Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.36 KB, 10 trang )

Cơ sở lý luận phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp
I. Khái niệm về phân tích hoạt động kinh doanh
1. Khái niệm
Phân tích hoạt động kinh doanh là việc phân chia các hiện tợng, các quá
trình và các kết quả kinh doanh thành các bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, bằng
các phơng pháp liên hệ, so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại nhằm rút ra tính quy
luật và xu hớng phát triển của các hiện tợng nghiên cứu.
2. Vị trí và chức năng
Trong lĩnh vực quản lý kinh tế, ngời ta sử dụng phân tích để nhận thức đợc
các hiện tợng và kết quả kinh tế, để xác định quan hệ cấu thành, quan hệ nhân quả
cũng nh phát hiện nguồn gốc hình thành và tính quy luật phát triển của chúng,
trên cơ sở đó mà cung cấp những căn cứ khoa học cho các quyết định đúng đắn
cho tơng lai.
Nằm trong hệ thống các môn khoa học quản lý kinh tế, phân tích hoạt động
kinh doanh thực hiện một chức năng cơ bản đó là dự toán và điều chỉnh các hoạt
động kinh tế. Bởi vì trớc hết doanh nghiệp đợc quan niệm nh một hệ thống và hệ
thống này là đối tợng của quản lý. Hệ thống này bao gồm nhiều bộ phận cấu
thành (phòng, ban, phân xởng, tổ đội sản xuất ) và mỗi một bộ phận cấu thành
có chức năng, nhiệm vụ riêng để đảm bảo cho hệ thống hoạt động bình thờng trên
con đờng đã đặt ra thì đòi hỏi từng bộ phận cấu thành, dù là nhỏ nhất trong hệ
thống phải hoạt động bình thờng theo đúng chức năng, nhiệm vụ của chúng. Nh
vậy chỉ cần ở một bộ phận nào đó của hệ thống hoạt động không bình thờng sẽ
làm cho hoạt động của cả hệ thống không bình thờng. Trong trờng hợp này, đòi
hỏi ngời quản lý trên cơ sở phát hiện đợc tình hình cần phải đề ra các biện pháp
loại trừ "điểm nóng" đó, điều chỉnh và khôi phục lại sự hoạt động của bộ phận đó,
đảm bảo cho cả hệ thống trở lại hoạt động bình thờng.
II. Sự cần thiết khách quan phải phân tích hoạt động kinh doanh
Sự cần thiết khách quan phải phân tích hoạt động kinh doanh đợc thể hiện
trong quá trình phát triển lịch sử của nó gắn liền với sự phát triển của sản xuất
hàng hoá. Thật vậy, sự biểu hiện bớc đầu của công tác hạch toán và phân tích hoạt


động kinh doanh đó là việc ngời Ai Cập, Babilon trong nền văn minh cổ đại xa đã
dùng đất nung và bia đá để ghi khắc những tài liệu, ghi chép về trao đổi hàng hoá,
kê khai trọng lợng hàng hoá so sánh các thu chi cùng với sự phát triển của nền sản
xuất hàng hoá, những yêu cầu buổi đầu của công tác quản lý, phân tích hoạt động
kinh doanh đợc kết hợp công tác kế toán, thống kê.
Chủ nghĩa t bản ra đời, sản xuất hàng hoá phát triển nhanh, quy mô lớn
phân tích hoạt động kinh doanh có những yêu cầu lớn hơn nhằm phục vụ đắc lực
cho công tác quản lý.
Khi chủ nghĩa đế quốc ra đời, sự tích luỹ t bản dẫn đến sự tích tụ sản xuất,
các công ty cổ phần và các công ty xuyên quốc gia ra đời, sản xuất phát triển cực
kỳ nhanh chóng về cả quy mô lẫn hiệu quả. Để chiến thắng trong cạnh tranh và
quản lý tốt hoạt động sản xuất của công ty đề ra phơng án kinh doanh có hiệu quả
các nhà t bản phải thờng xuyên phân tích hoạt động trên cơ sở nhiều luồng, nhiều
loại thông tin. Với yêu cầu này, công tác hạch toán không đáp ứng đợc, đòi hỏi
phải có một môn khoa học phân tích kinh tế độc lập với nội dung, phơng pháp
nghiên cứu phong phú.
Phân tích hoạt động kinh doanh tách rời khỏi hạch toán và thống kê dựa
trên cơ sở hai môn khoa học đó.
Ngày này, với những thành tu to lớn về sự phát triển kinh tê, văn hóa, trình
độ kỹ thuật càng cao thì việc phân tích hoạt động kinh doanh càng quan trọng
trong quá trình quản lý doanh nghiệp bởi mục đích cuối cùng là tìm ra phơng án
kinh doanh có hiệu quả cao nhất về mặt kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trờng trong
quá trình sản xuất.
ở nớc ta hiện nay, phân tích hoạt động kinh doanh đối với các đơn vị kinh
tế là rất quan trọng. Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ để đề ra định hớng
và chơng trình định hớng. Trong nền kinh tế thị trờng, để chiến thắng trong cạnh
tranh đòi hỏi các đơn vị kinh tế phải thờng xuyên áp dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật, cải tiến phơng thức hoạt động, cải tiến phơng thức quản lý sản xuất kinh
doanh nhằm nâng cao năng xuất chất lợng và hiệu quả. Phân tích hoạt động kinh
doanh là công tác cần thiết và quan trọng để đa ra các quyết định về sự thay đổi

đó.
Tóm lại: Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh là hết sức cần thiết đối
với mọi nền sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế nớc ta hiện nay sự cần thiết xuất
phát từ yêu cầu khách quan của các quy luật kinh tế, từ việc đảm bảo chức năng
quản lý kinh tế của nhà nớc và yêu cầu hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.
III. Đối tợng và nội dung của phân tích hoạt động kinh doanh
1. Đối tợng phân tích hoạt động kinh doanh
Đối tợng phân tích hoạt động kinh doanh là diễn biến của quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và tác động của các nhân tố ảnh hởng đến diễn biến
của quá trình đó.
2. Nội dung của phân tích kinh doanh
Phân tích kinh doanh phải phù hợp với đối tợng nghiên cứu, nội dung chủ
yếu của phân tích kinh doanh là:
+ Phân tích các chỉ tiêu về kết quả kinh doanh nh: sản lợng sản phẩm,
doanh thu bán hàng, lợi nhuận, giá thành
+ Các chỉ tiêu kết quả kinh doanh đợc phân tích trong mối quan hệ với các
chỉ tiêu về điều kiện (yếu tố) của quá trình sản xuất kinh doanh nh: lao động, tiền
vốn, đất đai
Để thực hiện nội dung trên, phân tích kinh doanh đợc xác định các đặc trng
về mặt lợng của các giai đoạn, trong quá trình kinh doanh (số lợng, kết cấu, quan
hệ, tỷ lệ ) nhằm xác định xu h ớng và nhịp độ phát triển, xác định các nguyên
nhân ảnh hởng đến sự biến động của các quá trình sản xuất kinh doanh, tính chất
và trình độ chặt chẽ của mối liên hệ giữa kết quả kinh doanh với các điều kiện sản
xuất kinh doanh.
3. Các chỉ tiêu và hệ thống chỉ tiêu thờng dùng cho phân tích kinh
doanh
3.1. Các chỉ tiêu dùng cho phân tích kinh doanh
Có nhiều loại chỉ tiêu kinh doanh khác nhau, tuỳ theo mục đích và nội dung
phân tích cụ thể để có sự lựa chọn những chỉ tiêu phân tích thích hợp.
Theo tính chất của chỉ tiêu có:

+ Chỉ tiêu số lợng: Phản ánh quy mô kết quả hay điều kiện kinh doanh nh:
doanh thu bán hàng, lợng vốn
+ Chỉ tiêu chất lợng: Phản ánh hiệu suất kinh doanh hay hiệu suất sử dụng
các yếu tố sản xuất kinh doanh nh: giá thành đơn vị sản phẩm, mức doanh lợi,
hiệu suất sử dụng vốn
Theo phơng pháp tính toán có
+ Chỉ tiêu tuyệt đối: Thờng dùng để đánh giá quy mô sản xuất và kết quả
kinh doanh tại thời điểm cụ thể nh: doanh số bán hàng, giá trị sản lợng hàng hoá
sản xuất
+ Chỉ tiêu tơng đối: Thờng dùng trong phân tích các quan hệ kinh tế
+ Chỉ tiêu bình quân: Là dạng đặc biệt của chỉ tiêu tuyệt đối, nhằm phản
ánh trình độ phổ biến của hiện tợng nghiên cứu nh: giá trị sản lợng bình quân một
lao động, thu nhập bình quân một lao động.
Nh vậy để phân tích kết quả kinh doanh cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu
phân tích tơng đối hoàn chỉnh với những phân hệ chỉ tiêu khác nhau, nhằm biểu
hiện đợc tính đa dạng và phức tạp của nội dung phân tích.
3.2. Công thức tính dùng để phân tích hiệu quả kinh doanh
3.2.1. Lợi nhuận của hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận của hoạt động kinh doanh là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả
của mọi hoạt động kinh doanh trong một thời kỳ nhất định, nó là chỉ tiêu cơ bản
nhất để phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận của hoạt động kinh
doanh chính là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí của hoạt động
kinh doanh trong kỳ. Công thức tính của nó nh sau:
Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí.
3.2.2. Tỷ suất lợi nhuận của hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận là đại lợng tuyệt đối đánh giá hoạt động kinh doanh song bản
thân nó mới chỉ biểu hiện một cách đơn giản mối quan hệ so sánh giữa thu và chi,
muốn đa ra đợc đánh giá sâu rộng hơn ta phải sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất lợi
nhuận hay còn gọi là chỉ tiêu doanh lợi.
Tỷ suất lợi nhuận là đại lợng tơng đối dùng để đánh giá hiệu quả hoạt động

kinh doanh, nó đợc xác định thông qua sự so sánh giữa chỉ tiêu lợi nhuận với các
chỉ tiêu đặc thù của mọi hoạt động kinh doanh là doanh thu, vốn và chi phí. Từ đó
ta có ba chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận đợc tính toán nh sau:
a. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu:
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu = Lợi nhuận / Doanh thu đạt đợc
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng doanh thu có thể mang lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận càng cao thì hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp càng tốt. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích các doanh
nghiệp tăng doanh thu, giảm chi phí nhng điều kiện để có hiệu qủa là tốc
độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng doanh thu.
b. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí = Lợi nhuận đạt đợc /Tổng chi phí bỏ ra
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ ra thì thu đợc bao nhiêu
đồng lợi nhuận . Để tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thì cần
hạn chế tối đa chi phí để thu lợi nhuận nhiều nhất.
c. Tỷ suất lợi nhuận theo vốn:
Có thể dùng chỉ tiêu tổng vốn, vốn cố định hoặc vốn lu động để tính chỉ
tiêu này.
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn lu động = Lợi nhuận / Tổng vốn lu động bình
quân
Vốn lu động bình quân = (VLĐ đầu kỳ + VLĐ cuối kỳ)/ 2
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lu động bỏ ra có thể thu đợc bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn lu
động của công ty nói chung, chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả kinh
doanh càng cao.
3.2.3. Hiệu quả sử dụng vốn
a. Số vòng quay của vốn lu động trong kỳ

×