Theo quan điểm này, GDHN gắn với khâu chọn
nghề. Về phạm vi, hướng nghiệp chỉ diễn ra ở trường phổ thông. Về đối tượng, là
HS phổ thông nhưng chủ yếu là HS từ THCS đến hết cấp THPT.
- Quan điểm mới: Theo quan điểm này, GDHN gắn với quá trình phát triển
nghề nghiệp gồm có chọn nghề và thích ứng nghề. Về phạm vi, công tác hướng
22


23

nghiệp diễn ra không chỉ ở trường phổ thông mà ở cả trường dạy nghề, trường
TCCN, CĐ, ĐH và cả ở những cơ sở sản xuất kinh doanh. Về đối tượng, bao gồm
cả HS phổ thông, HS học nghề và TCCN, sinh viên CĐ, ĐH và người lớn tuổi học
thêm nghề hoặc chuyển đổi nghề do thay đổi công nghệ, cổ phần hoá doanh nghiệp,
môi trường sống...

Sơ đồ 1.1. Hướng nghiệp theo quan điểm mới
Công trình “GDHN ở trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay” [20] của
tác giả Nguyễn Phúc Chỉnh đã đi sâu nghiên cứu về việc cần thiết phải đổi mới
GDHN trong trường phổ thông và đã đưa ra các định hướng đổi mới như: đổi mới
mục tiêu, phương thức, nội dung GDHN trong đó nhấn mạnh “GDHN là quá trình
dạy học có chủ đích, phục vụ mục tiêu làm thay đổi một cách lâu bền vị thế của
người học để họ có thể hoàn thành các yêu cầu nghề nghiệp”. Như vậy, trong đào
tạo nghề hay trong dạy học các môn học ở trường phổ thông giáo viên đều có nhiệm
vụ phải thực hiện chủ đích này.
Công trình: “Tích hợp GDHN trong dạy học môn Sinh học ở trường THCS”
[80], tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã đưa ra phương pháp tích hợp GDHN qua dạy
các môn học và phân tích tiềm năng GDHN của môn Sinh học ở THCS với danh

mục 11 bài dạy học sinh lớp 6, 7, 8, 9 có thể tích hợp được với GDHN.
Tác giả Nguyễn Như Ất đã nghiên cứu xác định lại cơ sở triết học của giáo
dục Việt Nam nói chung, trong đó có GDHN trình bày trong tài liệu “Vấn đề
23


24

phương pháp luận xây dựng nội dung GDHN trong trường phổ thông Việt Nam” [4].
Các tác giả Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh, Nguyễn Đức Trí và Nguyễn Quang
Huỳnh đã đề cập một loạt vấn đề bức xúc hiện tại của GDHN và quản lý GDHN như:
vấn đề phân luồng của học sinh phổ thông sau trung học, sự cần thiết phải có GDHN,
cơ sở tâm lý học của GDHN, nêu bật vai trò của GDHN với chức năng định hướng
vào việc rèn luyện năng lực thực hiện cho người lao động [1], [4], [24].
Tác giả Phan Thị Tố Oanh nghiên cứu: “Vấn đề hướng nghiệp cho học sinh qua
các môn văn hóa cơ bản ở trường THPT các tỉnh Đồng bằng sông Cửu long”đã phân
tích vai trò của môn văn hóa cơ bản có “tầm quan trọng đặc biệt đối với việc phát triển
toàn diện nhân cách con người” và tiềm năng của nó trong GDHN cho học sinh ở
trường phổ thông. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số biện pháp hướng nghiệp qua
dạy học các môn văn hóa cơ bản[54]
“GDHN trong dạy học các môn khoa học tự nhiên ở trường THPT khu vực
Trung Nam Bộ” của tác giả Phạm Văn Khanh đã đề xuất một hệ thống biện pháp
bồi dưỡng, chuyển giao quy trình GDHN cho giáo viên nhằm nâng cao chất lượng
hiệu quả GDHN cho học sinh trong dạy học môn KHTN ở các trường THPT khu
vực Trung Nam bộ. [42].
Tác giả Trịnh Văn Cường đã nghiên cứu luận án với đề tài “Giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh trong dạy học môn Công nghệ ở trường trung học phổ thông”.
Trong luận án, tác giả Trịnh Văn Cường đã phân tích làm rõ tiềm năng, ưu thế của
môn Công nghệ trong việc giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
và đã xác định cụ thể các nội dung giáo dục hướng nghiệp có thể tích hợp, lồng

ghép trong môn Công nghệ; Xác định các nguyên tắc tích hợp giáo dục hướng
nghiệp (GDHN) cho học sinh trong dạy học môn Công nghệ; Quá trình GDHN (đối
tượng, nguồn lực, mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức và kết
quả) GDHN cho học sinh trong dạy học môn Công nghệ ở trường trung học phổ
thông cũng như mối liên hệ các thành tố cấu trúc của quá trình GDHN cho học sinh
trong dạy học môn Công nghệ nhằm đạt được mục tiêu GDHN; Xác định các yếu tố
ảnh hưởng đến GDHN. Phát hiện và đánh giá thực trạng giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh trong dạy học môn Công nghệ ở các trường trung học phổ thông vùng
Đông Bắc Việt Nam và xác định được nguyên nhân, hệ quả của thực trạng trên.

24


25

Theo đó đề xuất 07 biện pháp nhằm thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
trong dạy học môn Công nghệ ở trường trung học phổ thông. Hướng nghiên cứu
giáo dục hướng nghiệp tích hợp với dạy học môn học hay hoạt động giáo dục khác
ở trường THPT là hướng triển khai phù hợp với yêu cầu thực hiện chương trình
giáo dục phổ thông mới. [21]
Theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 [15], hoạt động hướng nghiệp
được thực hiện trong mối quan hệ với hoạt động trải nghiệm. Chương trình Hoạt
động trải nghiệm ở cấp THPT phải tiếp tục phát triển những năng lực và phẩm chất
đã hình thành từ giai đoạn giáo dục cơ bản thông qua hoạt động phát triển cá nhân,
hoạt động lao động, hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng, nhưng tập trung cao
hơn vào việc phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp.
Thông qua các chủ đề sinh hoạt tập thể, hoạt động lao động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ; câu lạc bộ hướng nghiệp và các hoạt động định hướng nghề nghiệp
khác, học sinh được đánh giá và tự đánh giá về năng lực, sở trường, hứng thú liên
quan đến nghề nghiệp; được rèn luyện phẩm chất và năng lực để thích ứng với nghề

nghiệp mai sau.
Nội dung cơ bản của chương trình Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp
xoay quanh các mối quan hệ giữa cá nhân học sinh với bản thân; giữa học sinh với
người khác, cộng đồng và xã hội; giữa học sinh với môi trường; giữa học sinh với
nghề nghiệp.
Nội dung này được triển khai qua 4 nhóm hoạt động chính: Hoạt động phát
triển cá nhân; Hoạt động lao động; Hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng; Hoạt
động hướng nghiệp [15].
1.1.2. Nghiên cứu về quản lý giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh ở trường phổ thông
Trong xã hội thời xa xưa, cuộc sống của con người là thừa hưởng sự hào phóng
từ những sản vật do thiên nhiên ban tặng. Việc chọn “nghề” và thực hành nghề của giới
trẻ chỉ là ngẫu nhiên, may rủi và hình như là “do tạo hóa sắp đặt”, là định mệnh, là số
phận. Platon- một triết gia Hy Lạp thời cổ đại đã cổ động dân chúng rằng: “Khi tạo ra
25


×