Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN HIỆP ĐỨC QUẢNG NAM TỪ 1996 ĐẾN 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.51 KB, 29 trang )

CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA
ĐẢNG BỘ HUYỆN HIỆP ĐỨC QUẢNG NAM TỪ 1996 ĐẾN
2005
1.1. Chủ trương của Đảng bộ huyện Hiệp Đức về xoá đói giảm
nghèo từ 1996 đến 2005
1.1.1. Điều kiện tự nhiên xã hội và thực trạng đói nghèo ở huyện Hiệp
Đức
- Về điều kiện tự nhiên
Huyện Hiệp Đức nằm trên trục toạ độ địa lý từ15
o
22

12
’’
đến
15
o
38

44
’’
vĩ độ Bắc, từ 107
o
84’40
’’
đến 108
0
00’08” kinh độ Đông; là một
huyện miền núi. Diện tích tự nhiên là 49.177 ha, gồm có 11 xã, thị trấn,
trong đó có 2 xã miền núi cao là Phước Gia, Phước Trà.
Địa hình chung toàn huyện có dạng chuyển tiếp giữa trung du và


miền núi với địa hình phức tạp, độ chênh lớn. Độ cao trung bình là 200-
300m, độ dốc bình quân là 16-25
o
. Toàn huyện có 3 dạng địa hình chủ
yếu là dạng núi, dạng gò đồi, dạng đồng bằng thung lũng. Dạng núi chiếm
50% diện tích tự nhiên, có độ dốc lớn (nhiều nơi trên 30
o
). Dạng gò đồi
chiếm khoảng 35% diện tích, độ dốc thay đổi từ 5- 10
o
. Dạng đồng bằng
thung lũng chiếm 15% diện tích, độ dốc thay đổi từ 5-10
o
.
Hệ thống sông suối trong huyện rất dày nhưng phân bố không đều.
Lòng sông hẹp, mùa mưa lưu lượng tăng, mùa khô cạn kiệt. Do các sông
suối đều có độ đốc lớn nên vào mùa mưa tiềm ẩn nguy cơ lũ quét rất lớn.
Khí hậu ở Hiệp Đức mang đặc trưng chung của khí hậu nhiệt đới gió
mùa. Nhiệt độ trung bình năm là 25
o
C. Hàng năm có trên 1700 giờ nắng.
Lượng mưa hàng năm trên 2000mm. Độ ẩm không khí trung bình 80%.
Biên độ chênh lệch nhiệt giữa ngày và đêm không lớn, cùng với số giờ
nắng cao tạo điều kiện cho cây trồng phát triển. Song do lượng mưa tập
trung chủ yếu vào tháng 9,10 (chiếm 50%- 72% lượng mưa hàng năm)
nên thường gây lũ lụt lớn. Từ tháng 2 đến tháng 7 hàng năm thường xảy
ra hạn hán kéo dài, gây ảnh hưởng không nhỏ đến mùa vụ.
Về giao thông: Hiệp Đức có trục giao thông chính là Quốc lộ 14E dài
36km từ Việt An (Bình Lâm) đến Bà Huỳnh (Phước Trà). Đây là trục
quốc lộ nối liền liền giữa quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh. Ngoài ra

còn có các tuyến đường giao thông liên huyện, liên xã. Giao thông đường
thuỷ ở Hiệp Đức cũng khá thuận lợi với tuyến sông Tranh nối liền với
sông Thu Bồn và xuôi về Hội An.
Trên địa bàn huyện Hiệp Đức có 8 loại đất, trong đó, đất đỏ vàng trên
đá sét và biến chất (F3 chiếm 47% diện tích) rất thích hợp cho cây trồng
lâu năm, cây ăn quả và cây công nghiệp nhưng dễ bị xói mòn, rửa trôi.
Đất đỏ vàng trên đá Macma acid chiếm 30% tổng diện tích, thích hợp cho
việc phát triển, tái sinh rừng. Đất phù sa được bồi (F6) và đất phù sa
ngoài suối (F9) chiếm 5% diện tích, phù hợp với trồng các loại hoa màu
và lúa nước.
Thảm thực vật ở Hiệp Đức khá phong phú. Trong rừng có nhiều loại
gỗ quý như: gỗ sến, lim…(trữ lượng gỗ là 1.108.118 m
3
) và nhiều loại
lâm dược quý như trầm hương,sa nhân, đỗ trọng ...
Trong lòng đất Hiệp Đức có các loại khoáng sản như: than đá ở Hiệp
Hoà, đá vôi ở Bà Huỳnh , đất cao lanh ở Quế Thọ, vàng sa khoáng rải rác
ở ven sông suối.
Nhìn chung, với địa hình phức tạp, thổ nhưỡng nghèo nàn, diện tích
chủ yếu là rừng và đất trống đồi trọc, khí hậu tương đối khắc nghiệt cùng
với các điều kiện phục vụ sản xuất của nhân dân còn hạn chế nên có tác
động rất lớn đến quá trình phát triển của huyện Hiệp Đức. Nhưng với lợi
thế khả năng mở rộng diện tích đất nông nghiệp, kết hợp với lợi thế về
lâm nghiệp và vị trí chiến lược quan trọng của huyện, Hiệp Đức có đủ
điều kiện để đẩy mạnh sản xuất, phát triển mọi mặt về kinh tế xã hội.
- Về điều kiện xã hội:
Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 Hiệp Đức là phần đất thuộc
phủ Thăng Bình và huyện Quế Sơn. Từ sau Cách mạng Tháng 8 năm
1945 đến trước năm 1985 Hiệp Đức đã trải qua nhiều lần sát nhập vào các
huyện khác nhau như: Thăng Bình, Tiên Phước, Quế Sơn, Phước Sơn.

Tháng 12 năm 1985, xuất phát từ đặc điểm tình hình cụ thể và theo
nguyện vọng của đông đảo nhân dân, Chính phủ đã quyết định thành lập
huyện Hiệp Đức, gồm 10 xã và 1 thị trấn.
Tính đến cuối năm 1999, dân số Hiệp Đức là 37.515 người với 8328
hộ. Mật độ dân số là 76 người/km
2
. Người Kinh chiếm 94,54% dân số. Số
người trong độ tuổi lao động là 20.317 người (chiếm 54,14% dân số toàn
huyện), trong đó có khả năng lao động là 19.870 người (chiếm 52,96%).
Nằm sâu ở phía tây Hiệp Đức có 2 xã Phước Gia và Phước Trà, là địa
bàn sinh sống của của đồng bào Bhnoong (dân tộc Giẻ Triêng) và
Cadoong, chiếm 5,46% dân số toàn huyện. Đây là khu vực xa trung tâm,
nghèo nàn, lạc hậu nhất huyện.
Về kinh tế, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, hơn 80% (năm 2000) với
91,6% lao động nông nghiệp. Lâm nghiệp có một vị trí quan trọng trong cơ
cấu tổng thể các ngành kinh tế. Hiện nay toàn huyện có 16.256ha rừng tự
nhiên và 1.515 ha rừng trồng. Các ngành tiểu thủ công nghiệp và công
nghiệp nhìn chung là quy mô nhỏ bé, phát triển chậm, chủ yếu là xay xát
gạo, ép đường thủ công, ép dầu lạc và chế biến nông lâm sản tại địa ph-
ương như: sản xuất dầu thực vật, gia công song mây xuất khẩu và sản xuất
hàng mộc dân dụng...
Về tình hình chính trị, Hiệp Đức là vùng đất có truyền thống đấu tranh
cách mạng, đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân vì những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Hiện nay, Đảng bộ và nhân dân Hiệp Đức đang
đoàn kết, nỗ lực khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định chính trị và trật tự
xã hội, tập trung phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên,
với âm mưu diễn biến hoà bình của kẻ thù, đòi hỏi cán bộ, đảng viên, nhân
dân đề cao cảnh giác, đoàn kết, phấn đấu xây dựng Hiệp Đức phát triển ổn
định và giàu mạnh .

Về tình hình xã hội: trong những năm qua, Hiệp Đức đã chú trọng
thực hiện hiệu quả nhiều chính sách xã hội như xây dựng nhà tình nghĩa,
tặng sổ vàng tiết kiệm cho các gia đình chính sách, chi nhiều tỷ đồng cho
chương trình XĐQN... Tuy nhiên, bên cạnh đó, thực trạng gia tăng các tệ
nạn xã hội, phân hoá giàu nghèo... đang tồn tại và là vấn đề bức xúc, cần
tập trung giải quyết hiện nay.
Về văn hoá: Hiệp Đức là vùng đất hiếu học, trong thời phong kiến đã
có nhiều người đỗ đạt cao. Hiện nay, nhiều con em của huyện đã và đang
học tại nhiều trường đại học lớn trên cả nước. Đây là nguồn nhân lực quan
trọng, đáp ứng yêu cầu phát triển của Huyện trong giai đoạn hiện nay. Mặt
khác, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và lịch sử đấu tranh gian khổ đã hình
thành con người Hiệp Đức với nét tính cách: kiên trì, bền bỉ, chịu thương,
chịu khó, dám đương đầu với mọi thử thách. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của
nền sản xuất nông nghiệp, con người nơi đây cũng ít nhiều mang tư tưởng
tiểu nông, kém năng động, quen thụ động, trông chờ, ỷ lại... Điều này cản
trở không nhỏ đến quá trình phát triển sản xuất ở Huyện, đặc biệt là trong
thực hiện các mô hình kinh tế mới.
Mặc dù điều kiện tự nhiên, xã hội có nhiều khó khăn nhưng thuận lợi
vẫn là cơ bản. Đây chính là tiền đề quan trọng để Hiệp Đức nỗ lực phấn
đấu xây dựng thành một huyện: “vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh
về quốc phòng, có đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân phát triển”
[8,49].
- Thực trạng đói nghèo ở huyện Hiệp Đức:
+ Một số tiêu chí đánh giá đói nghèo
Căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội đã công bố chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005
như sau: những người có thu nhập dưới mức quy định như sau được xếp
vào nhóm hộ nghèo:
Vùng đô thị là 150.000VNĐ/người/tháng (1,8 triệu/người/năm)
tương đương với khoảng 0,33USD/người /ngày.

Vùng nông thôn đồng bằng là 100.000VNĐ/người/tháng (1,2
triệu/người/năm).
Vùng nông thôn miền núi là 80.000 VNĐ/người/tháng (0,96
triệu/người/năm).
Ngoài tiêu chí xác định hộ nghèo, Việt Nam còn có tiêu chí xác
định xã nghèo và xã đặc biệt khó khăn. Xã đặc biệt khó khăn là xã dựa
trên 5 tiêu chí sau:
Một là, vị trí địa lý của xã xa trung tâm kinh tế-xã hội, xa đường
quốc lộ, giao thông đi lại khó khăn.
Hai là, môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, còn
nhiều tập tục lạc hậu
Ba là, trình độ sản xuất lạc hậu, chủ yếu mang tính tự cấp, công cụ
thô sơ
Bốn là, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, mức sống
thấp.
Năm là, hạ tầng cơ sở chưa phát triển, chưa đủ các công trình thiết
yếu như điện, đường giao thông, trường học, trạm xá, nước sạch, chợ
xã…
Xã nghèo là xã dựa trên 2 tiêu chí sau: Tỉ lệ hộ nghèo trên 25%, chưa
đủ 3 trên tổng số 6 công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu (điện, đường giao
thông, trường học, trạm y tế, chợ và nước sạch).
+ Thực trạng đói nghèo ở huyện Hiệp Đức.
Hộ đói nghèo: Để đánh giá đúng thực trạng đói nghèo ở Hiệp Đức
phải căn cứ vào 2 tiêu thức: thu nhập và khả năng tiếp cận, hưởng thụ các
dịch vụ xã hội. Bởi vì đây là 2 tiêu thức cơ bản, phản ánh trực tiếp mức
sống hay mức độ thực hiện các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của đời sống,
làm cơ sở xác định chuẩn mực, giới hạn hộ đói nghèo.
Về tiêu thức thu nhập: căn cứ vào chuẩn nghèo được Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội công bố và mức sống thực tế của địa phương, tỉnh
Quảng Nam đã xác định chuẩn đói nghèo với hộ dân cư sinh sống trên địa

bàn Tỉnh giai đoạn từ năm 1993 đến năm 1995 là: hộ nghèo là hộ có mức
thu nhập bình quân dưới mức quy định như sau:
Đối với khu vực thành thị là 70.000VNĐ/người/tháng (0.84
triệu/người/năm).
Đối với khu vực nông thôn đồng bằng là 50.000 VNĐ /người/tháng
(0,6 triệu/người/năm).
Đối với khu vực nông thôn miền núi là 40.000VNĐ/người/tháng
(0,48 triệu/người/ năm).
Theo chuẩn nghèo đã được xác định ở trên, năm 1993 trên toàn
huyện có 5052 hộ với 23.659 khẩu thuộc diện đói nghèo chiếm tỷ lệ
66,67% dân số toàn huyện, trong đó có 1859 hộ với 8516 khẩu thuộc diện
đói, chiếm 23,97% [17, 1]. Năm 1995 toàn huyện có 4320 hộ thuộc diện
đói nghèo (chiếm 45,64% tổng số hộ) với số khẩu thuộc diện nghèo đói là
18.556 khẩu (chiếm 46,26% tổng số dân toàn huyện), trong đó có: 2869
hộ nghèo (chiếm 30,57%) và 1451 hộ đói (chiếm 15,69%), 11.725 khẩu
nghèo (chiếm 29,61%) và 6831 khẩu đói (chiếm 16,65 %). Hai xã có tỷ lệ
hộ đói nghèo cao nhất là xã Bình Lâm (889 hộ với 3645 khẩu) và xã Quế
Thọ (774 hộ với 3019 khẩu) [19, 15].
Về tiêu thức khả năng tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội của
người nghèo. Qua con số thống kê hàng năm của phòng Lao động,
Thương binh và Xã hội cho thấy tình trạng thiếu thốn khá toàn diện về
khả năng tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội của người dân Hiệp
Đức. Năm 1991, toàn Huyện có trên 80% các hộ gia đình ở nhà tranh
vách đất, tỉ lệ hộ có nhà ngói chỉ đạt 17% [11, 180]. Chỉ có 50% số xã có
đường dây truyền thanh của huyện vươn tới, người dân chưa được tiếp
cận với thông tin truyền hình [11, 180], mạng điện lưới quốc gia chưa
được hạ thế, toàn huyện phải sử dụng đèn dầu. Cả huyện với diện tích
49177 ha và dân số hơn 37000 người nhưng chỉ có 2 chợ hoạt động,
không đáp ứng được yêu cầu trao đổi, mua bán của người dân. Về giáo
dục, vẫn còn 6,2% phòng học phổ thông và 26,6% phòng học mẫu giáo ở

dạng tạm bợ tranh, tre, nứa [11, 191]. Trung bình 3,5 người dân mới có 1
người đi học. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 49,5%, tỉ lệ tiêm chủng cho
trẻ em mới đạt 57%, tỉ lệ sốt rét là 4,4% [11, 192]. Đặc biệt, đến năm
1995, ở 2 xã Phước Gia, Phước Trà vẫn còn một bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số chưa được định canh, định cư. Ở Phước Gia là 30 hộ, Phước
Trà là 47 hộ [ 11, 190].
Xã nghèo: Cùng với xác định hộ đói nghèo, Đảng bộ huyện Hiệp Đức
cũng đã xác định những xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn để tập trung giải
quyết. “Toàn huyện có 2 xã nghèo và 5 xã đặc biệt khó khăn” [18, 1]. Đó
là các xã Bình Lâm, Bình Sơn, Thăng Phước, Quế Lưu, Hiệp Hoà, Phước
Gia, Phước Trà. Đây đều là các xã có điều kiện thổ nhưỡng không thuận
lợi, điều kiện giao thông chưa phát triển, xa trung tâm huyện. Ở các xã này,
còn thiếu thốn rất nhiều, thậm chí là chưa có các cơ sở hạ tầng thiết yếu
như điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế… tỷ lệ hộ nghèo chiếm
khá cao, từ 25-30% số hộ.
Những con số trên đã phác hoạ một bức tranh chung nhất về thực
trạng đói nghèo ở huyện Hiệp Đức. Điều đó cũng cho thấy, đối với Đảng
bộ huyện Hiệp Đức, XĐGN thật sự là một yêu cầu cấp bách, cần phải tập
trung giải quyết.
- Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo ở huyện Hiệp Đức.
Nghèo đói ở huyện Hiệp Đức là hậu quả tổng hợp của nhiều nguyên
nhân. Có thể phân chia thành 3 nhóm cơ bản sau:
Một là, nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên, môi trường kinh
tế, xã hội không thuận lợi.
Về môi trường tự nhiên không thuận lợi, đó là: đất đai ít màu mỡ, cằn
cỗi, độ dốc lớn, bị ảnh hưởng của bom mìn, chất độc hoá học. Đây là
nguyên nhân làm cho năng suất cây trồng, vật nuôi thấp, thu nhập người
lao động không đủ ăn, không có điều kiện tái sản xuất mở rộng. Vị trí địa
lý không thuận lợi, xa các trung tâm, giao thông cách trở, đi lại khó khăn
cũng là nguyên nhân dễn đến đói nghèo ở huyện. Ngoài ra, đói nghèo còn

do điều kiện khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra hạn hán,
lũ lụt.
Bên cạnh đó, môi trường kinh tế thiếu thốn về giao thông, điện,
nước… một mặt làm ảnh hưởng đến khả năng sản xuất, mặt khác làm cho
người dân không có điều kiện tham gia nền kinh tế hàng hoá, đặc biệt là
đối với 2 xã vùng sâu là Phước Gia và Phước Trà. Ở đây vẫn đang tồn tại
kiểu kinh tế tự cấp, tự túc, sản xuất lạc hậu: chọc lỗ, tỉa hạt…
Môi trường xã hội vẫn còn tồn tại nhiều hủ tục như ma chay, cưới
xin, cúng bái tốn kém; các vấn đề y tế, giáo dục, văn hoá chưa đáp ứng đủ
yêu cầu, làm cho người dân không tiếp cận đầy đủ các dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ, học tập, đào tạo nghề…
Hai là, nhóm nguyên nhân thuộc về chủ quan người nghèo. Đây là
nhóm nguyên nhân cơ bản nhất, quyết định chủ yếu đến tình trạng nghèo
đói ở huyện Hiệp Đức, biểu hiện:
Thứ nhất, nghèo đói do không có kinh nghiệm làm ăn, không biết
cách sản xuất kinh doanh. Do vậy, hiệu quả lao động sản xuất thấp, kinh
tế luôn ở tình trạng bấp bênh. Qua điều tra trong tổng số 2517 hộ đói
nghèo năm 2001 có đến 693 hộ thiếu kinh nghiệm làm ăn, chiếm 27,53%
[18, 1].
Thứ hai, nghèo đói do thiếu hoặc không có vốn. Đây là nguyên nhân
rất quan trọng, vì thiếu vốn, người lao động không có điều kiện tham gia
vào kinh tế. Qua điều tra như trên, có 280 hộ thiếu vốn, chiếm 11,12%.
Thứ ba, nghèo đói do thiếu lao động, đông người ăn theo. Nguyên
nhân này rơi vào những gia đình đông con, nhưng con còn nhỏ, do đó,
người làm thì ít, người ăn thì nhiều, thu nhập không đủ đáp ứng được nhu
cầu tiêu dùng. Vì vậy họ rơi vào đói nghèo. Thiếu lao động còn rơi vào
những gia đình già cả, neo đơn, không nơi nương tựa. Đối với những gia
đình này, Huyện phải thường xuyên dùng chính sách trợ cấp để bảo đảm
cuộc sống cho họ. Qua điều tra, có tổng số 180/2517 hộ thuộc diện thiếu
lao động, chiếm 7,15%, 567/2517 hộ đông người ăn theo, chiếm 22,52%.

Ngoài ra, nghèo đói còn do không có việc làm, do gặp rủi ro, bệnh
tật, do thiếu đất sản xuất và do một bộ phận người dân mắc phải các tệ
nạn xã hội như cờ bạc, ma tuý, thậm chí do chây lười lao động.
Ba là, nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách như thiếu đồng
bộ về chính sách đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó
khăn; chính sách khuyến nông, khuyến lâm, vốn tín dụng, đào tạo nghề;
chính sách định cư… Bên cạnh đó, chính quyền và đội ngũ cán bộ làm
công tác XĐGN ở một số xã còn yếu về năng lực, trách nhiệm…
Mỗi đối tượng đói nghèo có nguyên nhân riêng, có thể có một hoặc
nhiều nguyên nhhân, việc phân loại chúng chỉ là tương đối. Thông
thường, các nguyên nhân đan xen, tác động lẫn nhau. Do đó, để XĐGN
có hiệu quả, phải tìm hiểu, xác định đúng nguyên nhân, đặc biệt là nguyên
nhân cơ bản đối với từng đối tượng cụ thể.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ huyện Hiệp Đức về xoá đói giảm
nghèo từ 1996 đến 2005
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xoá đói giảm nghèo.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định chỉ có tiến hành cách mạng vô
sản, xoá bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới, xã hội XHCN,
thì mới xoá bỏ được mọi áp bức, bóc lột, bất công, mọi người sống bình
đẳng và không có đói nghèo.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, thấu hiểu ước nguyện của nhân
dân lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng đấu tranh để xây
dựng một xã hội mới ở Việt Nam, xã hội XHCN mà trong đó: “nhân dân đủ
ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già
không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán xấu dần dần được
xoá bỏ. Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần
ngày càng tốt” [13, 591].
Phấn đấu vì mục tiêu đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng ta luôn quan tâm sâu sát đến mọi mặt đời sống nhân dân. Tuy
nhiên, một thực tế là hiện nay, nước ta vẫn đang là một trong những nước

nghèo nhất thế giới. Các chỉ tiêu kinh tế bình quân đầu người rất thấp, tỉ
lệ hộ đói, nghèo cao, tập trung ở nông thôn với sản xuất thuần nông, quy
mô nhỏ và lạc hậu. Do vậy, XĐGN là một yêu cầu cấp bách đặt ra, đòi
hỏi phải có sự lãnh đạo đúng đắn và kịp thời của Đảng ta.
Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “Cùng với quá trình
đổi mới, tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành công tác xoá đói giảm nghèo,
thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hoá giàu nghèo quá giới hạn
cho phép” [2, 73]. Trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2000,
Đảng cũng nêu rõ: “Lấy phân phối theo lao động làm hình thức chính,
khuyến khích làm giàu đi đôi với giảm số người nghèo, nâng cao phúc lợi
xã hội, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế” [1, 9]. Đến Nghị quyết
Trung ương 5 khoá VII, chủ trương XĐGN được cụ thể hoá thêm: “Phải
trợ giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn,
hình thành quỹ xoá đói giảm nghèo ở địa phương trên cơ sở giúp dân,
Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài chính quốc tế, phấn đấu
tăng hộ giàu, đi đôi với xoá đói giảm nghèo” [5, 52].
Như vậy, quan điểm chỉ đạo XĐGN nhất quán của Đảng ta là:
Một là, cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế phải tiến hành
công cuộc XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, bình đẳng giới, giảm sự
phân hoá giàu nghèo.

×