Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.58 KB, 26 trang )

YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC (1996 – 2005)
1.1. Yêu cầu khách quan về xây dựng đội ngũ đảng viên trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1996 – 2005)
1.1.1. Vai trò, vị trí đội ngũ đảng viên trong sự nghiệp cách mạng
Các Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên những tư tưởng
cơ bản về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân và chỉ rõ giai cấp công
nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là người đào huyệt chôn chủ
nghĩa tư bản và đứng ra xây dựng xã hội mới xã hội cộng sản, họ phải tự trở
thành một giai cấp.
Giai cấp công nhân chỉ hành động với tư cách là một giai cấp khi biết tự tổ
chức ra chính đảng riêng biệt, độc lập về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Hai ông
cho rằng: Đảng phải là một đội ngũ có tổ chức tập trung chặt chẽ, là một khối
thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng như một cơ thể chính trị xã
hội sống, được cấu tạo từ những tế bào là đảng viên cộng sản. Do đó, đảng viên
cộng sản phải là người kiên quyết nhất, có giác ngộ lý luận tiên tiến, biết lãnh
đạo quần chúng hành động.
Dưới sự lãnh đạo và hoạt động, tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới do
Mác và Ăngghen thành lập: “Liên đoàn những người cộng sản” có nhiệm vụ
truyền bá tư tưởng cách mạng trong giai cấp công nhân. Liên đoàn được tổ chức
và hoạt động trên cơ sở “Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản”. Điều lệ qui
định rõ tôn chỉ, mục đích của Liên đoàn, các tiêu chuẩn hội viên, hệ thống tổ
chức và qui chế kết nạp, quản lý hội viên.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác-Ăngghen, Lênin đã kiên trì những
nguyên tắc cơ bản về vấn đề đảng viên. Đồng thời, phát triển cụ thể hoá những
quan điểm đó trong hoàn cảnh cụ thể. Người cho rằng: Đảng là một chỉnh thể, là
một tổ chức chính trị. Đảng viên là linh hồn của tổ chức đảng, chất lượng đảng viên
quyết định chất lượng tổ chức đảng, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng. Vì
vậy, cốt lõi của việc xây dựng tổ chức là xây dựng đội ngũ đảng viên. Lênin nhiều
lần chỉ rõ đội ngũ đảng viên là lực lượng quyết định để giải quyết mọi nhiệm vụ


của Đảng đặc biệt trong những nhiệm vụ khó khăn nhất, Đảng nhất định và chỉ có
thể dựa vào đội ngũ đảng viên trung kiên của mình. Những sai lầm trong công tác
đảng viên là rất nguy hiểm, có thể làm cho Đảng “hòa tan” trong quần chúng. Đảng
không còn là đội tiền phong giác ngộ của giai cấp nữa khi đó chắc chắn “sẽ là một
thời kỳ bi thảm”.
Để thành lập đảng vô sản kiểu mới, Lênin đã đấu tranh chống các quan
điểm cơ hội chủ nghĩa dưới mọi màu sắc. Song, cuộc chiến đấu diễn ra gay
go, quyết liệt nhất xung quanh vấn đề xác định điều kiện của người được kết
nạp vào Đảng. Theo Lênin: “Tất cả những người nào thừa nhận cương lĩnh
của Đảng và ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật chất cũng như bằng
cách tự mình tham gia một trong những tổ chức của Đảng, thì được coi là
đảng viên” [14, 268]. Bọn cơ hội chủ nghĩa, đứng đầu là Mác Tốp cũng đưa ra
điều kiện của người được kết nạp vào Đảng là: “Tất cả những người nào thừa
nhận cương lĩnh của Đảng, ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật chất và tự
mình giúp đỡ Đảng một cách đều đặn, dưới sự chỉ đạo của một trong những tổ
chức của Đảng thì được coi là đảng viên” [14, 268]. Lênin phê phán điều kiện
của người được kết nạp vào Đảng do Mác Tốp đưa ra, Ông cho đó chỉ là những
“câu nói rỗng tuếch”, bởi vì, Đảng không thể chỉ đạo những người đứng ngoài tổ
chức của Đảng. Quan điểm của Mác Tốp muốn biến Đảng thành một câu lạc bộ,
một tổ chức lỏng lẻo không có sức chiến đấu. Đảng Cộng sản không chỉ là một
tổ chức mà còn là một tổ chức cao nhất của giai cấp vô sản. Đảng viên phải
tham gia trong một tổ chức đảng thì Đảng mới giáo dục kiểm tra và quản lý
được họ. Điều kiện kết nạp vào Đảng do Lênin đưa ra đã được ghi vào Điều lệ
Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga. Thực sự đây là cơ sở lý luận để các Đảng
Cộng sản vận dụng vào việc xây dựng đội ngũ đảng viên sau này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong từng
giai đoạn cách mạng, Người đã chú ý tập trung công tác xây dựng Đảng trong đó
coi trọng xây dựng đội ngũ đảng viên là vấn đề quyết định chất lượng hoạt động
của chi bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng
phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”

[22, 92]. Đảng viên là người tuyên truyền, giáo dục quần chúng và cùng quần
chúng trực tiếp chiến đấu thực hiện đường lối chính sách của Đảng. Đảng viên
có chất lượng tốt, biết tổ chức, biết vận động quần chúng, bản thân lại tiên
phong gương mẫu thì làm cho vai trò lãnh đạo của Đảng trong quần chúng được
tăng cường, mọi nhiệm vụ cách mạng được thực hiện thắng lợi. Có đảng viên tốt
thì mới có nguồn dồi dào để lựa chọn, đề bạt cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh
đạo của Đảng.
Vai trò, vị trí của đội ngũ đảng viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập
một cách sâu sắc: Đảng viên luôn luôn là những người gương mẫu thay mặt cho
Đảng trước quần chúng để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho
quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành, đây là cầu nối trực tiếp giữa Đảng với
quần chúng nhân dân. Để làm được nhiệm vụ thiêng liêng ấy, đòi hỏi đội ngũ
đảng viên phải gương mẫu và tiên phong trên mọi mặt: “từ việc làm, lời nói cho
đến cách ăn ở, phải thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu” [19, 188]. Điều đó
sẽ làm cho dân tin Đảng, phục Đảng, yêu Đảng và làm theo chính sách của Đảng
và của Chính phủ.
Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân, sự thống nhất giữa hai mặt đó thể hiện một cách rất khái quát,
chính xác vai trò của người đảng viên, là người lãnh đạo quần chúng Chủ tịch
Hồ Chí Minh yêu cầu: “Người đảng viên ở bất kỳ nơi đâu, bất kỳ làm việc gì,
bất kỳ địa vị nào và hoàn cảnh nào, cũng phải luôn luôn:
Đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Phải ra sức tham gia công việc kháng chiến.
Phải gần gũi dân chúng, thương yêu giúp đỡ dân chúng, tổ chức và lãnh đạo
dân chúng.
Phải giữ vững đạo đức Cách mệnh là chí công vô tư” [19, 190].
Như vậy, là người lãnh đạo quần chúng nhưng đảng viên không xa rời và
không đứng trên quần chúng mà gắn bó chặt chẽ với quần chúng một lòng một
dạ phục vụ quần chúng. Mặt khác, là người đầy tớ trung thành của nhân dân
nhưng đảng viên không lẫn lộn mình với quần chúng, không theo đuôi quần

chúng, mà là chiến sĩ tiên phong, đại biểu chính trị tiên tiến của giai cấp công
nhân, biết kết hợp đúng đắn lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân, có trách
nhiệm lãnh đạo quần chúng, có khả năng giáo dục, thuyết phục, hướng dẫn quần
chúng hành động cách mạng theo đường lối của Đảng. Hết lòng, hết sức phục vụ
quần chúng là một tiêu chuẩn quan trọng bậc nhất của người lãnh đạo. Người
lãnh đạo phải có đầy đủ phẩm chất và năng lực mới lãnh đạo quần chúng tốt
được. Không có gì cao quí hơn danh hiệu đảng viên cộng sản. Để xứng đáng với
danh hiệu ấy, người đảng viên phải có đầy đủ tư cách người chiến sĩ cách mạng
của giai cấp công nhân, có phẩm chất và năng lực ngang tầm với nhiệm vụ lịch
sử mà Đảng phải gánh vác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng là gồm
các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công việc Đảng điều do đảng viên làm. Mọi
nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do
đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng điều
do đảng viên cố gắng thực hiện. Vì vậy, Đảng cần phải làm cho thành phần đảng
viên trong sạch, phải bồi dưỡng và hấp thụ vào Đảng những người tốt trong giai
cấp lao động. Phải nâng cao trình độ lý luận và chính trị của đảng viên. Phải
tăng cường tính tổ chức và tính kỷ luật của đảng viên. Phải phát triển tính hăng
hái và hoạt động chính trị của đảng viên” [20, 235-236].
Xuất phát từ tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên và vai trò
của đội ngũ đảng viên trong thực hiện đường lối chủ trương, chính sách, nghị
quyết của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải thường xuyên xây
dựng và chỉnh đốn nhằm làm cho các thành phần đảng viên trong sạch, nâng cao
phẩm chất và năng lực của đội ngũ đảng viên để thực hiện nhiệm vụ cách mạng.
Đồng thời phải lựa chọn những người tốt trong giai cấp lao động kết nạp vào
Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam, từ ngày thành lập cho đến nay luôn luôn đặc biệt
quan tâm đến xây dựng đội ngũ đảng viên. Đảng coi vấn đề đảng viên là một vấn
đề chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng phụ thuộc một cách quyết định vào chất lượng đội ngũ đảng viên. Đảng là cơ
thể chính trị - xã hội sống, đảng viên là những tế bào cấu tạo nên Đảng, Đảng mạnh

là do chi bộ tốt, từng đảng viên mạnh. Đảng viên là chiến sĩ tiên phong của giai cấp
công nhân là người thay mặt Đảng dẫn dắt quần chúng.
Đảng viên là người tham gia hoạch định đường lối chính sách của Đảng để
lãnh đạo cách mạng đồng thời là người quyết định tổ chức thực hiện thắng lợi
đường lối, chính sách đó. Có đường lối chính trị đúng thì mới có cơ sở xây dựng
đội ngũ đảng viên đúng nhưng xét đến cùng đảng viên có vai trò to lớn, có ý
nghĩa quyết định sự thành bại của đường lối cả về xây dựng và tổ chức triển khai
thực hiện. Đội ngũ đảng viên có chất lượng tốt là yếu tố quan trọng đảm bảo cho
Đảng vững vàng, sáng tạo trong xây dựng đường lối chính trị cũng như trong tổ
chức thực hiện.
Đội ngũ đảng viên là tiền đề xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Xét trong
mối quan hệ Đảng với quần chúng thì bản thân mọi đảng viên là cán bộ của
Đảng, vì đảng viên gắn liền với tổ chức, bất cứ đảng viên nào cũng phải thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng. Có những đảng viên ưu tú mới cung cấp cho Đảng,
Nhà nước những cán bộ tốt, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong từng
thời kỳ lịch sử.
Đảng viên là cầu nối duy trì mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng: sức
mạnh của Đảng không chỉ ở bản thân Đảng mà là ở sự gắn bó mật thiết với nhân
dân. Quan hệ giữa Đảng với quần chúng là mối quan hệ máu thịt có ý nghĩa sống
còn đối với Đảng. Đảng viên là người “thay mặt” Đảng, sống và làm việc cùng với
quần chúng thực hiện nhiệm vụ của Đảng. Lênin đã chỉ rõ: Đảng viên sống trong
lòng quần chúng. Biết tôn trọng quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần chúng. Biết đến
với quần chúng, giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh căn dặn: lời nói và việc làm của đảng viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách
mạng vì nó ảnh hưởng đến quần chúng. Nếu đảng viên phạm sai lầm thì sẽ đưa
quần chúng đến sai lầm. Trong cách mạng XHCN mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân được thể hiện ở cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách của Đảng, thông
qua hoạt động của hệ thống tổ chức nhà nước và các đoàn thể nhân dân nhưng trực
tiếp nhất là thông qua hoạt động của đội ngũ đảng viên ở các tổ chức chi bộ đảng.
Tóm lại, công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác xây dựng đội

ngũ đảng viên nói riêng vốn đã quan trọng, hiện nay trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH việc xây dựng đội ngũ đảng viên càng quan trọng hơn. Sự sụp đổ
chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô đã làm thay đổi cục diện thế giới.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tìm mọi cách làm mất uy tín của
Đảng… Một số cơ sở, đảng viên đông nhưng tổ chức không mạnh. Chính vì
thế, trên cơ sở quán triệt các nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới, nắm vững
mục tiêu, nguyên tắc, yêu cầu, phương châm xây dựng chỉnh đốn Đảng, cần
kịp thời khẳng định được vai trò, vị trí đội ngũ đảng viên từ đó có những chủ
trương phát huy mạnh mẽ tính tiền phong gương mẫu, phẩm chất và năng lực
của họ góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
1.1.2. Thực trạng đội ngũ đảng viên và công tác xây dựng đội ngũ đảng
viên trước năm 1996
Trải qua đấu tranh cách mạng lâu dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
luôn chăm lo công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, trong đó vấn đề xây dựng đội ngũ đảng viên cả về chất
lượng và số lượng có vai trò đặc biệt quan trọng. Đảng chỉ mạnh khi các cơ quan
lãnh đạo và toàn thể đội ngũ đảng viên mạnh. Đội ngũ đảng viên hoạt động
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội khác nhau thật sự trong sạch, vững mạnh
là cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp đồng bộ, có chất
lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới. Đội ngũ đảng viên là lực
lượng nòng cốt trong phong trào cách mạng của quần chúng, đi đầu trong tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, là
cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Nhìn nhận một cách khách quan,
toàn diện Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ đảng viên và công tác phát triển đảng
viên trước năm 1996 là cơ sở để Đảng xác định những quan điểm, chủ trương
xây dựng đội ngũ đảng viên và công tác đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
Cuối năm 1975, Đảng ta có hơn 1,5 triệu đảng viên, đến năm 1995 đã lên
tới 2.128.742 người. Tuy nhiên, có một vài năm số lượng đảng viên giảm; cụ

thể, giai đoạn từ năm 1990 đến năm 1993. Song, nhìn chung đội ngũ đảng viên
ngày càng tăng. Trong cơ cấu đội ngũ đảng viên, số vào Đảng trước năm 1975
hiện có gần 50%. Đó là những thế hệ chiến sĩ cách mạng kiên cường trong đấu
tranh giành chính quyền trước Cách mạng Tháng Tám, trong kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Nhờ được tôi luyện trong môi trường đấu tranh lâu dài, gian
khổ và đầy hy sinh thử thách, đa số các đồng chí có tinh thần kiên định lập
trường cách mạng, có kinh nghiệm trong việc thực hiện vai trò lãnh đạo và công
tác vận động quần chúng. Số đảng viên vào Đảng sau năm 1975 ngày càng
tăng: giai đoạn đất nước đổi mới tăng từ 2.027.638 (năm 1986) lên 2.165.337
(năm 1989), số lượng đảng viên kết nạp ngày càng tăng: năm 1993 kết nạp
49.817 đảng viên, năm 1994 kết nạp 58.612 đảng viên, năm 1995 kết nạp 85.922
đảng viên [9, 78]. Một bộ phận các đồng chí này được rèn luyện, thử thách trong
những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, đa số trưởng thành trong những
năm hoà bình xây dựng đất nước. Đội ngũ này có mặt mạnh cơ bản là tuổi còn
trẻ, sức khoẻ tốt, có trình độ kiến thức về học vấn, chuyên môn nghiệp vụ khá,
có khả năng tiếp thu, nhạy bén với cái mới.
Nhìn chung, đội ngũ đảng viên của Đảng ta có những ưu điểm cơ bản về lòng
trung thành và kiên định với mục tiêu lý tưởng, về tinh thần khắc phục khó khăn, tận
tuỵ với nhiệm vụ được giao; số đông tiếp tục phát huy được tính tiền phong gương
mẫu, làm nòng cốt và lãnh đạo quần chúng trong sự nghiệp đổi mới. Công tác kiểm tra
việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng được đẩy mạnh, trong 5 năm
1991 - 1996 đã kiểm tra 2,5 triệu lượt đảng viên và trên 6 vạn tổ chức đảng [23, 61].
Từ đó đã nâng cao được một bước phẩm chất đạo đức và năng lực công tác của một
bộ phận đáng kể đảng viên. Không hiếm những đảng viên dù ở cương vị nào cũng đều
thể hiện mình là chiến sĩ cộng sản có lý tưởng và hành động theo đường lối của Đảng.
Trong đó nhiều đảng viên rất năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm trước dân, trước Đảng; tìm mọi cách thực hiện sáng tạo đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, có ý thức tổ chức kỷ luật, chú trọng xây dựng sự đoàn kết nội
bộ, đoàn kết toàn dân; bản thân sâu sát công việc và làm việc khẩn trương chất lượng
hiệu quả hơn. Họ là những tấm gương về lời nói đi đôi với việc làm, và dần dần biết

làm việc trong điều kiện kinh tế thị trường.
Trình độ học vấn, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ đảng
viên dần dần được nâng lên. Số đảng viên có trình độ lý luận học vấn phổ thông,
trung học chuyên nghiệp, trình độ đại học và cao đẳng, giáo sư, phó giáo sư ngày
càng tăng. Số đảng viên có trình độ học vấn tiểu học (cấp I) giảm dần từ 14,1%
(năm 1991), xuống 11,3% (năm 1995) và 10,4% (năm 1997). Số đảng viên có
trình độ học vấn trung học phổ thông (cấp III) ngày càng tăng, năm 1991 là
25,1% tăng lên 28,2% (năm 1995). Số đảng viên có trình độ trung học chuyên
nghiệp tăng từ 9,8% (năm 1986) lên 11,6% (năm 1995). Số đảng viên có trình
độ đại học và cao đẳng tăng từ 7,9% (năm 1986) lên 15,4% (năm 1997) và đảng
viên có trình độ tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư ngày càng tăng (từ 6.751 người năm
1993 lên 9.346 người năm 1996). Mặt khác, số đảng viên có trình độ trung cấp,
cao cấp lý luận ngày càng tăng. Trong đó trung cấp lý luận tăng từ 8,8% (năm
1986) lên 17,1% (năm 1995); cao cấp lý luận tăng từ 1,5% (năm 1986) lên 2,2%
(năm 1991) và 2,4% (năm 1997) [2, 248-282]. Năng lực tổ chức thực tiễn của
đội ngũ đảng viên đã có nhiều tiến bộ, ngày một thích ứng và hoạt động có hiệu
quả.
Đại bộ phận đảng viên có ý thức tổ chức kỷ luật cao, nghiêm chỉnh chấp
hành đường lối, Điều lệ Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, những qui
định của địa phương, phong cách làm việc kiểu thời chiến và trong cơ chế quản
lý tập trung bao cấp đã từng bước được thay đổi, phong cách làm việc khẩn
trương, khoa học được hình thành.
Trong công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên, Đảng đã chú trọng cả 3 mặt:
giáo dục, bồi dưỡng, chỉnh đốn và phát triển đảng viên mới. Từ sau khi có
NQTƯ ba (khoá VII) về đổi mới chỉnh đốn Đảng, công tác đảng viên đã được
tăng cường hơn, tạo một số chuyển biến mới. Cấp uỷ và tổ chức đảng đã chú
trọng việc kiểm tra, phân tích tình hình đảng viên để có hướng bồi dưỡng nâng
cao chất lượng; tiến hành phân công công tác, giao nhiệm vụ cụ thể cho đảng
viên theo địa bàn dân cư, phụ trách các hộ gia đình, theo đơn vị sản xuất kinh
doanh các nhóm chuyên đề… tỷ lệ đảng viên được phân công công tác ở nhiều

nơi tăng hơn trước (có nơi 60 - 70%). Đã bước đầu làm tốt công việc tổ chức và
hướng dẫn đảng viên nâng cao trình độ về mọi mặt như mở các lớp bổ túc văn
hoá, lý luận chính trị, quản lý kinh tế, chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ, ý
thức tự vươn lên trong học tập và tu dưỡng của đảng viên ở một số nơi, nhất là
trong số đảng viên trẻ có sự chuyển biến rõ hơn. Kết quả phân tích chất lượng
đảng viên cho thấy, trước khi có NQTƯ ba (khoá VII), số đảng viên đủ tư cách,
phấn đấu tốt thường chiếm tỷ lệ 30 – 40% nâng lên 50 – 60%.
Công tác phát triển đảng viên đã được quan tâm và có sự chuyển biến mới.
Từ năm 1992 đến năm 1995 số đảng viên kết nạp liên tục tăng, riêng năm 1995
tăng hơn 2 lần so với năm 1992. Đã khắc phục tình trạng số lượng đảng viên
mới kết nạp liên tục giảm trong 4 năm 1988 - 1991. Thu hẹp hơn diện các thôn
xóm, ấp, bản lâu nay chưa có đảng viên. Theo thống kê của 17 tỉnh, thành, ở các
thôn, xóm, ấp, bản trong 3 năm 1992 - 1994 đã có thêm 282 nơi có đảng viên và
389 nơi lập thêm được chi bộ đảng.
Bên cạnh những điểm mạnh trong xây dựng đội ngũ đảng viên và công tác
giáo dục rèn luyện đảng viên còn nổi lên một số điểm hạn chế sau đây:
Trong bước ngoặt của cách mạng nước ta hơn mười năm qua nếu như quan
điểm, bản lĩnh, phẩm chất chính trị, tư tưởng và cá nhân của đảng viên được bộc
lộ và phát huy mạnh mẽ không kém gì trong những thời điểm bước ngoặt của
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trước đây thì những hạn chế, thiếu sót cũng
thể hiện ra khá rõ rệt. Từ đó làm phát sinh những vấn đề mới mẻ và khá phức tạp
cho công tác xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi, của quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
Một bộ phận đảng viên vào Đảng trong thời kỳ chiến tranh và ở một số
vùng nông thôn ít có điều kiện được đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống, do đó trình
độ năng lực công tác bị hạn chế hoặc khó khăn về hoàn cảnh gia đình, sức khoẻ
giảm sút… nên chưa phát huy được vai trò tiên phong và năng lực lãnh đạo theo

×